Các sự cố khi sử dụng móng cọc khoan nhồi

Tóm tắt: Cọc khoan nhồi là loại cọc tiết diện tròn được thi công bằng cách

khoan tạo lỗ trong đất sau đó lấp đầy bằng bê tông cốt thép (BTCT). Cọc khoan

nhồi sử dụng nhiều cho công trình nhà cao tầng, công trình cầu hoặc nhà trong

khu vực xây chen, Tuy nhiên, trong thực tế xây dựng vì nhiều nguyên nhân

khác nhau mà sự cố cọc khoan nhồi xảy ra rất nhiều, điều này một mặt ảnh

hưởng đến tiến độ công trình, làm tăng chi phí đồng thời có thể ảnh hưởng đến

chất lượng chịu tải của móng. Do đó khi thi công móng cọc khoan nhồi chúng

ta phải biết được các sự cố có thể xảy ra để từ đó biết cách phòng tránh hoặc

xử lý đúng khi sự cố xảy ra

pdf 7 trang phuongnguyen 7680
Bạn đang xem tài liệu "Các sự cố khi sử dụng móng cọc khoan nhồi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các sự cố khi sử dụng móng cọc khoan nhồi

Các sự cố khi sử dụng móng cọc khoan nhồi
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2014 29 
CÁC SỰ CỐ KHI SỬ DỤNG MÓNG CỌC KHOAN NHỒI 
ThS. Phạm Ngọc Tân 
Phó Trưởng Khoa Xây dựng, Trường Đại học Xây dựng Miền Trung 
Tóm tắt: Cọc khoan nhồi là loại cọc tiết diện tròn được thi công bằng cách 
khoan tạo lỗ trong đất sau đó lấp đầy bằng bê tông cốt thép (BTCT). Cọc khoan 
nhồi sử dụng nhiều cho công trình nhà cao tầng, công trình cầu hoặc nhà trong 
khu vực xây chen,Tuy nhiên, trong thực tế xây dựng vì nhiều nguyên nhân 
khác nhau mà sự cố cọc khoan nhồi xảy ra rất nhiều, điều này một mặt ảnh 
hưởng đến tiến độ công trình, làm tăng chi phí đồng thời có thể ảnh hưởng đến 
chất lượng chịu tải của móng. Do đó khi thi công móng cọc khoan nhồi chúng 
ta phải biết được các sự cố có thể xảy ra để từ đó biết cách phòng tránh hoặc 
xử lý đúng khi sự cố xảy ra. 
Từ khóa: Cọc khoan nhồi, sự cố cọc nhồi. 
1. Đặc điểm, phạm vi áp dụng móng 
cọc nhồi 
- Cọc nhồi là loại cọc được chế tạo 
tại chỗ bằng cách tạo một hố khoan 
trong nền đất sau đó thi công trực tiếp 
vật liệu (thường là BTCT) vào các hố đó 
để hình thành cọc. Cọc nhồi thường gặp 
là cọc khoan nhồi. 
- Móng cọc khoan nhồi có thể áp 
dụng rộng rãi trong các ngành cầu 
đường, thuỷ lợi, xây dựng dân dụng và 
công nghiệp. Đặc biệt là các công trình 
có tải trọng lớn như cầu, nhà cao tầng 
hay công trình đặt trên nền đất yếu hoặc 
nhà xây chen ở các đô thị,... 
- Ở nước ta cọc khoan nhồi được 
sử dụng từ những năm 80, từ hình thức 
tạo lỗ bằng thủ công cho đến nay đã có 
những thiết bị hiện đại để tạo lỗ và đổ bê 
tông bằng các quy trình khác nhau. 
1.1. Những ưu điểm chính của cọc 
khoan nhồi 
+ Có sức chịu tải lớn, với đường 
kính lớn và chiều sâu lớn có thể tới hàng 
nghìn tấn. 
+ Thiết bị thi công nhỏ gọn nên 
có thể thi công trong điều kiện xây dựng 
chật hẹp. Trong quá trình thi công không 
