Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với việc xây dựng giai cấp công nhân ở Việt Nam hiện nay

TÓM TẮT

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang tác động mạnh mẽ, toàn diện đến đời sống kinh

tế - xã hội của các quốc gia trên thế giới. Đứng trước bối cảnh đó, các nước trên thế giới đều đã có

những bước đi đầu tiên nhằm thích ứng và tận dụng cuộc cách mạng này. Việt Nam đang trong quá

trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, “phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước

công nghiệp theo hướng hiện đại”. Thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa làm

cho nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại đó là trách nhiệm của toàn Đảng,

toàn dân mà giai cấp công nhân là nòng cốt. Sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là một điều kiện

tiên quyết bảo đảm thành công của công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, điều

đó đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta cần nhạy bén, nắm bắt cơ hội của cuộc cách mạng công nghiệp lần

thứ tư, điều chỉnh chiến lược và cách thức xây dựng giai cấp công nhân sao cho phù hợp, để giai

cấp công nhân phát huy vai trò và trách nhiệm của lực lượng đi đầu trong quá trình đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bài nghiên cứu giới thiệu khái quát về cuộc cách mạng công

nghiệp lần thứ tư; tầm quan trọng của chiến lược xây dựng giai cấp công nhân; thực trạng giai cấp

công nhân Việt Nam và đề xuất một số giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong bối

cảnh của cuộc CMCN 4.0.

pdf 7 trang phuongnguyen 180
Bạn đang xem tài liệu "Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với việc xây dựng giai cấp công nhân ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với việc xây dựng giai cấp công nhân ở Việt Nam hiện nay

