Bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số với phát triển du lịch cộng đồng

Phát triển du lịch cộng đồng ở vùng dân tộc thiểu số nói riêng là một trong những giải pháp quan trọng vừa nhằm giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, nói chung và vùng các dân tộc rất ít người

vừa góp phần xây dựng nông thôn mới, tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống cho

người dân. Du lịch cộng đồng bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam vào cuối những năm 1980, loại hình du

lịch này mới chính thức phát triển mở rộng, từng bước đem lại lợi ích tích cực về kinh tế cho nhiều địa

phương. Tuy nhiên muốn phát triển du lịch cộng đồng theo hướng bền vững, đòi hỏi các địa phương

phải xây dựng các sản phẩm du lịch mang tính đặc thù, phù hợp từng vùng, có quy hoạch và chọn

lọc, hấp dẫn với từng đối tượng du khách. Nhân tố chính đóng góp cho sự thành công của loại hình

du lịch này chính là cộng đồng địa phương.

pdf 5 trang phuongnguyen 2960
Bạn đang xem tài liệu "Bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số với phát triển du lịch cộng đồng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số với phát triển du lịch cộng đồng

Bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số với phát triển du lịch cộng đồng
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
101Ngày nhận bài: 23/1/2018; Ngày phản biện: 3/2/2018; Ngày duyệt đăng: 6/2/2018
(1) Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam; e-mail: sonvanlc@gmail.com
BẢN SẮC VĂN HÓA CỦA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ 
VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỘNG ĐỒNG
Trần Hữu Sơn(1)
Phát triển du lịch cộng đồng ở vùng dân tộc thiểu số nói chung và vùng các dân tộc rất ít người nói riêng là một trong những giải pháp quan trọng vừa nhằm giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, 
vừa góp phần xây dựng nông thôn mới, tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống cho 
người dân. Du lịch cộng đồng bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam vào cuối những năm 1980, loại hình du 
lịch này mới chính thức phát triển mở rộng, từng bước đem lại lợi ích tích cực về kinh tế cho nhiều địa 
phương. Tuy nhiên muốn phát triển du lịch cộng đồng theo hướng bền vững, đòi hỏi các địa phương 
phải xây dựng các sản phẩm du lịch mang tính đặc thù, phù hợp từng vùng, có quy hoạch và chọn 
lọc, hấp dẫn với từng đối tượng du khách. Nhân tố chính đóng góp cho sự thành công của loại hình 
du lịch này chính là cộng đồng địa phương.
Từ khóa: Bản sắc văn hóa các dân tộc; vùng dân tộc thiểu số; du lịch cộng đồng; sản phẩm du 
lịch; xóa đói, giảm nghèo bền vững.
1. Du lịch cộng đồng là loại hình du lịch dựa 
vào tài nguyên của cộng đồng, do cộng đồng chủ 
động tham gia xây dựng sản phẩm quản lý và vì 
lợi ích của cộng đồng 
Du lịch cộng đồng được xây dựng và phát triển ở 
vùng người Thái ở bản Lác, huyện Mai Châu (Hòa 
Bình) vào giữa thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Đến năm 
2000, người Tày ở bản Dền, xã Bản Hồ, huyện Sa 
Pa, tỉnh Lào Cai cũng triển khai xây dựng mô hình 
du lịch cộng đồng. Sau gần 20 năm phát triển, đến 
nay, du lịch cộng đồng được xây dựng thành công ở 
vùng người Thái, người Tày, người Dao, Mông tại 
các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lào Cai, Hà 
Giang, Yên Bái,... Nhiều điểm du lịch cộng đồng 
thu hút hàng vạn du khách, như Bản Dền (Lào Cai) 
đón 12.000 lượt khách quốc tế (năm 2008), các 
điểm du lịch cộng đồng ở Mai Châu (Hòa Bình) 
đón 300.000 lượt du khách, trong đó có 100.000 
lượt du khách quốc tế (năm 2014). Các điểm du 
lịch cộng đồng, như bản Lác, bản Văn (huyện Mai 
Châu, Hòa Bình), bản Áng (huyện Mộc Châu, Sơn 
La), bản Mển, Phiêng Lơi (Điện Biên),... trở thành 
những điểm đến quen thuộc của các hãng lữ hành 
và các tour du lịch vùng Tây Bắc. Du lịch cộng 
đồng đã góp phần xóa đói, giảm nghèo, tạo nguồn 
sinh kế mới cho người dân vùng cao. Các điểm du 
lịch cộng đồng ở Sa Pa (Lào Cai) có tốc độ xóa đói, 
giảm nghèo nhanh gấp 3 lần so với các thôn, bản 
không có du lịch. Năm 2012, số hộ nghèo ở huyện 
Mai Châu (Hòa Bình) chiếm 25%, trong khi ở các 
điểm du lịch cộng đồng, số hộ nghèo chỉ chiếm từ 
8 - 11%. Du lịch cộng đồng đem lại nguồn thu khá 
lớn cho người dân và xã hội. Ở bản Mển, xã Thanh 
Nưa, thành phố Điện Biên, có 110 hộ dân và có tới 
25 hộ gia đình có người tham gia các dịch vụ du 
lịch. Năm 2014, bản Mển đã đón 1.200 đoàn khách 
tới thăm. Vào dịp kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện 
Biên Phủ, bản Mển mỗi ngày đón 5 đoàn khách đến 
thăm. Bản Phiêng có cảnh quan đẹp, có 30 hộ gia 
đình tham gia dịch vụ du lịch, những tháng đông 
khách mỗi hộ cũng thu được từ 3-5 triệu đồng.