gây trồi đất ở xung quanh, không gây 
lún nứt, các công trình kế cận và không 
ảnh hưởng đến các cọc xung quanh và 
phần nền móng và kết cấu của các công 
trình kế cận. 
+ Công nghệ thi công cọc khoan 
nhồi đã giải quyết các vấn đề kỹ thuật 
móng sâu trong nền địa chất phức tạp, ở 
những nơi mà các loại cọc đóng bằng 
búa xung kích hay búa rung có mặt cắt 
vuông hoặc tròn có đường kính D < 
600mm. Vì vậy có thể thi công cọc dễ 
dàng qua các lớp cát chặt dày mà cọc 
đóng hoặc ép khó xuyên qua được. 
+ Có thể mở rộng đường kính và 
tăng chiều dài cọc đến độ sâu tuỳ ý 
(đường kính phổ biến hiện nay từ 60 - 
250cm; chiều dài cọc đến 100m). Khi 
điều kiện địa chất và thiết bị thi công 
cho phép, có thể mở rộng mũi cọc hoặc 
mở rộng thân cọc để làm tăng sức chịu 
tải của cọc. 
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2014 30 
+ Lượng thép bố trí trong cọc 
thường ít hơn so với các loại cọc lắp 
ghép (với cọc đài thấp). 
+ Tính an toàn lao động cao hơn 
cọc ép. 
 1.2. Những khuyết điểm của cọc 
khoan nhồi 
+ Yêu cầu kỹ thuật thi công cao, 
khó kiểm tra chính xác chất lượng bê 
tông nhồi vào cọc, do đó đòi hỏi sự lành 
nghề của đội ngũ công nhân và việc 
giám sát chặt chẽ nhằm tuân thủ các quy 
trình thi công. Vì vậy, việc kiểm tra chất 
lượng cọc khoan nhồi rất phức tạp, gây 
ra tốn kém trong thi công. 
+ Ma sát thành cọc với đất giảm 
đi đáng kể so với cọc đóng và cọc ép do 
quá trình khoan tạo lỗ. 
+ Việc xử lý các khuyết tật của cọc 
khoan nhồi rất phức tạp (trong một số 
trường hợp phải bỏ đi để làm cọc mới). 
+ Công nghệ thi công đòi hỏi kỹ 
thuật cao để tránh các hiện tượng phân 
tầng khi thi công bê tông dưới nước có 
áp, cọc đi qua các lớp đất yếu có chiều 
dầy lớn. 
+ Giá thành cao hơn so với các 
phương án cọc đóng và cọc ép khi xây 
dựng các công trình thấp tầng (theo 
thống kê: khi công trình dưới 12 tầng giá 
thành phương án cọc khoan nhồi có thể 
cao hơn 2 - 2,5 lần so với phương án 
khác – nhưng khi xây dựng nhà cao tầng 
hay các cầu lớn, thì phương án cọc 
khoan nhồi lại hợp lý hơn). 
+ Môi trường thi công sình lầy, 
dơ bẩn. 
1.3. Các bước chính khi thiết kế móng 
cọc khoan nhồi 
- Xác định tải trọng xuống móng. 
- Chọn độ sâu chôn móng (cọc 
đài thấp). 
- Lựa chọn thông số cọc: Đường 
kính, chiều dài, bê tông cọc, thép dọc, 
- Tính toán sức chịu tải của cọc. 
- Xác định số lượng cọc, bố trí cọc. 
- Kiểm tra tải trọng đứng tác dụng 
lên cọc. 
- Kiểm tra khả năng chịu tải ngang. 
- Kiểm tra áp lực trên đất nền về 
điều kiện biến dạng (tính lún). 
- Tính toán cấu tạo đài cọc. 
Hình 1. Hạ lồng thép khi thi công cọc 
khoan nhồi 
2. Một số vấn đề cần lưu ý khi sử dụng 
cọc khoan nhồi 
Khi sử dụng cọc khoan nhồi, căn 
cứ vào tài liệu địa chất người thiết kế có 
