Các phương pháp xây dựng chỉ số điều kiện tài chính quốc gia và vấn đề đặt ra cho Việt Nam trong bối cảnh hội nhập tài chính
Thuật ngữ điều kiện tài chính quốc gia (Domestic Financial Conditions- DFC) được
các nhà nghiên cứu cũng như các nhà hoạch định chính sách, các chuyên gia về thị
trường đưa ra bàn thảo trong những năm gần đây bởi DFC không chỉ phản ánh tình
hình kinh tế hiện tại mà còn cả những kỳ vọng của thị trường về trạng thái tương lai
của nền kinh tế. Nhiều quốc gia và khu vực đã xây dựng chỉ số điều kiện tài chính
quốc gia (Financial condition index-FCI) cho riêng mình như Anh, Mỹ, EU, Nhật,
Phần Lan, Nam Phi, Châu Á hay tại các tổ chức quốc tế như IMF, OECD, nhằm
đưa ra một bộ chỉ số để dự báo thị trường, dự báo sự tăng trưởng hoặc suy thoái
của nền kinh tế. Việt Nam hiện nay chưa có chỉ số DFC được xây dựng và công bố
chính thức thường niên, và có rất ít các nghiên cứu về xây dựng chỉ số này. Trong
điều kiện hội nhập kinh tế, tài chính toàn cầu sâu rộng như hiện nay, các điều kiện
tài chính tại các quốc gia trên thế giới có thể bị tác động mạnh mẽ bởi các nhân
tố toàn cầu và Việt Nam cũng không phải ngoại lệ. Bài viết tổng quan hai phương
pháp xây dựng chỉ số điều kiện tài chính (FCI hay chỉ số DFC), gồm phương pháp
tổng có trọng số và phương pháp phân tích thành phần chính, từ đó đặt ra các vấn
đề đối với Việt Nam về lựa chọn phương pháp xây dựng chỉ số, thu thập số liệu, lựa
chọn khu vực xây dựng chỉ số, và lựa chọn biến đưa vào chỉ số.
Từ khoá: Điều kiện tài chính quốc gia (DFC); Chỉ số điều kiện tài chính quốc gia
(FCI); Các phương pháp xây dựng chỉ số điều kiện tài chính quốc gia, Việt Nam
Tóm tắt nội dung tài liệu: Các phương pháp xây dựng chỉ số điều kiện tài chính quốc gia và vấn đề đặt ra cho Việt Nam trong bối cảnh hội nhập tài chính
15 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 224+225- Tháng 1&2. 2021 Các phương pháp xây dựng chỉ số điều kiện tài chính quốc gia và vấn đề đặt ra cho Việt Nam trong bối cảnh hội nhập tài chính Nguyễn Thanh Phương Khoa Tài chính, Học viện Ngân hàng Trần Thị Xuân Anh Khoa Tài chính, Học viện Ngân hàng Phạm Tiến Mạnh Khoa Tài chính, Học viện Ngân hàng Trần Thị Thu Hương Khoa Tài chính, Học viện Ngân hàng Ngày nhận: 06/01/2021 Ngày nhận bản sửa: 19/01/2021 Ngày duyệt đăng: 28/01/2021 Financial condition index construction methods and the problems posed for Vietnam in the context of financial integration Abstract: Domestic Financial Conditions (DFC) is discussed by researchers as well as policy makers, market experts in recent years because it does not only reflect the current economic situation but also market expectations about the future state of the economy. This index is deployed in many countries or regions such as the UK, US, EU, Japan, Finland, South Africa, Asia or at international organizations such as IMF, OECD, aiming to produce a set of indicators to forecast the market, to forecast the growth or recession of the economy. In Vietnam, there is no national financial condition index (FCI) that is constructed and officially published annually, and there are very few studies on the development of a national financial condition index. In terms of global economic and financial integration as today, domestic financial conditions in the world can be strongly affected by global factors and Vietnam is also. This paper reviews two main methods to construct FCI which are weighted-sum approach and principal components analysis, and poses some problems for Vietnam on selecting methods, collecting data, choosing area and variables to build FCI. Keywords: Domestic financial condition- DFC; Financial condition index-FCI; Financial condition index construction methods, Vietnam. Phuong Thanh Nguyen Email: phuongnt@hvnh.edu.vn Anh Thi Xuan Tran Email: anhttx@hvnh.edu.vn Manh Tien Pham Email: manhpham@hvnh.edu.vn Huong Thi Thu Tran Email: tranhuong@hvnh.edu.vn Organization of all: Finance Faculty, Banking Academy of Vietnam Các phương pháp xây dựng chỉ số điều kiện tài chính quốc gia và vấn đề đặt ra cho Việt Nam trong bối cảnh hội nhập tài chính 16 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 224+225- Tháng 1&2. 