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với việc xây dựng giai cấp công nhân ở Việt Nam hiện nay
142
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ VỚI VIỆC 
XÂY DỰNG GIAI CẤP CÔNG NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
 Nguyễn Khánh Vân* 
TÓM TẮT
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang tác động mạnh mẽ, toàn diện đến đời sống kinh 
tế - xã hội của các quốc gia trên thế giới. Đứng trước bối cảnh đó, các nước trên thế giới đều đã có 
những bước đi đầu tiên nhằm thích ứng và tận dụng cuộc cách mạng này. Việt Nam đang trong quá 
trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, “phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước 
công nghiệp theo hướng hiện đại”. Thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa làm 
cho nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại đó là trách nhiệm của toàn Đảng, 
toàn dân mà giai cấp công nhân là nòng cốt. Sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là một điều kiện 
tiên quyết bảo đảm thành công của công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, điều 
đó đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta cần nhạy bén, nắm bắt cơ hội của cuộc cách mạng công nghiệp lần 
thứ tư, điều chỉnh chiến lược và cách thức xây dựng giai cấp công nhân sao cho phù hợp, để giai 
cấp công nhân phát huy vai trò và trách nhiệm của lực lượng đi đầu trong quá trình đẩy mạnh công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bài nghiên cứu giới thiệu khái quát về cuộc cách mạng công 
nghiệp lần thứ tư; tầm quan trọng của chiến lược xây dựng giai cấp công nhân; thực trạng giai cấp 
công nhân Việt Nam và đề xuất một số giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong bối 
cảnh của cuộc CMCN 4.0. 
Từ khóa: Xây dựng, giai cấp công nhân, cách mạng công nghiệp
THE FOURTH INDUSTRIAL NETWORK WITH THE ESTABLISHMENT 
OF WORKERS GRANT IN VIETNAM TODAY
ABSTRACT
The fourth industrial revolution has had a strong and comprehensive impact on the socio-
economic life of countries around the world. Facing that context, all countries in the world have taken 
the first steps to adapt and take advantage of this revolution. Vietnam is in the process of stepping up 
industrialization and modernization, “striving to soon turn our country basically into an industrialized 
country towards modernization.” Successfully implementing the goal of industrialization and 
modernization makes our country a modernized industrialized country, which is the responsibility 
of the entire Party and people and the working class is the core. The growth of the working class is 
a prerequisite to ensure the success of the country’s renewal, industrialization and modernization, 
which requires the Party and the State to be alert and seize opportunities. Meeting of the Fourth 
Industrial Revolution, adjusting strategies and ways to build the working class appropriately, so 
that the working class can promote the role and responsibility of the leading force in the process of 
pushing. strong industrialization and modernization of the country. The paper presents an overview 
of the fourth industrial revolution; the importance of working-class construction strategy; current 
situation of Vietnamese working class and propose some solutions to build Vietnamese working class 
in the context of the 4.0 industrial revolution.
Keywords: Construction, working class, industrial revolution
* TS. GV. Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh
143
Cách mạng công nghiệp...
1. KHÁI QUÁT VỀ CÁCH MẠNG CÔNG 
NGHIỆP LẦN THỨ TƯ (CMCN 4.0)
 Sự phát triển của lịch sử nhân loại đã diễn 
ra nhiều cuộc cách mạng, các cuộc cách mạng 
xã hội nổ ra đã làm thay đổi cĕn bản về chất 
trong toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội, 
là phương thức chuyển từ một hình thái kinh tế - 
xã hội lỗi thời lên một hình thái kinh tế - xã hội 
mới ở trình độ phát triển cao hơn. Còn nói đến 
cuộc cách mạng công nghiệp là nói đến sự thay 
đổi “về chất” của sự phát triển, tác động mạnh 
đến đời sống kinh tế, xã hội của loài người. Tạo 
ra hàng loạt những thay đổi sâu sắc trong toàn 
bộ các hệ thống kinh tế và kết cấu xã hội.
 Tính đến nay, sự phát triển của lịch sử 
nhân loại đã và đang trải qua 4 cuộc cách mạng 
công nghiệp. 
 Cuộc cách mạng công nghiệp lần đầu 
tiên được châm ngòi từ Anh, khởi đầu từ nĕm 
1760 đến khoảng nĕm 1840, với việc xây dựng 