thể xác định được chiều sâu cọc sao cho 
sức chịu tải của đất nền tương đương với 
sức chịu tải vật liệu của cọc (Pvl tương 
đương Pđn), điều này với phương pháp 
cọc đóng hoặc ép tĩnh không đạt được, 
đó là điều kiện đưa đến giải pháp nền 
móng hợp lý và kinh tế hơn. 
 Cọc khoan nhồi thường được thiết 
kế để mang tải lớn nên chất lượng của 
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2014 31 
cọc luôn luôn là vấn đề được quan tâm 
nhất. Khâu quan trọng nhất để quyết 
định chất lượng của cọc là khâu thi 
công, nó bao gồm cả kỹ thuật, thiết bị, 
năng lực của đơn vị thi công, sự nghiêm 
túc thực hiện quy trình công nghệ chặt 
chẽ, kinh nghiệm xử lý khi gặp các 
trường hợp cụ thể. 
 Tuy nhiên, trong thực tế vì nhiều lý 
do khác nhau mà sự cố cọc khoan nhồi 
xảy ra rất nhiều, điều này một mặt ảnh 
hưởng đến tiến độ công trình, làm tăng 
chi phí đồng thời có thể ảnh hưởng đến 
chất lượng chịu tải của móng. Do đó khi 
thi công móng cọc khoan nhồi chúng ta 
phải biết được các sự cố có thể xảy ra để 
từ đó biết cách phòng tránh hoặc xử lý 
đúng khi sự cố xảy ra. 
Dưới đây là một số sự cố thường 
gặp khi sử dụng cọc khoan nhồi: 
2.1. Sự cố không rút được gầu khoan lên 
- Khái quát công nghệ: Thông 
thường khi cọc phải xuyên qua cát 
chảy, sỏi dày thì dùng công nghệ khoan 
ống vách để giữ thành trong suốt quá 
trình khoan. Ống vách được giữ lại 
không rút lên. 
- Diễn biến sự cố: Do một nguyên 
nhân nào đó như mất điện máy phát, 
hỏng cẩu, v.v làm gián đoạn quá trình 
khoan cọc, cần phải rút đầu khoan lên 
ngay sau khi mất điện thì đầu khoan bị 
kẹt ở đáy lỗ không cẩu lên được cũng 
không thể nhổ lên được. 
- Nguyên nhân: Hiện tượng sập 
vách phần đất đã khoan dưới đáy ống 
vách chưa kịp hạ xảy ra ngay sau khi 
mất điện làm nghiêng đầu khoan, đầu 
khoan bị vướng vào đáy ống vách và bị 
toàn bộ phần đất sập xuống bao phủ. Do 
vậy không thể rút đầu khoan lên được. 
 - Biện pháp xử lý: 
Cách 1: Rút ống vách lên khoảng 
20 cm sau đó mới rút đầu khoan, sau khi 
rút được đầu khoan lên rồi sẽ lại hạ ngay 
ống vách xuống. 
Cách 2: Nếu không thể nhổ được 
ống vách do ống vách đã hạ sâu, lực ma 
sát lớn, ta phải dùng biện pháp xói hút. 
Cách tiến hành như sau: 
Dùng vòi xói áp lực cao xói hút 
phần đất đã bị sập và xói sâu xuống dưới 
đầu khoan mục đích làm cho đầu khoan 
trôi xuống dưới theo phương thẳng đứng 
để khỏi bị nghiêng vào thành vách. Sau 
đó mới cẩu rút đầu khoan. 
Lưu ý: Trong suốt quá trình xói hút 
luôn giữ cho mực nước trong lỗ khoan 
ổn định đầy trong ống vách để giữ ổn 
định thành lỗ khoan dưới đáy ống vách. 
2.2. Sự cố không tút được ống vách 
lên trong giải pháp sử dụng ống vách 
Nguyên nhân: Do điều kiện đất 
(chủ yếu là tầng cát). Lực ma sát giữa 
ống chống với đất ở xung quanh lớn hơn 