2021 Thuật ngữ điều kiện tài chính quốc gia (Domestic Financial Conditions- DFC) được các nhà nghiên cứu cũng như các nhà hoạch định chính sách, các chuyên gia về thị trường đưa ra bàn thảo trong những năm gần đây bởi DFC không chỉ phản ánh tình hình kinh tế hiện tại mà còn cả những kỳ vọng của thị trường về trạng thái tương lai của nền kinh tế. Nhiều quốc gia và khu vực đã xây dựng chỉ số điều kiện tài chính quốc gia (Financial condition index-FCI) cho riêng mình như Anh, Mỹ, EU, Nhật, Phần Lan, Nam Phi, Châu Á hay tại các tổ chức quốc tế như IMF, OECD, nhằm đưa ra một bộ chỉ số để dự báo thị trường, dự báo sự tăng trưởng hoặc suy thoái của nền kinh tế. Việt Nam hiện nay chưa có chỉ số DFC được xây dựng và công bố chính thức thường niên, và có rất ít các nghiên cứu về xây dựng chỉ số này. Trong điều kiện hội nhập kinh tế, tài chính toàn cầu sâu rộng như hiện nay, các điều kiện tài chính tại các quốc gia trên thế giới có thể bị tác động mạnh mẽ bởi các nhân tố toàn cầu và Việt Nam cũng không phải ngoại lệ. Bài viết tổng quan hai phương pháp xây dựng chỉ số điều kiện tài chính (FCI hay chỉ số DFC), gồm phương pháp tổng có trọng số và phương pháp phân tích thành phần chính, từ đó đặt ra các vấn đề đối với Việt Nam về lựa chọn phương pháp xây dựng chỉ số, thu thập số liệu, lựa chọn khu vực xây dựng chỉ số, và lựa chọn biến đưa vào chỉ số. Từ khoá: Điều kiện tài chính quốc gia (DFC); Chỉ số điều kiện tài chính quốc gia (FCI); Các phương pháp xây dựng chỉ số điều kiện tài chính quốc gia, Việt Nam 1. Đặt vấn đề Điều kiện tài chính quốc gia (DFC) được hiểu là các biến số tài chính hiện tại của quốc gia có tác động đến hành vi của các chủ thể trong nền kinh tế, qua đó tác động đến tương lai của nền kinh tế. Nghiên cứu của IMF (2014) đã khái quát hoá DFC với quan điểm rằng DFC phản ánh mức độ dễ dàng trong việc tiếp nhận các nguồn tài chính tại mỗi quốc gia. Ngoài mức lãi suất ngắn hạn, DFC còn bao gồm chi phí, điều kiện tiếp cận các nguồn vốn, mức độ sẵn có của nguồn vốn trong nước và thậm chí cả khẩu vị rủi ro của tổ chức cung ứng cũng như cá nhân tiếp cận nguồn vốn. Các DCF này đóng vai trò trung tâm trong việc truyền tải chính sách tiền tệ (CSTT) cũng như các chính sách vĩ mô khác và cuối cùng tác động trực tiếp đến sản xuất, tiêu dùng, thương mại, đầu tư trong nền kinh tế. Cụ thể, CSTT sẽ tác động đến phần còn lại của nền kinh tế thông qua các DFC qua hai kênh truyền dẫn chính gồm: Thứ nhất, thông qua kênh “truyền thống”, tức trường phái Keyne mới (New Keynesian), hay còn gọi là kênh CSTT. Ở góc độ này, DFC nhấn mạnh tới tác động của việc thay đổi chính sách lãi suất ngắn hạn và kỳ vọng về sự thay đổi của lãi suất dài hạn, qua đó tác động đến các quyết định tiêu dùng và đầu tư trong nền kinh tế. Ngoài ra, DFC còn xem xét tác động của tỷ giá như một kênh truyền thống có tác động tới thương mại của quốc gia đó. Thứ hai, DFC bao hàm xem xét yếu tố không hoàn hảo của nguồn cung tín dụng, phát sinh từ những hạn chế từ các trung gian tài chính, từ hiện tượng bất cân xứng thông tin, từ bảng cân đối kế toán, từ nguồn vốn của ngân hàng, từ yếu tố chấp nhận rủi ro của các chủ thể trong nền kinh tế. Đối với kênh truyền dẫn CSTT “phi truyền thống” có thể bóp méo thị trường tiền tệ và gây ảnh hưởng xấu trong dài hạn bởi sự không đồng nhất giữa các bộ ngành NGUYỄN THANH PHƯƠNG - TRẦN THỊ XUÂN ANH - PHẠM TIẾN MẠNH - TRẦN THỊ THU HƯƠNG 17Số 224+225- Tháng 1&2. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng khi cung cấp thông tin, hoặc do yếu tố thị trường chưa hoàn chỉnh tại một số quốc gia; từ đó làm cho lãi suất phi rủi ro chưa thể hiện được vai trò của mình khi xác định chi phí tài trợ vốn trong nền kinh tế thực. Chính vì vậy, DFC sẽ chắt lọc thông tin từ một loạt các biến số tài chính, bao gồm việc đánh giá mức độ chấp nhận rủi ro và nhiều loại biến số tài chính không hoàn hảo trong nền kinh tế, đặc biệt là nắm bắt được sự phổ biến của những hạn chế tín dụng, và nhiều yếu tố khác cản trở việc tiếp cận tín dụng trong nền kinh tế. DFC còn nắm bắt và đánh giá được những chi phí vốn bình quân trong nền kinh tế, mặc dù nhiều đối tượng khác nhau có thể tiếp cận với nhiều nguồn vốn khác nhau, với các điều kiện khác nhau. Một số nghiên cứu khác đánh giá DFC rất hữu ích trong việc dự đoán triển vọng của nền kinh tế hơn là việc sử dụng các chỉ số để đánh giá các hoạt động của nền kinh tế trong quá khứ và hiện tại (Hatzius và các cộng sự, 2018; Koop và Korobilis, 2014). Trong điều kiện hội nhập kinh tế toàn cầu sâu rộng như hiện nay, DFC có thể được chuyển giao qua các nước thông qua các kênh khác nhau. Một trong những nguyên tắc điều hành CSTT trong điều kiện nền kinh tế mở được gọi là “Bộ ba bất khả thi”. Điều này hàm ý rằng các nhà điều hành chính sách chỉ có thể đạt được hai trong số ba mục tiêu, đó là (1) Ổn định tỷ giá; (2) Tự do hóa dòng vốn; và (3) CSTT độc lập. Tuy nhiên các điều kiện tài chính có thể chuyển giao qua các quốc gia thông qua những cơ chế khác nhau. Các điều kiện tài chính tại các quốc gia trên thế giới có thể bị tác động mạnh mẽ bởi các nhân tố toàn cầu, có thể thay đổi cùng với sự thay đổi điều kiện tài chính của các quốc gia khác thông qua cơ chế tác động một cách tự nhiên, do các quốc gia này có mối quan hệ thương mại, do việc hội nhập tài chính sâu rộng với nhau. Các đặc tính riêng biệt của mỗi quốc gia sẽ quyết định việc các điều kiện tài chính của quốc gia đó sẽ nhạy cảm như thế nào đối với những cú sốc tài chính toàn cầu. Với sự nổi bật của Mỹ trong hệ thống tiền tệ quốc tế, DFC của Mỹ được coi là một yếu tố tác động đến điều kiện tài chính toàn cầu. Do đó, các đặc tính quan trọng của mỗi quốc gia được xem xét đó là những điều kiện tài chính có mối quan hệ chặt với Mỹ (như đầu tư trực tiếp nước ngoài, danh mục đầu tư tại nước ngoài), mức độ phát triển và độ mở của thị trường tài chính, chất lượng của các tổ chức tài chính, cơ chế tỷ giá hối đoái (Sahay và các cộng sự, 2015). Ví dụ, điều kiện tài chính của quốc gia có nền kinh tế mở, có mối quan hệ chặt chẽ với Mỹ có thể sẽ nhạy cảm hơn với các điều kiện tài chính toàn cầu. Ngược lại, những quốc gia có nền tảng chính sách và các tổ chức tài chính mạnh, thị trường tài chính phát triển theo chiều sâu, sẽ có mức độ nhạy cảm ít hơn (Chinn và Ito, 2007; Alfaro và các cộng sự, 2008). Bên cạnh việc nghiên cứu tầm quan trọng cũng như kênh truyền dẫn DFC, việc tìm kiếm xây dựng chỉ số DFC cũng được các nhà nghiên cứu, các tổ chức tài chính thực hiện nhằm lượng hoá cụ thể điều kiện tài chính tại mỗi quốc gia và thậm chí là từng khu vực với tăng trưởng kinh tế. Chỉ số điều kiện tài chính (FCI- Financial Condition Index) là một chỉ số toàn diện được xây dựng trên cơ sở kết hợp nhiều biến số khác nhau như giá tiền tệ (bao gồm tỷ giá, lãi suất), giá tài sản (chỉ số chứng khoán và giá nhà) và các biến khác nhằm đánh giá toàn bộ các DFC. Nhiều phương pháp khác nhau được các quốc gia sử dụng để xây dựng FCI, trong đó mỗi phương pháp có những ưu, nhược điểm khác nhau. Bài viết tổng hợp các phương pháp xây dựng chỉ số DFC và chỉ ra những vấn đề khi xây dựng chỉ số DFC tại Việt Nam, đặc Các phương pháp xây dựng chỉ số điều kiện tài chính quốc gia và vấn đề đặt ra cho Việt Nam trong bối cảnh hội nhập tài chính 18 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 224+225- Tháng 1&2. 