Bên cạnh kết quả đã đạt được, các điểm du lịch 
cộng đồng vùng Tây Bắc còn có những hạn chế. 
Nhiều tỉnh phát triển du lịch cộng đồng một cách ồ 
ạt, không có quy hoạch, dẫn đến sự cạnh tranh khá 
khốc liệt. Một số điểm du lịch trước kia đón hàng 
nghìn khách quốc tế mỗi năm thì nay vắng khách. 
Trong cuộc phỏng vấn phiếu điều tra du khách của 
Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam (tháng 12 năm 
2014) có tới từ 65% - 75% du khách quốc tế không 
muốn trở lại các điểm du lịch cộng đồng. Ở huyện 
Vân Hồ và Mộc Châu (tỉnh Sơn La), các điểm du 
lịch cộng đồng như bản Phụ Mẫu 1, bản Phụ Mẫu 2, 
bản Nà Bai, số du khách đã suy giảm nghiêm trọng. 
Nhiều hộ gia đình đầu tư hàng chục triệu đồng làm 
phòng nghỉ, nhà vệ sinh phục vụ du lịch,... thì nay 
không có khách. Phỏng vấn sâu 10 hãng lữ hành 
đưa khách du lịch đi vùng người Thái ở Mai Châu 
(Hòa Bình), Mộc Châu, Vân Hồ (Sơn La) và Điện 
Biên đều có nhận xét chung là du khách chỉ thăm 
một làng du lịch cộng đồng thì đã biết trước các sản 
phẩm du lịch của các làng khác, đều ngủ nhà sàn, ăn 
cơm lam, xem xòe Thái, uống rượu cần,...
Tình trạng phát triển du lịch cộng đồng không 
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
102 Số 21 - Tháng 3 năm 2018
hiệu quả do nhiều nguyên nhân. Thứ nhất, chính 
quyền địa phương và người dân nhận thức du lịch 
cộng đồng dễ làm, đầu tư ít nên phát triển khá ồ 
ạt. Có tỉnh xây dựng 18 làng du lịch văn hóa, có 
tỉnh dân số không đông, điều kiện tự nhiên, bản sắc 
văn hóa của một tộc người không có nét khác biệt 
nhưng cũng có chủ trương xây dựng hơn 70 làng 
văn hóa du lịch. Hệ quả là 3/4 số làng đó không đón 
được du khách. Thứ hai, chính quyền địa phương 
chưa giải được bài toán giữa phát triển du lịch với 
phát triển các ngành nghề khác. Điển hình là huyện 
Sa Pa, điểm du lịch cộng đồng ở bản Dền năm 
2008 đã thu hút gần 25.000 lượt khách nhưng do 
làm thủy điện, cảnh quan môi trường bị xâm hại 
nghiêm trọng nên lượng du khách giảm sút nhanh 
chóng (năm 2009 chỉ có gần 500 khách đến thăm). 