lực nhổ lên (lực nhổ và lực rung) hoặc 
khả năng cẩu lên của thiết bị làm lỗ 
không đủ. Trong tầng cát thì sự cố kẹp 
ống thường xảy ra, do ảnh hưởng của 
nước ngầm khá lớn, ngoài ra còn do ảnh 
hưởng của mật độ cát với việc cát cố kết 
lại dưới tác dụng của lực rung. Còn 
trong tầng sét, do lực dính tương đối lớn 
hoặc do tồn tại đất sét nở v.v... 
Ống vách hoặc thiết bị tạo lỗ 
nghiêng lệch nên thiết bị nhổ ống vách 
không phát huy hết được năng lực. 
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2014 32 
Lưỡi nhọn ống vách bị mài mòn 
lên làm tăng lực ma sát giữa ống vách 
với tầng đất. 
Thời gian giữa hai lần lắc ống dài 
quá cũng làm cho khó rút ống, đặc biệt là 
khi ống vách đã xuyên vào tầng chịu lực. 
Bê tông đổ một lượng quá lớn mới 
rút ống vách hoặc đổ bê tông có độ sụt 
quá thấp làm tăng ma sát giữa ống vách 
và bê tông. 
Biện pháp phòng ngừa, khắc phục: 
Chọn phương pháp thi công và 
thiết bị thi công đảm bảo năng lực thiết 
bị đủ đáp ứng nhu cầu cho công nghệ 
khoan cọc. 
Sau khi kết thúc việc làm lỗ và 
trước lúc đổ bê tông phải thường xuyên 
rung lắc ống, đồng thời phải thử nâng hạ 
ống lên một chút (khoảng 15 cm) để 
xem có rút được ống lên hay không. 
Trong lúc thử này không được đổ bê 
tông vào. 
Khi sử dụng năng lực của bản thân 
máy mà nhổ ống chống không lên được 
thì có thể thay bằng kích dầu có năng lực 
lớn để kích nhổ ống lên. 
Trước khi lắc ống lợi dụng van 
chuyển thao tác, lúc lắc với một góc độ 
nhỏ làm cho lực cản giảm đi, để cho nó 
từ từ trở lại trạng thái bình thường rồi lại 
nhổ lên, và phải đảm bảo hướng nhổ lên 
của máy trùng với hướng nhổ lên của 
ống. Nếu ống bị nghiêng lệch thì phải 
sửa đổi thế máy cho chuẩn. 
Nếu phát hiện ra lưỡi nhọn ống 
vách bị mài mòn phải kịp thời dùng 
phương pháp hàn chồng để bổ xung. 
2.3. Sự cố sập vách hố khoan 
Các nguyên nhân chủ yếu ở trạng 
thái tĩnh: 
+ Độ dài của ống vách tầng địa 
chất phía trên không đủ qua các tầng địa 
chất phức tạp. 
+ Duy trì áp lực cột dung dịch 
không đủ. 
+ Mực nước ngầm có áp lực 
tương đối cao; 
+ Trong tầng cuội sỏi có nước 
chảy hoặc không có nước, trong hố xuất 
hiện hiện tượng mất dung dịch. 
+ Tỷ trọng và nồng độ của dung 
dịch không đủ. 
+ Sử dụng dung dịch giữ thành 
không thoả đáng. 
+ Do tốc độ làm lỗ nhanh quá nên 
chưa kịp hình thành màng dung dịch ở 
trong lỗ. 
- Các nguyên nhân chủ yếu ở trạng 
thái động: 
+ Ống vách bị biến dạng đột ngột 
hoặc hình dạng không phù hợp. 
+ Ống vách bị đóng cong vênh, 
khi điều chỉnh lại làm cho đất bị bung ra. 
+ Dùng gầu ngoạm kiểu búa, khi 
đào hoặc xúc mạnh cuội sỏi dưới đáy ống 
vách làm cho đất ở xung quanh bị bung ra. 
+ Khi trực tiếp để bàn quay lên 
trên ống giữ, do phản lực chấn động 
hoặc quay làm giảm lực dính giữa ống 
vách với tầng đất. 