các tuyến đường sắt và phát minh ra động cơ 
hơi nước, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch 
sử nhân loại – kỷ nguyên sản xuất cơ khí. Nước 
Anh là quốc gia đi tiên phong trong cuộc cách 
mạng công nghiệp lần thứ nhất, đã trở thành 
“công xưởng của thế giới”. 
 Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai, 
nổ ra tại Mỹ, được bắt đầu vào cuối thế kỷ XIX 
và đầu thế kỷ XX, với sự xuất hiện của sản xuất 
hàng loạt, được thúc đẩy bởi sự ra đời của điện 
và dây truyền lắp ráp. Mở ra kỷ nguyên sản xuất 
hàng loạt.
 Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 
ba bắt đầu vào những nĕm thập niên 1960 và 
thường được gọi là cuộc cách mạng máy tính 
hay cách mạng số vì nó được xúc tác bởi sự 
phát triển của chất bán dẫn, siên máy tính (thập 
niên 1960), máy tính cá nhân (thập niên 1970 và 
1980) và Internet (thập niên 1990)
 Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư 
khởi nguồn từ Đức vào những nĕm đầu thế kỷ 
XXI. Khái niệm Industry 4.0 hay là cuộc cách 
mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) lần 
đầu tiên được đề cập trong bản kế hoạch hành 
động chiến lược công nghệ cao được Chính phủ 
CHLB Đức thông qua vào nĕm 2012.
 Theo GS.Klaus Schwab, Chủ tịch Diễn 
đàn Kinh tế Thế giới ( WEF), Industry 4.0 hay 
là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư ( 
CMCN 4.0), là một thuật ngữ bao gồm một loạt 
các công nghệ tự động hóa hiện đại, trao đổi dữ 
liệu và chế tạo. CMCN 4.0 được định nghĩa là 
“một cụm thuật ngữ cho các công nghệ và khái 
niệm của tổ chức trong chuỗi giá trị” đi cùng với 
các hệ thống vật lý trong không gian ảo, Internet 
của vạn vật và Internet của các dịch vụ. CMCN 
4.0 tạo điều kiện thuận lợi cho việc tạo ra các 
nhà máy thông minh. Trong các nhà máy thông 
minh này, các hệ thống vật lý không gian ảo sẽ 
giám sát các quá trình vật lý, tạo ra một bản sao 
ảo của thế giới vật lý. Với Internet của vạn vật, 
các hệ thống vật lý không gian ảo này tương tác 
với nhau và với con người theo thời gian thực, 
và thông qua Internet của các dịch vụ thì người 
dùng sẽ được tham gia vào chuỗi giá trị thông 
qua việc sử dụng các dịch vụ này. Bản chất của 
CMCN 4.0 là dựa trên nền tảng công nghệ số và 
tích hợp tất cả các công nghệ thông minh để tối 
ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất; nhấn 
mạnh những công nghệ đang và sẽ có tác động 
lớn nhất là công nghệ in 3D, công nghệ sinh 
học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động 
hóa, người máy,
 Như vậy, có thể thấy, CMCN 4.0 về cơ 
bản khác với ba cuộc cách mạng công nghiệp 
trước đó, bởi lẽ, CMCN 4.0 không chỉ là về các 
máy móc, hệ thống thông minh và được kết nối, 
mà còn có phạm vi rộng lớn hơn nhiều. Đó là 
các làn sóng của những đột phá xa hơn trong 
các lĩnh vực khác nhau từ mã hóa chuỗi gen cho 
tới công nghệ nano, từ các nĕng lượng tái tạo 
tới tính toán lượng tử. CMCN 4.0 là sự dung 
hợp của các công nghệ này và sự tương tác của 
chúng trên các lĩnh vực vật lý, số và sinh học. 
CMCN 4.0 đang tạo ra và được kỳ vọng sẽ tạo 
ra các lợi ích hết sức to lớn. CMCN 4.0 sẽ giúp 
sản xuất phát triển mạnh mẽ, nĕng suất lao động 
tĕng cao, mức thu nhập toàn cầu tĕng. Các sản 
phẩm và dịch vụ mới do CMCN 4.0 tạo ra làm 
cho cuộc sống của con người trở nên thuận lợi 
hơn và nĕng suất hơn. CMCN 4.0 đã và đang 
ảnh hưởng sâu rộng đến phát triển kinh tế, xã 
hội, chính trị và địa lý của các nước trên thế 
giới. Cuộc CMCN 4.0 đang tác động sâu sắc 
vào sản xuẩt, vào quản lý và đời sống xã hội nói 
chung, đang đòi hỏi sự biến đổi sâu sắc tính chất, 
phương thức lao động của công nhân, lao động 
bằng trí óc, bằng nĕng lực trí tuệ, bằng sức sáng 
tạo sẽ ngày càng tĕng lên, lao động giản đơn, 
cơ bắp trong truyền thống sẽ giảm dần bởi sự hỗ 
trợ của máy móc, của công nghệ hiện đại, trong 
đó có vai trò của công nghệ thông tin. Chính vì 
cơ hội và lợi ích to lớn mà CMCN 4.0 mang lại, 
nhiều nước trên thế giới đã cĕn cứ vào trình độ 
144
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
phát triển, thực tiễn của quốc gia, mà có nhận 
thức và đối sách khác nhau đối với CMCN 
4.0, nhanh chóng nắm bắt cơ hội, triển khai 
nhiều chương trình, chiến lược để thực hiện 
CMCN 4.0. 
2. XÂY DỰNG GIAI CẤP CÔNG NHÂN 
LỚN MẠNH CẢ VỀ SỐ LƯỢNG VÀ 
CHẤT LƯỢNG TRƯỚC BỐI CẢNH 
CUỘC CMCN 4.0 - VẤN ĐỀ CÓ TẦM 
QUAN TRỌNG CHIẾN LƯỢC CỦA CÁCH 
MẠNG VIỆT NAM
Kể từ khi ra đời cho đến nay Đảng 
Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo giai cấp công 
nhân, nhân dân lao động và dân tộc ta làm nên 
thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, nĕm 1945, 
đánh đổ đế quốc thực dân phong kiến, giành lại 
nền độc lập tự do của Tổ quốc, hoàn thành cách 
mạng giải phóng dân tộc, từng bước quá độ lên 
CNXH bỏ qua chế độ TBCN và ngày nay đang 
đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH, 
HĐH, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu: 
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, vĕn 
minh. Đây là quy luật phát triển của cách mạng 
Việt Nam trong thời đại mới. Đây cũng là thể 
hiện trọng trách lãnh đạo cầm quyền của Đảng 
ta. Đồng thời, cũng là sự thể hiện tập trung nhất 
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt 
Nam - trước đây cũng như hiện nay và mai sau. 
Trong tiến trình lịch sử ấy, giai cấp công nhân 
nước ta luôn luôn là giai cấp tiên phong cách 
mạng. Là đội tiên phong của giai cấp công nhân 
đồng thời là đội tiên phong của dân tộc, Đảng là 
đại biểu chân chính cho lợi ích của giai cấp, của 
nhân dân và của cả dân tộc. Sở dĩ Đảng ta trở 
thành Đảng cách mạng chân chính, dạn dày kinh 
nghiệm đấu tranh cách mạng, có bản lĩnh chính 
trị vững vàng đủ sức vượt qua mọi thử thách từ 
trước đến nay vì Đảng mang bản chất giai cấp 
công nhân, gắn bó máu thịt với nhân dân, kiên 
định chủ nghĩa Mác - Lênin và trung thành với 
chủ nghĩa quốc tế chân chính của giai cấp công 
nhân.Tính triệt để cách mạng, tính tiền phong 
chiến đấu của giai cấp công nhân và sức mạnh 
đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân 
tộc với sức mạnh thời đại được thể hiện đậm 
nét và nhất quán trong bản chất Đảng, trong sức 
mạnh tổ chức và hành động của Đảng. Chính 
giai cấp công nhân, khối liên minh công - nông 
trước đây và liên minh công - nông - trí thức hiện 
nay gắn liền mật thiết với việc không ngừng mở 
rộng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân, 
trong đó liên minh công - nông - trí thức là nền 
tảng và nòng cốt đã trở thành cơ sở xã hội rộng 
lớn và bền vững của Đảng, của cách mạng nước 
ta. Sức sống, sức chiến đấu và nĕng lực hành 
động của Đảng cách mạng tùy thuộc trước hết 
vào sức mạnh của giai cấp công nhân - đây là 
cơ sở xã hội quan trọng và trực tiếp nhất làm 
cho Đảng vững mạnh. Đây cũng là chỗ dựa tin 
cậy, để bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ, chẳng 
những thế, sự lớn mạnh của giai cấp công nhân 
còn là chỗ dựa tin cậy để củng cố khối liên minh 
giai cấp và đoàn kết xã hội trong toàn thể cộng 
đồng dân tộc. Từ sứ mệnh lịch sử của mình, giai 
cấp công nhân lớn mạnh không chỉ vì bản thân 
nó, mà sâu xa, cĕn bản hơn là vì sự vững mạnh, 
trong sạch của Đảng, vì thắng lợi của cách mạng 
và xây dựng thành công CNXH ở nước ta. Xây 
dựng giai cấp công nhân lớn mạnh cùng với sự 
lớn mạnh của công đoàn- tổ chức chính trị- xã 
hội của công nhân và lao động nước ta còn góp 
phần quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc 
XHCN, thúc đẩy đổi mới và nâng cao chất lượng 
hoạt động của hệ thống chính trị, xây dựng nền 
dân chủ và Nhà nước pháp quyền. Đó là sự vững 
mạnh của chế độ chính trị, là đảm bảo chính trị 
cho tiến trình đổi mới kinh tế, phát triển mạnh 
mẽ nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và 
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay của 
nước ta. Ý nghĩa và tầm quan trọng chiến lược 
của việc xây dựng giai cấp công nhân nước ta là 
ở đó. Mặt khác, hiện nay, nước ta đang thực hiện 
sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH, phấn đấu sớm 
đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp 
theo hướng hiện đại. Bài toán kinh tế xã hội này 
sẽ tìm thấy lời giải ở đâu, nếu không phải là ra 
sức xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh cả về 
lượng và chất, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh 
tế thị trường và hội nhập, chẳng những thế còn 
phải vươn tới trình độ phát triển của kinh tế tri 
thức trong kỷ nguyên xã hội thông tin và cách 
mạng khoa học công nghệ.
Giai cấp công nhân lớn mạnh và vững 
mạnh về mọi mặt là nguồn nhân lực quan trọng 
nhất trong cơ cấu nguồn nhân lực của nước ta. 
Đó cũng là nguồn vốn xã hội hàng đầu để phát 
triển kinh tế và vĕn hóa, đưa nước ta tiến tới vĕn 
minh, hiện đại.
Nói riêng về giai cấp công nhân, giai 
cấp công nhân nước ta hiện đang có mặt trong 
mọi thành phần kinh tế, mọi khu vực kinh tế. Với 