Vấn đề đô thị hóa các bản vùng ven thành phố cũng 
là nguyên nhân làm nghèo tài nguyên du lịch. Có 
điểm du lịch như bản Ten, xã Thanh Xương, thành 
phố Điện Biên là một điểm du lịch quen thuộc của 
những năm 2004 - 2010; nhưng một vài năm gần 
đây, do đô thị hóa, nhà cao tầng mọc lên, đường 
bê-tông hóa như thành phố nên các hãng lữ hành 
không đưa khách đến. Thứ ba, các cơ quan quản 
lý nhà nước, người dân và chính quyền địa phương 
chưa nghiên cứu xây dựng sản phẩm du lịch trên cơ 
sở của bản sắc văn hóa vùng dân tộc thiểu số. Đây 
được xem là nguyên nhân quan trọng nhất. Các tộc 
người ở mỗi vùng đều có đặc trưng văn hóa khác 
nhau; cảnh quan môi trường tự nhiên ở các vùng 
dân tộc thiểu số cũng khác nhau nhưng các cơ quan 
quản lý về du lịch cũng như người dân và doanh 
nghiệp chưa nghiên cứu sâu về đặc trưng văn hóa 
vùng dân tộc thiểu số để tìm ra sắc thái riêng. Vì 
vậy, các mô hình du lịch cộng đồng và sản phẩm 
du lịch thường được xây dựng tương tự như nhau.
Như vậy, tình trạng phổ biến hiện nay đối với 
các điểm du lịch cộng đồng là không dựa vào bản 
sắc văn hóa dân tộc để xây dựng sản phẩm du lịch. 
Các địa phương quan niệm làm du lịch cộng đồng 
là dễ nên phát triển du lịch cộng đồng mang tính đại 
trà. Mặt khác, ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch 
ở các địa phương chưa có quy hoạch về phát triển 
du lịch cộng đồng, chủ yếu là tham quan học tập các 
mô hình và vận dụng luôn vào địa phương. Không 
phân biệt bản sắc văn hóa dân tộc từ khâu đánh giá 
tài nguyên du lịch đến việc lựa chọn tộc người, địa 
điểm làm du lịch cũng trùng lắp, thiếu bản sắc. Vì 
vậy, có tỉnh xây dựng gần 20 điểm du lịch cộng 
đồng người Thái, có tỉnh phát triển hơn chục điểm 
du lịch cộng đồng người Dao. Hậu quả dẫn đến là 
chỉ một thời gian ngắn các điểm du lịch cộng đồng 
này không có khách. Bài học kinh nghiệm đối với 
vùng các dân tộc thiểu số phát triển du lịch cộng 
đồng là phải dựa vào bản sắc văn hóa dân tộc. Từ 
bản sắc văn hóa dân tộc mới xây dựng thành các sản 
phẩm du lịch.
2. Phát triển du lịch trên cơ sở tài nguyên văn 
hóa dân gian. Đồng thời sản phẩm du lịch cũng bắt 
nguồn từ nụ cười, vẻ đẹp mến khách của cư dân và 
người làm du lịch. Do đó, muốn xây dựng sản phẩm 
du lịch cần nghiên cứu, khảo sát tài nguyên du lịch, 
trong đó có tài nguyên văn hóa dân gian.
Sản phẩm du lịch là tổng thể các dịch vụ, hàng 
hóa do người kinh doanh du lịch cung cấp cho du 
khách, đáp ứng nhu cầu của du khách. Sản phẩm du 
lịch bao gồm các thành phần không đồng nhất hữu 
hình (đồ lưu niệm, món ăn,...) và vô hình (tạo bầu 
không khí, thái độ ân cần, niềm nở,...). Sản phẩm 
du lịch có thể là bầu không khí náo nhiệt, sôi động 
của lễ hội đua ngựa nhưng cũng có thể là sự vui vẻ 
tưng bừng bên ẩm thực ở chợ vùng cao. Sản phẩm 
du lịch văn hóa dân gian ở vùng dân tộc thiểu số 
vẫn mang dáng dấp chung của miền núi. Trong phát 
triển du lịch phải tạo ra vẻ đẹp riêng, sức hút riêng 
từ sản phẩm du lịch. Vì vậy, cần nghiên cứu tính 
riêng trong văn hóa dân gian các tộc người vùng cao 
cùng với tài nguyên du lịch khác để “chưng cất” lên 
thành các sản phẩm du lịch đặc thù nhưng hấp dẫn. 