2021 biệt trong bối cảnh hội nhập tài chính sâu rộng như hiện nay. 2. Tổng quan các phương pháp xây dựng chỉ số điều kiện tài chính quốc gia Theo Hatzius và cộng sự (2010), Debuque- Gonzales và cộng sự (2013), Ian và cộng sự, (2018), hai phương pháp chính và phổ biến được sử dụng để xây dựng FCI là phương pháp tổng có trọng số và phương pháp phân tích thành phần chính với nhiều phiên bản mô hình khác nhau. Khi xây dựng, các FCI sẽ được làm sạch để loại bỏ ảnh hưởng chu kỳ của các biến kinh tế vĩ mô, chỉ phản ánh những biến động ngắn hạn trong môi trường tài chính, những cú sốc trong chính sách. Tổng quan hai phương pháp xây dựng FCI như sau: 2.1. Phương pháp tổng có trọng số Phương pháp tổng có trọng số là phương pháp với từng biến tài chính thường được gán trọng số dựa trên đánh giá tác động đến GDP thực (Debuque - Gonzales và cộng sự, 2017). Các phương pháp thống kê thường được sử dụng để xác định trọng số của các thành phần tài chính bao gồm mô phỏng các mô hình cấu trúc kinh tế vĩ mô, ước tính các phương trình tổng cầu dạng rút gọn, và ước tính hệ thống VAR và các hàm phản ứng. Theo cách trên, công thức xác định FCI là: Trong đó q it là giá trị chỉ số i tại thời điểm t, là xu hướng giá trị chỉ số i trong dài hạn hoặc giá trị cân bằng tại thời điểm t, w i là tỷ trọng của i. Bước 1: Lựa chọn biến Trước khi tính FCI cần lựa chọn các biến phù hợp. CSTT chủ yếu được truyền dẫn qua 3 kênh là cung tiền, lãi suất và tỷ giá hối đoái. Giá cổ phiếu và giá nhà cũng có tác động đến sản lượng và giá thông qua hiệu ứng của cải và hiệu ứng cân bằng. Tất cả các FCI hiện nay đều bao gồm hai biến số cơ bản là lãi suất ngắn hạn và tỷ giá hối đoái. Kênh lãi suất là một công cụ quan trọng nhất của CSTT. Mặt bằng giá cả, sản lượng và việc làm chịu ảnh hưởng bởi sự thay đổi lãi suất ngắn hạn của ngân hàng trung ương (NHTW). Lý thuyết kỳ vọng chỉ ra rằng việc tăng lãi suất ngắn hạn dẫn đến tăng lãi suất dài hạn. Sự thay đổi này ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến lãi suất thực tế và đến chi phí vốn. Việc thực hiện Bảng 1. Các chỉ số thường được sử dụng để xây dựng FCI trong các nghiên cứu Loại Các chỉ số Cung Tiền Tiền hẹp (M1) và tiền mở rộng (M2) Tỷ giá hối đoái Tỷ giá hối đoái song phương Chỉ số tỷ giá như tỷ giá hối đoái hiệu dụng Lãi suất Lãi suất thị trường (lãi suất ngắn hạn, lãi suất trái phiếu, thu nhập lãi trái phiếu thuần) Lãi suất chính sách (lãi suất tiền gửi và cho vay tham chiếu) Thị trường vốn Giá trị thị trường/GDP Tỷ số giá trên thu nhập Giá trị tài sản chứng khoán nắm giữ bởi người dân Giá chứng khoán Giá bất động sản Giá nhà trung bình Nguồn: Zheng và cộng sự (2014) NGUYỄN THANH PHƯƠNG - TRẦN THỊ XUÂN ANH - PHẠM TIẾN MẠNH - TRẦN THỊ THU HƯƠNG 19Số 224+225- Tháng 1&2. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng CSTT mở rộng sẽ dẫn đến cung tiền tăng, từ đó giảm lãi suất ngắn hạn. Điều này làm giảm chi phí sử dụng vốn, tăng đầu tư và cuối cùng tăng tổng cầu và tăng việc làm cho nền kinh tế. Ngoài ra, trong nền kinh tế mở và cơ chế tỷ giá linh hoạt, kênh truyền dẫn CSTT thông qua tỷ giá được chú trọng, do đó biến số tỷ giá luôn được đưa vào xây dựng FCI. Bên cạnh đó, một số FCI của các quốc gia như FCI của Canada, Colombia, hay một số nước Châu Âu còn bao gồm lãi suất dài hạn hoặc phần bù rủi ro trái phiếu doanh nghiệp (Gauthier và cộng sự, 2004; Gomez, 2011; Angelopoulou và cộng sự, 2014). Mặc dù lãi suất dài hạn ít bị ảnh hưởng trực tiếp bởi CSTT so với lãi suất ngắn hạn nhưng chúng lại liên quan nhiều đến các quyết định tài trợ của các doanh nghiệp và hộ gia đình. Chênh lệch lãi suất cũng được thêm vào để tính chỉ số vì được cho rằng có khả năng dự đoán lạm phát tốt hơn là chỉ sử dụng lãi suất ngắn hạn. Tuy nhiên, nếu sử dụng cả hai biến này có thể dẫn đến việc bị chồng chéo thông tin. Ngoài ra, JP Morgan sử dụng cả chỉ số cung tiền khi xây dựng FCI. Các FCI được xây dựng bởi các học giả khác nhau, cho các quốc gia khác nhau có sự khác biệt lớn nhất về việc lựa chọn các biến số đại diện cho thị trường vốn. Một số biến được sử dụng như giá cổ phiếu, giá trị vốn hoá thị trường/ GDP, chỉ số cổ tức/ giá cổ phiếu... Goodhart và cộng sự (2001) và Mayes và cộng sự (2001) đều thêm biến số giá tài sản, cụ thể là giá nhà và giá cổ phiếu, vào các tính toán FCI cho Anh và Phần Lan để đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố này đến tổng cầu và kiểm tra bất kỳ thông tin nào có thể góp phần vào dự đoán kết quả kinh tế trong tương lai bao gồm tỷ lệ tăng trưởng và lạm phát. Ngoài ra, một số nghiên cứu cũng đưa thêm các biến định khác vào tính FCI như Guichard và Turner (2008) và Swiston (2008) sử dụng đặc điểm tín dụng, được phản ánh qua khảo sát về tiêu chuẩn cho vay trong điều kiện hoạt động tài chính và kinh tế tại Mỹ; hay Guichard và cộng sự (2009) nhấn mạnh quan điểm cho vay ở Nhật, Anh và các nước Châu Âu so với Hoa Kỳ để điều chỉnh các chỉ số; Shinkai và Kohsaka (2010) xây dựng FCI cho Nhật Bản dựa vào ... ng dữ liệu càng thường xuyên càng tốt, ví dụ như sử dụng dữ liệu thu thập theo quý hoặc theo tháng. Thứ ba, phương pháp tính chỉ số. Có nhiều phương pháp để tính toán FCI, phần lớn sử dụng các phương pháp như phương pháp tổng trọng số1, hoặc phương pháp phân tích thành phần chính (PCA)2. Trong phương 1 The weighted-sum approach 2 Principal Component Analysis pháp tổng trọng số, tỷ trọng của mỗi chỉ báo tài chính được chỉ định thông qua việc ước tính tác động tới biến vĩ mô, như GDP thực tế, khoảng cách sản lượng đầu ra, hoặc lạm phát. Trong một số nghiên cứu, trọng số các biến đưa vào nghiên cứu được đặt ở mức bằng nhau, dựa trên các biến tài chính đầu vào khi lựa chọn nghiên cứu (Mayes và Viren, 2001). Tuy nhiên, việc coi tất cả các biến này đều có tỷ trọng bằng nhau có thể không phù hợp, do thực tế mỗi nhân tố lại có tác động khác nhau nhất định đến chỉ số điều kiện tài chính của quốc gia. Phương pháp vec-tơ tự hồi quy (VAR) dần trở nên phổ biến trong việc tính trọng số trong FCI, bởi nó phù hợp để nắm bắt mối quan hệ giữa các biến số vĩ mô và biến số tài chính. Ưu điểm lớn nhất của phương pháp tổng trọng số là mối liên hệ trực tiếp giữa các biến tài chính và nền kinh tế thực. Tuy nhiên, phương pháp này gặp phải vấn đề cố hữu đó là số lượng các biến đưa vào. Ngày càng có nhiều biến số đưa vào mô hình do trên thực tế, hệ thống tài chính hiện đại rất phức tạp và việc xác định đầy đủ các đặc tính của nó cần thiết phải bao hàm rất nhiều biến nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên việc đưa nhiều tham số vào mô hình VAR với số bậc tự do lớn sẽ dẫn đến kết quả không chính xác nếu số quan sát hạn chế. Với phương pháp phân tích thành phần chính (PCA) có thể giải quyết được vấn đề “lời nguyền về quy mô” của các biến nghiên cứu, bằng cách trích xuất một yếu tố chung mà nắm bắt được sự biến động chung lớn nhất trong một loạt các biến trong nghiên cứu. Ưu điểm lớn nhất của phương pháp PCA là tính thực tiễn của nó, vì nó tạo điều kiện cho việc thu gọn một tập hợp biến tài chính lớn thành một chỉ số duy nhất. Tuy nhiên phương pháp này chỉ đúng ở góc độ lý thuyết, bởi nó giả định rằng những chỉ số có sự biến động lớn nhất thì sẽ có ý nghĩa kinh tế lớn nhất; ngoài ra, phương pháp này Các phương pháp xây dựng chỉ số điều kiện tài chính quốc gia và vấn đề đặt ra cho Việt Nam trong bối cảnh hội nhập tài chính 26 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 224+225- Tháng 1&2. 2021 còn có một nhược điểm nữa, đó là nếu chỉ báo nào xuất hiện với một dấu hiệu “sai” thì ngay lập tức sẽ bị loại khỏi mô hình nghiên cứu. Tuy nhiên, trên thực tế, phương pháp PCA được rất nhiều học giả sử dụng để xây dựng FCI như Angelopoulou và các cộng sự (2014); Osorio và các cộng sự (2014); Hakkio và Keeton (2009); Micallef (2015); Hatzius và các cộng sự (2010)... Thứ tư, lựa chọn biến để xây dựng chỉ số điều kiện tài chính. Việc xây dựng FCI nhằm mục đích tìm ra một chỉ báo xem xét tác động của một loạt các biến tài chính tác động đến điều kiện tài chính của một quốc gia hoặc một khu vực trọng tâm nghiên cứu. Chính vì vậy, việc lựa chọn biến nghiên cứu