gần 9 triệu công nhân và lao động trong tổng số 
dân 87 triệu người, rõ ràng số lượng công nhân, 
nhất là công nhân trí thức, làm chủ KH- CN hiện 
145
Cách mạng công nghiệp...
đại còn quá ít. Vì vậy, phát triển nhanh số lượng 
công nhân và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi 
dưỡng nghề, chú trọng đội ngũ công nhân trí 
thức trẻ, giàu nĕng lực sáng tạo đã trở thành một 
đòi hỏi hết sức bức xúc. Không đảm bảo chất 
lượng cao đối với công nhân, không thể làm cho 
kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo và cùng 
với kinh tế tập thể thành nền tảng của nền kinh 
tế quốc dân. Trong khu vực kinh tế tư nhân và 
kinh tế tư bản nước ngoài, nếu công nhân không 
đảm bảo về chất lượng, tay nghề, chuyên môn, 
nghiệp vụ, kỹ nĕng sản xuất và kỷ luật lao động 
thì chẳng những không gia tĕng sự phát triển 
vốn rất cần thiết ở những khu vực, thành phần 
này mà còn làm thiệt hại ngay đến quyền lợi của 
chính công nhân và lao động. Tổ chức Đảng, 
các tổ chức đoàn thể chính trị -xã hội của công 
nhân, lao động ở đây lại đang rất yếu kém, thậm 
chí nhiều nơi chưa hình thành, đời sống vĕn hóa 
tinh thần của công nhân, lao động lại càng hạn 
chế. Các vụ việc đình công, bãi công, những 
mâu thuẫn, xung đột giữa chủ và thợ vẫn thường 
xảy ra, theo chiều hướng gia tĕng mà lý do nổi 
bật và chủ yếu là ở chỗ, những lợi ích và quyền 
của họ bị vi phạm, bị xâm phạm. Tình hình đó 
càng cho thấy, xây dựng giai cấp công nhân, có 
chiến lược phát triển giai cấp công nhân, hoạch 
định và thực thi chính sách quốc gia đối với 
công nhân và lao động theo tinh thần NQTW 
6, khóa X càng là một đòi hỏi rất cấp thiết hiện 
nay. Đây thực sự là vấn đề ở tầm chiến lược, 
một trong những vấn đề cốt yếu trong lãnh đạo 
chính trị của Đảng với tư cách Đảng Cộng sản 
cầm quyền.
3. XÂY DỰNG GIAI CẤP CÔNG NHÂN 
VIỆT NAM HIỆN NAY – VẤN ĐỀ VÀ GIẢI 
PHÁP, CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH
Trước hết, cần nhận rõ hiện trạng giai 
cấp công nhân ở nước ta trong điều kiện phát 
triển kinh tế thị trường, nhất là trong bối cảnh 
của cuộc CMCN 4.0.Từ hiện trạng này có thể 
thấy mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển của xã 
hội hiện đại đang đặt ra với những hạn chế, bất 
cập của giai cấp công nhân, mâu thuẫn giữa nhu 
cầu về việc làm, đời sống, nâng cao mức sống về 
vật chất cũng như chất lượng cuộc sống về vĕn 
hóa, tinh thần c ... ợp với 
sự đồng bộ của các giải pháp, tạo ra những nỗ 
lực đồng thuận của cả xã hội cùng hướng vào 
xây dựng và phát triển giai cấp công nhân; coi 
công nhân là chủ thể của quá trình phát triển, 
lực lượng đi đầu trong sự nghiệp đẩy mạnh 
CNH, HĐH. Họ cũng là đối tượng quan tâm của 
Nhà nước và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh 
tế để có thể được thụ hưởng lợi ích một cách 
chính đáng, công bằng, tương xứng với những 
đóng góp và cống hiến của họ. Trong xã hội 
đang đổi mới, đang từng bước chuyển thành xã 
hội công nghiệp, đang theo đuổi những giá trị 
mục tiêu công bằng -dân chủ -vĕn minh, hơn ai 
hết, mỗi công nhân - phải tiếp cận được cơ hội 
và các điều kiện phát triển, cảm nhận được từ 
thực tế những triển vọng phát triển của mình qua 
các chỉ số về việc làm, đời sống, tiền lương, tiền 
146
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
thưởng, nghề - nghiệp tại nơi làm việc. Được 
như vậy, những cố gắng của xã hội kết hợp được 
với những nỗ lực, chủ động, sáng tạo của công 
nhân sẽ tạo ra sự phát triển tích cực của giai cấp 
công nhân cả về số lượng, cơ cấu, trình độ, chất 
lượng. Nhờ đó giai cấp công nhân và các tổ chức 
công đoàn có đóng góp xứng đáng vào phát triển 
và tiến bộ xã hội, tự khẳng định mình với tư 
cách là giai cấp cách mạng.
Từ quan niệm chung nêu trên, cần phải 
làm rõ một số vấn đề nổi bật về thực trạng giai 
cấp công nhân và phong trào công đoàn ở nước 
ta hiện nay: 
Thứ nhất, việc làm và đời sống của 
công nhân ở nước ta, dù đã được cải thiện đáng 
kể qua 30 nĕm đổi mới, nhưng vẫn là vấn đề bức 
xúc nhất hiện nay, nhất là bộ phận công nhân lao 
động chân tay, cơ bắp, chưa qua đào tạo chuyên 
môn và công nhân làm thuê trong các doanh 
nghiệp của tư bản nước ngoài. Cường độ lao 
động của họ rất cĕng thẳng, tiền lương không đủ 
sống. Môi trường lao động chưa được cải thiện. 
Tiếng ồn, nồng độ bụi, khí thải công nghiệp 
đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe công 
nhân. Công nhân lao động làm thuê trong các 
doanh nghiệp tư bản nước ngoài hầu như không 