Sản phẩm du lịch đặc thù là sản phẩm xuất phát từ 
tính riêng trong tài nguyên, điều kiện du lịch từng 
tộc người. Sản phẩm du lịch đặc thù là hồn cốt của 
du lịch cộng đồng, có sự khác biệt với các sản phẩm 
du lịch biển chung chung. Sản phẩm đặc thù mang 
được vẻ đẹp hấp dẫn của văn hóa tộc người cũng 
trở thành những sản phẩm du lịch đặc trưng cho địa 
phương mà không nơi nào có được. Sản phẩm du 
lịch đặc thù được thổi hồn của văn hóa dân gian sẽ 
có sức hấp dẫn riêng, có khả năng thúc đẩy toàn bộ 
sự phát triển du lịch vùng dân tộc thiểu số. Tính đặc 
thù, tính chất hấp dẫn sẽ tạo ra khả năng có nguồn 
thu lớn, tạo khâu đột phá trong phát triển du lịch.
Để thiết kế được các sản phẩm, đòi hỏi người 
sản xuất phải tiến hành sản xuất thử nghiệm, thăm 
dò nhu cầu du khách. Sau đó, người sản xuất tiến 
hành quảng cáo, bán sản phẩm. Cả một quy trình 
xây dựng sản phẩm đòi hỏi có sự tham gia, phối 
hợp chặt chẽ giữa nhà tư vấn (có thể là nhà nghiên 
cứu văn hóa dân gian), các nghệ nhân và doanh 
nghiệp du lịch. Tất nhiên, muốn xây dựng, thiết kế 
sản phẩm du lịch đặc thù đòi hỏi phải tuân theo hệ 
thống nguyên tắc quan trọng:
- Nguyên tắc hàng đầu của sản phẩm du lịch 
phải mang tính văn hóa dân gian đặc thù phải chứa 
đựng cái hồn của văn hóa dân gian. Hồn của văn 
hóa dân gian phải trở thành cốt lõi của sản phẩm, 
nó tạo nên tính đặc thù riêng của từng vùng, miền 
khác nhau.
- Nguyên tắc thứ hai là cần nghiên cứu xây dựng 
thành các chuỗi sản phẩm, trong đó có sản phẩm 
cốt lõi. Đây là loại sản phẩm đặc trưng, tinh túy nhất 
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
103Số 21 - Tháng 3 năm 2018
phản ánh vẻ đẹp đặc sắc, có sức hấp dẫn du khách. 
Sản phẩm cốt lõi giữ vị trí trung tâm, hạt nhân của 
sản phẩm. Bên cạnh sản phẩm cốt lõi cần phải xây 
dựng các sản phẩm bổ trợ. Các sản phẩm này có 
khả năng kết nối với sản phẩm cốt lõi, bổ sung thêm 
tính đặc thù, đặc sắc của sản phẩm cốt lõi, có điều 
kiện thuận lợi cho du khách tham gia. Trong sản 
phẩm bổ trợ, cần xây dựng loại sản phẩm hoàn 
thiện. Sản phẩm hoàn thiện là những dịch vụ, hàng 
hóa cung cấp những tính năng, lợi ích vượt quá sự 
mong đợi của khách hàng, giúp cho sản phẩm đó 
hấp dẫn hơn các sản phẩm khác. 
- Nguyên tắc thứ ba là xây dựng sản phẩm du 
lịch văn hóa dân gian vùng dân tộc thiểu số cần 
hướng tới thị trường. Các sản phẩm này đều do nhu 
cầu của du khách và thị trường định hướng quyết 
định. Hiện nay, các sản phẩm đặc thù này cần phải 
nghiên cứu phù hợp với tâm lý các loại du khách 
như du khách nội địa, du khách đại trà Trung Quốc 
và du khách chất lượng cao của châu Âu. Từ đầu 
thế kỷ XXI, nhu cầu về sản phẩm du lịch đang có 
xu hướng biến đổi nhanh chóng. Từ du lịch mang 
tính chất thụ động (xem, ăn, nghỉ) chuyển sang loại 
hình du lịch chủ động. Du khách đòi hỏi phải được 
thưởng thức, khám phá và trải nghiệm. Vì vậy, du 
lịch cộng đồng vùng dân tộc thiểu số sinh sống 
không chỉ có các dịch vụ thưởng thức ẩm thực, nghỉ 
dưỡng mà cần phải có các dịch vụ khám phá tri thức 
dân gian, trải nghiệm cuộc sống của đồng bào các 
dân tộc thiểu số. Chính nhu cầu trải nghiệm, khám 
phá của du khách đã trở thành mảnh đất màu mỡ 
cho các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian ứng dụng, 
xây dựng các sản phẩm du lịch mới.