+ Khi hạ cốt thép va vào thành hố 
phá vỡ màng dung dịch hoặc thành hố. 
+ Thời gian chờ đổ bê tông quá lâu 
(qui định thông thường không quá 24 h) 
làm cho dụng dịch giữ thành bị tách nước 
dẫn đến phần dung dịch phía trên không 
đạt yêu cầu về tỷ trọng nên sập vách. 
- Ngoài ra còn có một nguyên nhân 
khá quan trọng khác là áp dụng công nghệ 
khoan không phù hợp với tầng địa chất. 
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2014 33 
- Các biện pháp đề phòng sụt lở 
thành hố: 
Tùy vào các nguyên nhân trên, để 
đề phòng sụt lở thành hố phải chú ý các 
vấn đề sau: 
+ Khi lắp dựng ống vách phải chú 
ý độ thẳng đứng của ống giữ. 
+ Công tác quản lý dung dịch 
chặt chẽ trong phương pháp thi công 
phản tuần hoàn. 
+ Khi xuất hiện nước ngầm có áp, 
tốt nhất là nên hạ ống vách qua tầng 
nước ngầm. Khi làm lỗ nếu gặp phải 
tầng cuội sỏi mà làm cho rò rỉ mất nhiều 
dung dịch thì phải dừng lại để xem xét 
nên tiếp tục xử lý hay thay đổi phương 
án. Vì vậy công tác điều tra khảo sát địa 
chất ban đầu rất quan trọng. 
+ Duy trì tốc độ khoan lỗ theo qui 
định tránh tình trạng tốc độ làm lỗ nhanh 
quá khiến màng dung dịch chưa kịp hình 
thành trên thành lỗ nên dễ bị sụt lở. 
+ Cần phải thường xuyên kiểm 
tra dung dịch trong quá trình chờ đổ bê 
tông để có giải pháp xử lý kịp thời tránh 
trường hợp dung dịch bị lắng đọng tách 
nước làm sập vách. 
+ Khi làm lỗ bằng guồng xoắn, để 
đề phòng đầu côn quay khi lên xuống 
làm sạt lở thành lỗ, phải thao tác với một 
tốc độ lên xuống thích hợp và phải điều 
chỉnh cho vừa phải thành ngoài của đầu 
côn quay với cạnh ngoài của dao cắt gọt 
cho có cự ly phù hợp. 
+ Khi thả khung cốt thép phải 
thực hiện cẩn thận tránh cho cốt thép va 
chạm mạnh vào thành lỗ. Sau khi thả 
khung cốt thép xong phải thực hiện việc 
dọn đất cát bị sạt lở, thường dùng 
phương pháp trộn phun nước, sau đó 
dùng phương pháp không khí đẩy nước, 
bơm cát v.v... để hút thứ bùn trộn đẩy 
lên, lúc này phải chú ý bơm nước áp lực 
không được quá mạnh tránh làm cho lỗ 
khoan bị phá hoại nhiều hơn. 
+ Khi làm lỗ bằng guồng xoắn, để 
đề phòng đầu cuộn quay khi lên xuống 
làm sạt lở thành lỗ, phải thao tác với một 
tốc độ lên xuống thích hợp và phải điều 
chỉnh cho vừa phải thành ngoài của đầu 
cuộn quay với cạnh ngoài của dao cắt 
gọt cho đúng cự ly phù hợp. 
 Hình 2. Sự cố phình thân cọc do sạt lở thành hố khoan 
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2014 34 
2.4. Sự cố trồi thép khi đổ bê tông 
2.4.1. Trường hợp trồi cốt thép do ảnh 
hưởng của quá trình rút ống vách 
Nguyên nhân 1: Thành ống bị méo 
mó, lồi lõm. 
Cách phòng ngừa: Kiểm tra kỹ 
thành trong ống vách nhất là ở phần đáy. 
Nếu bị biến dạng hoặc méo mó thì phải 
nắn sửa. 
Nguyên nhân 2: Cự ly giữa đường 
kính ngoài của khung cốt thép với thành 