có nhà ở. Họ phải tự thuê nhà ở trọ trong điều 
kiện chật chội, mất vệ sinh và quản lý an ninh 
trật tự yếu kém nên đã diễn ra rất nhiều vấn đề 
xã hội phức tạp nhức nhối. Lao động cĕng thẳng, 
gần như kiệt sức nên sau một ngày lao động, họ 
dường như không còn biết gì đến nhu cầu vĕn 
hóa tinh thần. Ở nhiều nơi, công nhân còn bị 
ràng buộc bởi những quy định khắt khe, vô lý, 
thậm chí bị trừ lương, đuổi việc, làm thêm giờ, 
hợp đồng lao động không được tôn trọng từ phía 
người sử dụng lao động. Không ít công nhân nữ 
còn bị xúc phạm về nhân phẩm. Đa số các vụ 
đình công, bãi công tự phát của công nhân liên 
tiếp xảy ra và gia tĕng đều xoay quanh vấn đề 
tiền lương, tiền thưởng, giờ lao động kéo dài và 
không đảm bảo điều kiện lao động, sinh sống. 
Đây là vấn đề nhức nhối mà Nhà nước và các tổ 
chức công đoàn phải có trách nhiệm bảo vệ họ.
Thứ hai, do nước ta vẫn còn là một 
nước nông nghiệp, đa số lao động là nông dân 
làm nông nghiệp nên giai cấp công nhân nước 
ta so với dân số và tổng lực lượng lao động xã 
hội vẫn còn nhỏ bé. Việc đẩy mạnh CNH, HĐH 
đòi hỏi phải phát triển nhanh số lượng trong 
giai cấp công nhân. Trên thực tế, một phần lớn 
lao động tuy gọi là công nhân vì họ đã làm việc 
trong môi trường công nghiệp nhưng thực chất 
lại chưa phải là công nhân theo đúng nghĩa của 
nó. Cả về trình độ học vấn, kỹ thuật, tay nghề, 
tâm lý, lối sống, họ vẫn mang đậm nét nông dân 
sản xuất nhỏ. Công nhân nước ta đa số xuất thân 
từ nông dân. Do đó việc đào tạo nghề và nâng 
cao chất lượng nghề trở thành một vấn đề lớn, 
nổi bật đối với công nhân và lao động ở nước ta 
hiện nay. Chất lượng đội ngũ công nhân là vấn 
đề hàng đầu. Phải đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ 
này sao cho họ có đủ nĕng lực, nhất là nĕng lực 
ứng dụng và sáng tạo công nghệ; thích ứng với 
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Đó là con 
đường cơ bản để công nhân giỏi nghề, thạo việc, 
làm việc có nĕng suất - chất lượng - hiệu quả, từ 
đó mới có tiền lương xứng đáng, mới có cuộc 
sống vật chất - tinh thần đảm bảo, có triển vọng 
nghề nghiệp và vị thế xã hội. Trong xã hội công 
nghiệp và hiện đại, công nhân có trình độ công 
nghệ cao, công nhân trí thức, sáng tạo sẽ có vai 
trò ngày càng lớn chứ không phải công nhân lao 
động giản đơn, chân tay, cơ bắp. Họ mới là nòng 
cốt, trong cơ cấu giai cấp công nhân và thể hiện 
trực tiếp vai trò, sứ mệnh lịch sử giai cấp công 
nhân trong thế kỷ XXI. Đây là điều rất hệ trọng 
đối với tương lai của giai cấp công nhân và lao 
động ở nước ta, nó sẽ gắn liền với vai trò, sứ 
mệnh của Đảng, sự bền vững của chế độ ta mà 
Đảng và Nhà nước phải đặc biệt quan tâm.
Thứ ba, công đoàn là tổ chức chính trị 
-xã hội của công nhân và lao động, là một thành 
viên quan trọng của hệ thống chính trị. Dù đã 
có nhiều nỗ lực để đổi mới tổ chức, nội dung và 
phương thức hoạt động nhưng công đoàn vẫn 
còn không ít hạn chế, chưa có đựơc vị trí và vai 
trò xứng đáng trong các doanh nghiệp, trong 
quan hệ với các chủ doanh nghiệp, các giám đốc 
công ty, tổng công ty, nhất là trong khu vực kinh 
tế tư nhân và tư bản nước ngoài. Do đó, công 
đoàn chưa làm tốt chức nĕng bảo vệ lợi ích cho 
công nhân và lao động, đó là chưa nói đến chức 
nĕng giáo dục chính trị, tư tưởng và tổ chức đời 
sống vĕn hóa tinh thần cho công nhân và lao 
động, nhất là quan tâm tới đời sống, sự tiến bộ 
và bình đẳng giới cho nữ công nhân và lao động.
Sự phụ thuộc, lệ thuộc và chính quyền, 
tính hình thức và hành chính trong hoạt động đã 
làm cho công đoàn ít tác dụng, không lôi cuốn 
được công nhân và lao động mà lẽ ra công đoàn 
phải thực sự là chỗ dựa tin cậy và gắn bó của 
bản thân họ.
Thứ tư, các tổ chức Đảng, các cấp ủy 
147
Cách mạng công nghiệp...
cũng chưa thường xuyên quan tâm và đầu tư 
đúng mức để chĕm lo phát triển giai cấp công 
nhân và phong trào công đoàn. Đi vào kinh tế 
thị trường, nhiều khi chúng ta đã chỉ thấy lợi 
ích kinh tế, quan tâm tới kinh doanh, mức tĕng 
trưởng kinh tế và lợi nhuận mà đã buông lỏng, 
xem nhẹ giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, 
vĕn hóa. Nó dẫn đến nhiều hiện tượng lệch lạc, 
tiêu cực về mặt xã hội, trong các quan hệ xã hội, 
kể cả những lệch lạc tiêu cực trong công nhân, 
nhất là công nhân trẻ, cả trong khu vực kinh 
tế Nhà nước và trong khu vực kinh tế tư nhân. 
Yếu kém và sơ hở này phải được nhanh chóng 
khắc phục. Chính sách, cơ chế, luật pháp của 