cho vào mô hình đặc biệt quan trọng, nó quyết định đến tính chính xác, kịp thời và nâng cao khả năng dự báo của FCI đối với biến động của nền kinh tế. Biến nghiên cứu nào càng có tương quan mạnh với các biến nghiên cứu khác thì tỷ trọng đưa vào càng lớn. Đồng thời, biến đó cần phải đại diện cho các thành phần khác nhau trong hệ thống tài chính. Một yếu tố quan trọng trong việc lựa chọn biến nghiên cứu, đó là biến đó phải sẵn có để thu thập trong thời gian đủ dài, đặc biệt trong các giai đoạn tăng trưởng, hoặc suy thoái của nền kinh tế khu vực, thế giới; nhằm tìm ra được biến đó có mối liên hệ thật sự hay không. Hơn nữa khi xây dựng FCI trong bối cảnh hội nhập tài chính cần đưa vào các biến phù hợp phản ánh các nhân tố bên ngoài tác động đến DFC. Nghiên cứu của Debuque-Gonzales và cộng sự (2017) đã đưa biến chênh lệch lãi suất TPCP Mỹ- đại diện cho cấu trúc lãi suất quốc tế vào tính FCI của một số nước trong khu vực Châu Á nhằm phản ánh điều kiện quốc tế. Hay nghiên cứu của Gauthier và cộng sự (2004) cũng bao gồm biến chênh lệch lãi suất của Mỹ vào tính FCI cho Canada bởi cho rằng biến này tác động đến tăng trưởng kinh tế của Canada. 4. Kết luận Xây dựng chỉ số DFC (FCI) được thực hiện khá phổ biến ở các nước phát triển nhưng vẫn còn hạn chế ở các quốc gia khác trong đó có Việt Nam. Trong bối cảnh hội nhập tài chính sâu rộng mới hiện nay, việc xây dựng chỉ số DFC cũng đứng trước thách thức mới. Nhiều vấn đề được đặt ra khi xây dựng chỉ số như phương pháp xây dựng chỉ số, thu thập số liệu, lựa chọn khu vực xây dựng chỉ số, và lựa chọn biến đưa vào chỉ số. Các phương pháp xây dựng FCI từ đơn giản đến phức tạp đều có ưu nhược điểm và cho ra kết quả là các chỉ số FCI khác nhau. Vì vậy lựa chọn phương pháp phù hợp là quan trọng. Đồng thời, trong bối cảnh hội nhập tài chính việc lựa chọn biến đưa vào xây dựng FCI cần được cân nhắc kỹ lưỡng nhằm xây dựng được FCI phản ánh đầy đủ hiện trạng DFC và có khả năng dự báo triển vọng kinh tế trong tương lai. Bài viết đã tổng hợp hai phương pháp chính để xây dựng FCI đồng thời chỉ ra những vấn đề cần lưu ý trong xây dựng FCI cho Việt Nam trong bối cảnh hội nhập tài chính. Tuy nhiên bài viết chưa xây dựng được FCI cho Việt Nam bằng các phương pháp đã đưa ra do hạn chế về mặt số liệu. Hiện nay có rất ít các nghiên cứu thực nghiệm xây dựng chỉ số FCI cho Việt Nam, do đó đây là một hướng nghiên cứu mới có giá trị và ý nghĩa thực tiễn có thể triển khai trong thời gian tới. ■ Tài liệu tham khảo Alfaro, Laura, Sebnem Kalemli-Ozcan, and Vadym Volosovych, 2008, “Why Doesn’t Capital Flow from Rich to Poor Countries? An Empirical Investigation,” Review of Economics and Statistics 90 (2): 347–68. NGUYỄN THANH PHƯƠNG - TRẦN THỊ XUÂN ANH - PHẠM TIẾN MẠNH - TRẦN THỊ THU HƯƠNG 27Số 224+225- Tháng 1&2. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Angelopoulou, E., Balfoussia, H., & Gibson, H. D. (2014). Building a financial conditions index for the euro area and selected euro area countries: What does it tell us about the crisis? Economic Modelling, 38, 392–403. https://doi. org/10.1016/j.econmod.2014.01.013 Brave, Scott, and R. Andrew Butters. 2010. Gathering Insights on the Forest from the Trees: A New Metric for Finan- cial Conditions. Working Paper 2010-07. Chicago, Illinois: Federal Reserve Bank of Chicago. Charleroy, R. and Stemmer, M.A., 2014. An Emerging Market Financial Conditions Index: A VAR Approach. Chinn, Menzie D., and Hiro Ito. 2007, “Current Account Balances, Financial Development and Institutions: Assaying the World ‘Saving Glut,” Journal of International Money and Finance 26 (4): 546–69. Christiano, L. J., M. Eichenbaum, and C. L. Evans. 1999. “Monetary policy shocks: what we have learned and to what end?”