trong của ống vách nhỏ quá, vì vậy sẽ bị 
kẹp cốt liệu to vào giữa khi rút ống vách 
cốt thép sẽ bị kéo lên theo. 
Cách phòng ngừa: Quản lý chặt chẽ 
cốt liệu bê tông. Cự ly giữa thành trong 
ống vách và thành ngoài của cốt đai lớn 
đảm bảo gấp 2 lần đường kính lớn nhất 
của cốt liệu thô. 
Nguyên nhân 3: Do bản thân khung 
cốt thép bị cong vênh, ống vách bị 
nghiêng làm cho cốt thép đè chặt vào 
thành ống. 
Cách phòng ngừa: Phải tăng cường 
độ chính xác ở khâu gia công cốt thép, 
đề phòng khi vận chuyển bị biến dạng và 
kiểm tra độ thẳng đứng của ống vách 
trước khi thả lồng cốt thép. 
Cách xử lý sự cố: Khi bắt đầu đổ 
bê tông thấy phát hiện cốt thép bị trồi 
lên thì phải lập tức dừng việc đổ bê tông 
lại và kiên nhẫn rung ống vách, di động 
lên xuống hoặc quay theo một chiều để 
cắt đứt sự vướng giữa khung cốt thép và 
ống vách. Trong khi đang đổ bê tông, 
hoặc khi rút ống lên mà đồng thời cốt 
thép và bê tông cùng lên theo thì đây là 
một sự cố rất nghiêm trọng: do thân cọc 
với tầng đất không được liên kết chặt, 
hoặc là xuất hiện khoảng hổng. Cho nên 
trường hợp này không được rút tiếp ống 
lên trước khi gia cố tăng cường nền đất 
đã bị lún xuống. 
2.4.2. Trường hợp cốt thép bị trồi 
lên do lực đẩy động của bê tông 
(Đây là nguyên nhân chính gây ra 
sự cố trồi thép) 
Lực đẩy động bê tông xuất hiện ở 
đáy lỗ khoan khi bê tông rơi từ miệng 
ống xuống (thế năng chuyển thành động 
năng). Chiều cao rơi bê tông càng lớn, 
tốc độ đổ bê tông càng nhanh thì lực đẩy 
động càng lớn. Cốt thép sẽ không bị trồi 
nếu lực đẩy động nhỏ hơn trọng lượng 
lồng thép. 
Vì vậy có thể giảm thiểu sự trồi cốt 
thép nếu hạn chế tối đa chiều cao rơi bê 
tông và tốc độ đổ bê tông. Chiều cao này 
có thể khống chế căn cứ vào trọng lượng 
lồng thép. 
Mặt khác có thể coi bê tông rơi 
xuống đáy lỗ khoan là trên nền đàn hồi 
vì vậy việc giảm thiểu tốc độ đổ bê 
tông sẽ làm giảm thiểu phản lực đẩy ở 
đáy lỗ khoan. 
2.5. Sự cố tụt cốt thép trong công nghệ 
khoan xoay vách 
Nguyên nhân: 
Khi xoay ống vách thì cốt thép chủ 
bị xoay theo do tỳ vào ống vách qua các 
con kê và các cốt liệu lớn. Nhất là khi 
toàn bộ khung cốt thép tỳ lên ống vách 
thông qua các con kê do không dùng hệ 
khung cốt thép treo tạm thời khi đổ bê 
tông thì ảnh hưởng dao động của cốt 
thép khi xoay ống vách càng lớn. Khi 
đó dưới tác động của việc xoay ống 
vách và trọng lượng của khung cốt thép 
thì toàn bộ khung cốt thép phần trên sẽ 
bị tụt xuống. 
Biện pháp xử lý và phòng ngừa: 
Khung cốt thép dùng mối nối buộc 
phải buộc thật chắc chắn và cẩn thận các 
mối nối giữa cốt thép chủ với cốt chủ, 
giữa cốt chủ với cốt đai và các cốt thép 
với nhau. 
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2014 35 
Để hạn chế ảnh hưởng tác động của 