nhà nước lại chậm thay đổi và không ít trường 
hợp cũng không nhất quán. Do đó, việc chĕm lo 
tới lợi ích, thực hiện công bằng xã hội cho công 
nhân, bảo vệ lợi ích và tạo động lực cho họ phát 
triển đã không được đảm bảo thường xuyên, 
còn nhiều thiết hụt và bất cập. Trong vấn đề này, 
cần phải tạo ra được chuyển biến cĕn bản để 
cải thiện đời sống công nhân, nhất là công nhân 
trong khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. 
Không nên quên rằng, đình công, bãi công lan 
rộng của công nhân chẳng những ảnh hưởng 
tới sản xuất- kinh doanh mà còn dẫn tới mất ổn 
định xã hội và chính trị, gây bất lợi cho đổi mới 
và phát triển. Đảng, Nhà nước, công đoàn phải 
nhanh chóng có giải pháp, nhất là xác lập trách 
nhiệm rõ ràng, có cơ chế, chế tài minh bạch giữa 
các bên theo hợp đồng lao động, theo luật đầu 
tư, luật doanh nghiệp, luật lao động và luật công 
đoàn. Phải đảm bảo về quyền và lợi ích của công 
nhân trong khi vẫn đẩy mạnh thu hút đầu tư và 
tạo điều kiện cho các chủ đầu tư nước ngoài làm 
ĕn, kinh doanh ở Việt Nam. Vấn đề là ở chỗ, 
phải tuân thủ đúng luật pháp, thực hiện dân chủ, 
công bằng, bình đẳng, giải quyết đúng đắn các 
quan hệ lợi ích giữa các bên.
Thứ nĕm, do những sự quan tâm tới 
công nhân không đúng mức nên ở nước ta đang 
có những biểu hiện lệch lạc về cơ cấu xã hội, dẫn 
đến tình trạng “nhiều thầy ít thợ”, đã và đang 
mất đi một truyền thống quy báu là gia đình 
công nhân truyền thống nhiều đời. Các thợ giỏi, 
các “bàn tay vàng” trong đội ngũ công nhân đã 
bị mai một nghiêm trọng. Thế hệ trẻ chỉ thấy 
triển vọng lập thân lập nghiệp bằng cách vào 
Đại học. Các bậc làm cha mẹ, kể cả cha mẹ làm 
công nhân cũng không muốn cho con em mình 
theo đuổi nghề thợ, làm thợ. Nền giáo dục nước 
ta vốn lạc hậu và suy thoái nghiêm trọng, kéo dài 
cùng với cả xã hội phải gánh chịu trách nhiệm 
này. Quản lý xã hội cũng không thể không quan 
tâm giải quyết vấn đề xã hội rất trái tự nhiên này. 
Từ 5 tình huống có vấn đề nêu trên, cần phải 
nhận thức và hành động như thế nào về chính 
sách với công nhân và tiến tới có một chiến lược 
xây dựng, phát triển giai cấp công nhân Việt 
Nam theo tinh thần NQTW 6, khóa X của Đảng, 
trước bối cảnh của cuộc CMCN 4.0.
Dưới đây là một số đề xuất và kiến nghị 
bước đầu đối với Đảng và Nhà nước.
Thứ nhất, tạo chuyển biến nhận thức 
từ trong Đảng đến ngoài xã hội để có sự quan 
tâm chung đối với công nhân, coi đây là nguồn 
nhân lực chủ yếu, trọng yếu quyết định thành 
công của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Giáo 
dục ý thức giai cấp trong công nhân, nhất là đối 
với thế hệ công nhân trẻ. Đặt vấn đề này một 
cách đúng mức trong giáo dục lý luận chính trị 
của Đảng, trong xây dựng Đảng về chính trị để 
giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng. 
Giác ngộ về ý thức giai cấp, tình cảm và niềm tự 
hào giai cấp là cơ sở để hình thành bản lĩnh giai 
cấp công nhân, về vai trò sứ mệnh lịch sử giai 
cấp công nhân. Phương diện chính trị tư tưởng 
này phải được đặc biệt coi trọng trong xây dựng 
và phát triển giai cấp công nhân Việt Nam cả về 
số lượng và chất lượng. Đây là việc cơ bản và 
lâu dài. 
Thứ hai, thực hiện nghiêm chỉnh các 
giải pháp mà Đảng đã đề ra trong NQTW 6 khóa 
X về giai cấp công nhân. Trong đó, cần phải tập 
trung sửa đổi, ban hành chính sách quốc gia 
đối với công nhân và lao động. Cấp thiết nhất 
lúc này là đảm bảo việc làm ổn định, xây dựng 
và thực hiện thang bậc lương, mức lương, mức 
thưởng cho công nhân, đảm bảo cho công nhân 
và gia đình họ có đời sống no đủ, con em họ 
không thất học, bỏ học vì nghèo khổ. Nhà nước 
phải đặc biệt quy định về chính sách và chế tài 
để các chủ doanh nghiệp tư nhân phải trả lương 
cho lao động mà họ sử dụng sao cho lợi ích 
hợp pháp chính dáng của công nhân không bị 
vi phạm, đảm bảo ổn định và an toàn cho cuộc 
sống, thân thể, sức khỏe của họ. Giải quyết nhà 
ở và an toàn lao động cho công nhân bằng các 
quy định về bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội.
Trong các giải pháp về giai cấp công 
nhân mà NQTW 6 khóa X đề ra, cần phải chú 
trọng mở mang và phát triển giáo dục chuyên 
nghiệp, dạy nghề, đào tạo nghề cho công nhân 
bằng nhiều hình thức và mô hình. Có hệ thống 
148
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
trường công lập của Nhà nước ở Trung ương và 
địa phương, có trường dân lập, trường lớp đào 
tạo trong doanh nghiệp, công ty, tập đoàn chú 