. In: Handbook of Macroeconomics, Vol. 1, ch. 2. Taylor, J. B., and M. Woodford. (eds.). Elsevier: Amster- dam; 65-148. Debuque-Gonzales, M., & Gochoco-Bautista, M. S. (2013). Financial conditions indexes for Asian economies (No. 333). ADB Economics Working Paper Series. Debuque-Gonzales, M., & Gochoco-Bautista, M. S. (2017, June 1). Financial Conditions Indexes and Monetary Policy in Asia. Asian Economic Papers, Vol. 16, pp. 83–117. https://doi.org/10.1162/ASEP_a_00522 Dugauy, P. 1994. “Empirical Evidence on the Strength of the Monetary Transmission Mechanism in Can- ada.” Jour- nal of Monetary Economics 33: 39-61. English, William, Kostas Tsatsaronis, and Edda Zoli. 2005. Assessing the Predictive Power of Measures of Financial Conditions for Macroeconomic Variables. In Investigating the Relationship between the Financial and Real Economy. BIS Paper No. 22. Basel: Bank for International Settlements. February. Gauthier, C., Graham, C., & Liu, Y. (2004). Financial conditions indexes for Canada (No. 2004-22). Bank of Canada. Gomez. Financial Conditions Index: Early and Leading Indicator for Colombia. Ensayos sobre Politica Economica 2011; 66: 174-220. Goodhart, C., & Hofmann, B. (n.d.). A Service of zbw Financial Variables and the Conduct of Monetary Policy *. Retrieved from Guichard, Stéphanie, David Haugh, and David Turner. 2009. Quantifying the Effect of Financial Conditions in the Euro Area, Japan, United Kingdom and United States. OECD Economics Department Working Paper No. 677. Paris: Organisation for Economic Co- operation and Development. Guichard, Stéphanie, and David Turner. 2008. Quantifying the Effect of Financial Conditions on U.S. Activity. OECD Economics Department Working Paper No. 635. Paris: Organisation for Economic Co-operation and Develop- ment. Hatzius, J., Hooper, P., Mishkin, F. S., Schoenholtz, K. L., & Watson, M. W. (2010). Financial Conditions Indexes: A Fresh Look after the Financial Crisis. NBER Working Papers. Retrieved from https://ideas.repec.org/p/nbr/ nberwo/16150.html. Hatzius, J. & Stehn, S. J. (2018). The Case for a Financial Conditions Index. Goldman Sachs, Economics Research, Global Economics Paper. Ho, G., & Lu, Y. (2013). A financial conditions index for Poland(No. 13-252). International Monetary Fund. Koop, G. & Korobilis, D. (2014). A New Index of Financial Conditions. European Economic Review, Issue 71, pp. 101- 116 Ian, B., & Brian, M. (2018). Constructing a financial condition index for a small-open economy: The case of Malta. Re- search in Applied Economics, 10(3), 89-105. International Monetary Fund (IMF), 2014, “How Do Changes in the Investor Base and Financial Deepening Affect Emerging Market Economies? Global Financial Stability Report, Chapter 2, April, International Monetary Fund, Washington, DC. International Monetary Fund. 2010. A Financial Conditions Index for Asia. In Regional Economic Outlook: Asia and Pacific. Washington, DC. October. Justiniano, A., G. E. Primiceri, and A. Tambalotti. 2009. “Investment Shocks and Business Cycles”. NBER Working Paper, 15570. Lê Đạt Chí, & Trần Hoài Nam. (2015). Xây dựng chỉ số điều kiện tài chính cho Việt Nam. Tạp Chí Phát Triển và Hội Nhập, 31(21), 18–22. Retrieved from https://www.uef.edu.vn/newsimg/tap-chi-uef/2015-03-04-21/3-so-21.pdf Mayes, D. ;, & Virén, M. (2001). A Service of zbw Leibniz-Informationszentrum Wirtschaft Leibniz Information Centre for Economics Standard-Nutzungsbedingungen. Retrieved from www.econstor.eu Micallef, B. (2015). Estimating a Credit Gap for Non-Financial Corporations in Malta. Osorio, C., Unsal, D. F., & Pongsaparn, R. (2014). A Quantitative Assessment of Financial Conditions in Asia. IMF Working Papers. https://doi.org/10.5089/9781462314331.001 Pesaran, M.H. and Y. Shin. 1998. “Generalized Impulse Response Analysis in Linear Multivariate Mod- els.” Econom- ics Letters, 58:17-29. Các phương pháp xây dựng chỉ số điều kiện tài chính quốc gia và vấn đề đặt ra cho Việt Nam trong bối cảnh hội nhập tài chính 28 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 224+225- Tháng 1&2. 