ống vách khi xoay vách tốt nhất là nên 
dùng các cốt thép tạm nối với cốt chủ 
nhô lên khỏi ống vách và treo toàn bộ 
lồng cốt thép trong lúc đổ bê tông. Cách 
này sẽ hạn chế tối đa lực tỳ của lồng 
thép lên ống vách. Nếu việc treo này 
vướng cho công tác đổ bê tông thì có thể 
không treo nhưng phải thường xuyên 
theo dõi cao độ cốt thép phụ tạm hoặc 
khi xoay ống vách phải treo lên. 
2.6. Hư hỏng về bê tông cọc 
 Hư hỏng do ống đoạn khoan 
tạo lỗ: 
 Kỹ thuật, thiết bị khoan hoặc loại 
cọc ấn định kém thích hợp với đất nền. 
Sự mất dung dịch khoan bất ngờ (khi 
gặp hang Caster) hoặc sự trồi lên đột 
ngột của đất bị sụt lở vào lỗ khoan. 
 Sự quản lý kém khi khoan tạo lỗ do 
sử dụng loại dung dịch có thành phần 
không thích hợp với đất nền. 
 Sự nghiêng lệch bấp bênh hoặc hệ 
thống khoan tạo lỗ của máy khi gặp đá 
mồ côi hoặc lớp đá nghiêng. 
 Làm sạch lỗ khoan không đầy đủ, 
đáy lỗ khoan có một lớp cặn dày ít nhiều 
sinh ra một sự tiếp xúc không tốt tại mũi 
cọc và làm nhiễm bẩn bê tông. 
Do công đoạn đổ bê tông cọc 
Thiết b ị đổ bê tông không 
thích hợp. 
Sai sót trong việc nối ống đổ bê 
tông, dứt đoạn đổ bê tông, do sự rút ống 
dẫn bê tông quá nhanh. 
 Hàm lượng cốt liệu không đều dẫn 
đến lượng bê tông chiếm chỗ ban đầu 
không đủ do đổ nhanh (chẳng hạn giữa 
ống dẫn và đai bọc). 
 Sử dụng bê tông có thành phần 
không thích hợp, không đủ tính dẻo và 
dễ phân tầng. 
 Sự lưu thông mạch nước ngầm làm 
trôi cục bộ bê tông tươi. 
 Sự xắp xếp lại nền đất làm suy 
giảm ma sát thành bên hoặc khả năng 
chịu lực của mũi cọc. 
 Thời hạn giãn cách kéo dài giữa 
khâu khoan tạo lỗ và đổ bê tông cọc 
gây ra sự sụt lở đất ở vách lỗ khoan và 
lắng đọng chất cặn ở đáy lỗ khoan, đó 
là sự cố thông thường xảy ra ở công 
trường thi công một số lượng lớn cọc 
khoan nhồi. 
2.7. Sự cố gặp hang Caster khi khoan 
Dấu hiệu thường thấy khi mũi 
khoan gặp hang Caster là độ lún cần 
khoan tăng đột ngột, cao độ dung dịch 
trong lỗ khoan có thể bị tụt xuống khi 
gặp hang rỗng hoặc dâng lên khi trong 
hang có nước có áp hoặc bùn nhão. 
Việc gặp hang Caster có nhiều bùn 
nhão ở nhiều công trình, khiến phải xử 
lý mất rất nhiều thời gian, trong đó việc 
sử dụng ống vách phụ qua hang Caster 
cũng là một giải pháp đang được áp 
dụng khá hiệu quả. Trong trường hợp 
phát hiện trước có hang Caster thì sử 
dụng thiết bị khoan xoay ống vách là 
phương pháp hiệu quả nhất. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Nguyễn Văn Quảng. 2006. Nền móng nhà cao tầng, NXB Khoa học và Kỹ thuật. 
[2] Tô Văn Lận. Bài giảng chuyên đề xử lý nền đất yếu, ĐH Kiến trúc TP. Hồ 
Chí Minh. 
[3] Phạm Ngọc Tân. Bài giảng lớp giám sát chuyên đề Nền Móng, ĐH Xây dựng 
Miền Trung. 

File đính kèm:

  • pdfcac_su_co_khi_su_dung_mong_coc_khoan_nhoi.pdf