- Nguyên tắc thứ tư là hướng tới du lịch phát 
triển bền vững. Các sản phẩm, dịch vụ phải đảm 
bảo các tiêu chí về bảo vệ môi trường, bảo vệ di 
sản văn hóa, bảo vệ quyền lợi của cộng đồng, bảo 
vệ an ninh, chủ quyền biển đảo. Nguyên tắc này 
sẽ xóa bỏ những “tư duy nhiệm kỳ”, xóa bỏ “lợi 
ích nhóm”, ngăn chặn được những vụ lộn xộn như 
tình trạng kinh doanh du lịch theo kiểu chộp giật vì 
lợi ích trước mắt, quên mất lợi ích lâu dài, bỏ qua 
lợi ích của thế hệ mai sau. Nguyên tắc phát triển 
bền vững cũng đòi hỏi những nhà hoạch định chính 
sách, quy hoạch hạ tầng du lịch phải thận trọng, dày 
công nghiên cứu. Mọi dự án về du lịch vùng dân tộc 
thiểu số, đòi hỏi phải có sự tham gia của các nhà 
khoa học, trong đó có các nhà nghiên cứu văn hóa 
dân gian. 
- Nguyên tắc thứ năm là kiên quyết chống tệ 
nạn làm sản phẩm giả, “hàng nhái”. Vì thế không 
thể đóng giả lễ hội, không làm giả các nghi lễ linh 
thiêng để thu hút khách dẫn đến tình trạng giải 
thiêng.
Các nguyên tắc xây dựng sản phẩm du lịch 
mang tính văn hóa dân gian đặc thù cần được xem 
xét trong tính hệ thống, tổng thể của chiến lược phát 
triển sản phẩm du lịch.
3. Phát triển du lịch cộng đồng ở vùng dân tộc 
thiểu số là một động lực quan trọng để xây dựng 
nông thôn mới, góp phần xóa đói, giảm nghèo. 
Muốn phát triển du lịch cộng đồng theo hướng 
bền vững đòi hỏi các địa phương phải phát huy bản 
sắc văn hóa các dân tộc để xây dựng các sản phẩm 
du lịch mang tính đặc thù, phù hợp từng vùng, có 
quy hoạch và chọn lọc, hấp dẫn với từng đối tượng 
du khách. Vùng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống 
cũng cần phải xây dựng một chiến lược phát triển 
du lịch cộng đồng hiệu quả, có những chính sách, 
cơ chế mang tính đặc thù và các giải pháp đồng bộ 
như sau:
Một  là,  đẩy  mạnh  công  tác  nghiên  cứu  bản 
sắc văn hóa và tính đặc thù của từng địa phương, 
phục vụ hiệu quả cho phát triển du lịch cộng đồng 
Chính quyền các cấp cần tiến hành quy hoạch 
các điểm du lịch cộng đồng, tránh tình trạng xây 
dựng tràn lan, tự phát. Đẩy mạnh công tác nghiên 
cứu thị trường, thị hiếu của du khách để xây dựng 
các điểm du lịch cộng đồng hiệu quả. Lựa chọn vị 
trí điểm du lịch cộng đồng là các bản không quá xa 
các trung tâm đô thị để thuận lợi cho việc di chuyển 
và công tác lưu trú (khoảng cách từ khu vực trung 
tâm đến các điểm du lịch cộng đồng thuận lợi nhất 
là 10-15km).
Điểm du lịch cộng đồng phải được xây dựng 
trên cơ sở các bản, làng dân tộc thiểu số giàu tài 
nguyên du lịch nhân văn và tài nguyên du lịch tự 
nhiên. Trong đó các bản phải có phong cảnh đẹp, 
mang sắc thái riêng của từng vùng, (ví dụ kiến trúc 
nhà sàn mang bản sắc riêng của từng ngành người 
Thái, ngành Thái trắng, Thái đen, Thái Mai Châu... 
hoặc nhà sàn của người Tày, người Mường). Cần 
xem xét lại chủ trương xây dựng tiêu chí nông thôn 
mới về giao thông, có thể sử dụng đường lát đá, 
đường đất ở các làng du lịch chứ không nhất thiết 
bê-tông hóa. Về tài nguyên du lịch nhân văn, bản 
du lịch cộng đồng còn có các nghề thủ công, lưu 
giữ kho tàng văn hóa phi vật thể phong phú, như 
ẩm thực, nghệ thuật dân gian, trò chơi dân gian, tín 
ngưỡng dân gian...