trọng các nghề mới, sử dụng công nghệ hiện đại. 
Phân luồng đào tạo, cân đối giữa đào tạo nghề 
với đào tạo đại học, gây dựng dư luận xã hội tích 
cực để cổ vũ, tôn vinh nghề thợ, người thợ. Coi 
các thợ giỏi, bàn tay vàng, thợ bậc cao là vốn 
quý, là chất xám của xã hội, chứ chất xám không 
chỉ nói về trí thức khoa học. Khôi phục và phát 
triển truyền thống gia đình công nhân nhiều đời 
bằng các đòn bẩy kích thích lợi ích. Dĩ nhiên, 
trong đà phát triển của xã hội hiện đại, mô hình 
này phải là công nhân hiện đại, công nhân trí 
thức sáng tạo, công nhân tài nĕng làm chủ kỹ 
thuật - công nghệ.
Thứ ba, kết hợp tri thức hóa với trí thức 
hóa công nhân, xây dựng đội ngũ công nhân trí 
thức trong giai cấp công nhân Việt Nam, coi đây 
là nòng cốt để phát triển giai cấp công nhân. Tri 
thức hóa công nhân là phổ cập và nâng cao trình 
độ học vấn phổ thông cho đông đảo công nhân 
và lao động, gắn với nâng cao dân trí, xây dựng 
xã hội học tập, đào tạo nhân lực chất lượng cao. 
Còn trí thức hóa công nhân là sớm hình thành 
đội ngũ công nhân trí thức trong các ngành 
kinh tế mũi nhọn, trọng điểm quốc gia, có kiến 
thức, kỹ nĕng, tay nghề cao, hiện đại, lao động 
bằng trí óc, sáng tạo như trí thức. Có chính sách 
khuyến khích công nhân học tập vươn tới công 
nhân trí thức. 
Thứ tư, quan tâm phát triển Đảng trong 
công nhân, nhất là công nhân trẻ, công nhân 
trí thức, gắn xây dựng giai cấp công nhân với 
xây dựng Đảng và đẩy mạnh đổi mới hệ thống 
chính trị. Muốn thực sự coi xây dựng Đảng là 
then chốt thì phải đặc biệt chú trọng xây dựng 
giai cấp công nhân, củng cố sự vững mạnh của 
công nhân và công đoàn, coi đây là cơ sở xã hội 
chủ yếu nhất để xây dựng Đảng, Nhà nước, bảo 
vệ Đảng, Nhà nước và chế độ nói chung. Thực 
hành dân chủ, quy chế và pháp lệnh dân chủ 
tại các cơ sở doanh nghiệp và công ty, trong 
công nhân và công đoàn. Dựa vào giai cấp 
công nhân, vào quần chúng công nhân và lao 
động để xây dựng và củng cố nền dân chủ, nhà 
nước pháp quyền, triệt để chống tham nhũng, 
chống diễn biến hòa bình, phòng ngừa nguy cơ 
tự diễn biến hòa bình,
 Thứ nĕm, tiếp tục đổi mới công đoàn và 
hệ thống chính trị nói chung, dân chủ hóa đời 
sống công nhân, các tổ chức và phong trào công 
đoàn, làm cho công đoàn có sức sống, hấp dẫn, 
lôi cuốn công nhân tham gia quản lý và tự quản 
lý tại cơ sở nơi làm việc.
 Thứ sáu, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và 
tổng kết thực tiễn về công nhân và công đoàn, 
đặc biệt ở các thành phố lớn. 
4. KẾT LUẬN
 Cuộc CMCN 4.0 đang tác động sâu sắc 
vào sản xuẩt, vào quản lý và đời sống xã hội nói 
chung, đang đòi hỏi sự biến đổi sâu sắc tính chất, 
phương thức lao động của công nhân. Trong môi 
trường kinh tế - xã hội đổi mới, trong đà phát 
triển mạnh mẽ của CMCN 4.0, giai cấp công 
nhân Việt Nam đứng trước thời cơ phát triển 
và những thách thức, nguy cơ trong phát triển. 
Do vậy, xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam 
trong bối cảnh của cuộc CMCN 4.0 trở thành 
vấn đề hệ trọng đối với phát triển nhanh và bền 
vững ở nước ta. 5 giải pháp lớn, chủ yếu nêu 
trên có ý nghĩa là những nhóm giải pháp nhằm 
vào xây dựng và phát triển giai cấp công nhân ở 
nước ta, đáp ứng những đòi hỏi của quá trình đẩy 
mạnh CNH, HĐH đất nước và xây dựng CNXH 
ở nước ta trong bối cảnh của cuộc CMCN 4.0. 
Thực hiện những giải pháp này cũng như thực 
hiện các nhiệm vụ mà NQTW 6, khóa X của 
Đảng đã vạch ra là trách nhiệm của hệ thống 
chính trị, của bản thân giai cấp công nhân và các 
tổ chức công đoàn, của mỗi người, mỗi tổ chức 
trong cả nước, ở tất cả các cấp, các ngành. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Khoa học và Công nghệ, Báo cáo về 
CMCN 4.0, 4/ 2017. 
2. Báo cáo của Diễn đàn Kinh tế Thế giới, 
9/2015.
3. Báo cáo của Diễn đàn Kinh tế Thế giới, 2012- 
2013
4. Đảng cộng sản Việt Nam, Vĕn kiện hội nghị 
lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa 
X. Nxb CTQG, H. 2008.
5. Đảng cộng sản Việt Nam, Vĕn kiện ĐHĐB 
toàn quốc lần thứ X. Nxb.CTQG, H.2006.
6. Giai cấp công nhân Việt Nam – thực trạng và 
suy ngẫm. Tạp chí cộng sản số 23, nĕm 2007.
7. ĐCSVN: Vĕn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc 
lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011
8. ĐCSVN: Vĕn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc 
lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016,

File đính kèm:

  • pdfcach_mang_cong_nghiep_lan_thu_tu_voi_viec_xay_dung_giai_cap.pdf