2021 Sahay, Ratna, Martin Čihák, Papa M. N’Diaye, Adolfo Barajas, Ran Bi, Diana Ayala, Yuan Gao, Annette Kyobe, Lam Nguyen, Christian Saborowski, Katsiaryna Svirydzenka, and Seyed Reza Yousefi, 2015, “Rethinking Financial Deepening: Stability and Growth in Emerging Markets,” IMF Staff Discussion Note 15/08, International Mon- etary Fund, Washington, DC. Sims, C. A. 1980. “Macroeconomics and Reality”. Econometrica, Vol. 48: 1-48. Shinkai, Jun-ichi, and Akira Kohsaka. 2010. Financial Linkages and Business Cycles of Japan: An Analysis Using Financial Conditions Index. OSIPP Discussion Paper 2010-E-008 Osaka, Japan: Osaka School of International Public Policy. Swiston, Andrew. 2008. A U.S. Financial Conditions Index: Putting Credit Where Credit Is Due. IMF Working Paper 08/161. Washington, DC: International Monetary Fund. Thompson, K., van Eyden, R. and Gupta, R., 2013. Identifying a financial conditions index for South Africa. Studies in Economics and Finance, 32, pp. 256-274. Zheng, G., & Yu, W. (2014). Financial conditions index’s construction and its application on financial monitoring and economic forecasting. Procedia Computer Science, 31, 32-39. 29 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 224+225- Tháng 1&2. 2021 Nhận diện rủi ro tỷ giá đối với doanh nghiệp Nguyễn Văn Tiến Trọng tài viên Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) Trưởng Khoa Kinh doanh Quốc tế, Học viện Ngân hàng Ngày nhận: 07/12/2020 Ngày nhận bản sửa: 15/12/2020 Ngày duyệt đăng: 21/12/2020 Đo lường và quản trị rủi ro tỷ giá luôn là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp nhằm giảm thiểu tổn thất khi tỷ giá biến động mạnh. Thế giới và Việt Nam đã từng chứng kiến những sự kiện biến động của tỷ giá tác động đến hoạt động ngoại thương và nội thương, đầu tư trực tiếp và danh mục đầu tư gián tiếp nước ngoài, hoạt động đi vay và cho vay bằng ngoại tệ... Tác động của rủi ro tỷ giá đến nền kinh tế thường kéo dài, làm giảm sức cạnh tranh quốc tế của ngành kinh tế, và cuối cùng là đến kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Để có những biện pháp phòng ngừa kịp thời và hiệu quả, thì công việc đầu tiên, không thể thiếu, làm cơ sở cho các biện pháp tiếp theo, đó là nhận diện các loại rủi ro tỷ giá đối với doanh nghiệp. Dựa trên đúc kết kinh nghiệm cá nhân, Bài viết tổng hợp các tình huống rủi ro tỷ giá đối với doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư gián tiếp nước ngoài và tín dụng quốc tế. Đây cũng được xem là cơ sở cho việc thiết lập khung quản trị và sử dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá đối với doanh nghiệp. Identifying exchange rate risk for businesses Abstract: Measuring and managing exchange rate risk exposure is of utmost importance for reducing a firm’s vulnerabilities from major exchange rate movements. The world and Vietnam have witnessed constant currency fluctuations which affected the market adversely, causing it to become volatile, affecting bothdomestic and foreign trade, foreign direct investment, portfolio investment, currency lending and borrowing. This caused a drag on the economy over the long term, as entire industries are rendered noncompetitive and operations of economic agents are detrimentally affected. Selecting the appropriate timely and effective exchange rate risk prevention measures is often a daunting task and therefore there is a demand of identifying different types of exchange rate risks for businesses. This will also act as the basis for exchange rate risk management and various hedging approaches for firms. Keywords: Exchange rate risk, Identification of exchange rate risk, Foreign exchange positon. Tien Van Nguyen Email: tiennv@hvnh.edu.vn Arbitrator of Vietnam Int’l Arbitration Centre (VIAC) Dean of Int’l Business of Banking Academy of Vietnam
File đính kèm:
- cac_phuong_phap_xay_dung_chi_so_dieu_kien_tai_chinh_quoc_gia.pdf