Hai  là,  nghiên  cứu  khai  thác,  xây  dựng  tài 
nguyên du lịch thành các sản phẩm du lịch mang 
tính đặc thù, phù hợp với nhu cầu của du khách, 
đặc biệt là xây dựng thành các chuỗi sản phẩm
Sản phẩm du lịch là tổng thể các dịch vụ, hàng 
hóa nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch của du khách. 
Nguyên tắc xây dựng các sản phẩm du lịch là chắt 
lọc từ tài nguyên du lịch, căn cứ vào thị hiếu và 
nhu cầu của du khách để xây dựng. Nhưng các sản 
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
104 Số 21 - Tháng 3 năm 2018
phẩm đó phải mang tính bền vững, bảo vệ được 
môi trường và cảnh quan, giữ gìn bản sắc văn hóa 
tộc người. Các điểm du lịch cộng đồng cũng cần 
lựa chọn đối tượng du khách (khách nội địa, khách 
quốc tế) để xây dựng chuỗi sản phẩm du lịch phù 
hợp, cụ thể là:
- Thứ nhất là vấn đề đón khách:
Đón khách là hành động đầu tiên của cộng đồng 
tiếp xúc với du khách, hành động này thường để lại 
dấu ấn trong lòng du khách vì vậy cần nghiên cứu 
các hình thức đón khách cổ truyền của vùng đồng 
bào dân tộc thiểu số (đón khách trong lễ cưới, đón 
khách trong lễ mừng nhà mới...) để xây dựng kịch 
bản đón khách phù hợp. Trong những trường hợp 
đón những đoàn khách đông người, cộng đồng và 
từng gia đình xây dựng kịch bản trình diễn nghi lễ 
đón khách (có cả dân ca, dân vũ, dân nhạc,...) tại vị 
trí đầu bản hoặc chân cầu thang của từng gia đình.
- Thứ hai là dịch vụ lưu trú:
Người Thái, người Tày cư trú ở nhà sàn - loại 
hình nhà ở phù hợp với đón khách cộng đồng. Hầu 
hết các điểm du lịch cộng đồng nổi tiếng ở miền 
núi đều sử dụng mô hình đón khách lưu trú ở nhà 
sàn. Tuy nhiên, tùy theo đoàn khách, các gia đình 
cần phân khu hoặc làm phòng riêng phù hợp. Điểm 
cần thiết nhất đối với dịch vụ lưu trú là khu vệ sinh 
phải đặc biệt được coi trọng. Nơi tắm rửa, vệ sinh 
phải xây dựng hiện đại, sạch sẽ, các trang thiết bị 
cần được thiết kế từ các nguyên vật liệu gần gũi với 
thiên nhiên (chao đèn, ống dẫn nước, rèm cửa,...).
- Thứ ba là dịch vụ ăn, uống:
Vùng dân tộc thiểu số nổi tiếng có những món 
ăn ngon, độc đáo nổi tiếng, gắn với điều kiện tự 
nhiên. Vì vậy, người làm du lịch cần nghiên cứu sâu 
về văn hóa ẩm thực đặc trưng vùng dân tộc thiểu 
số nhưng đồng thời cũng chú trọng đến nhu cầu ẩm 
thực của từng đoàn khách, tránh tình trạng lặp đi 
lặp lại một vài món quen thuộc, như cơm lam, cá 
nướng, rượu cần,...
- Thứ tư là dịch vụ giải trí:
Du khách đến vùng dân tộc thiểu số đều có nhu 
cầu trải nghiệm đời sống sinh hoạt của cộng đồng. 
Do vậy, các nghệ nhân ở các bản cần chắt lọc từ di 
sản nghệ thuật dân gian để xây dựng chương trình 
nghệ thuật hấp dẫn, tránh các tiết mục “cải biên, 
cải tiến” xa lạ với với người dân. Các chương trình 
này nên bố trí thời lượng vừa phải với kết cấu hợp 
lý, có tính hấp dẫn, xây dựng theo loại hình diễn 
xướng dân gian. Đặc biệt, cần có sự giao lưu, hòa 
đồng giữa du khách với cộng đồng bản địa. Bên 
cạnh nhu cầu thưởng thức văn nghệ, du khách rất 
khao khát được trải nghiệm cuộc sống dân dã. Vì 
thế, các điểm du lịch cộng đồng cần nghiên cứu xây 
dựng các chương trình trải nghiệm, như hội thi bắt 
cá suối, quăng chài, thả lưới bắt cá ao, tham gia dệt 
thổ cẩm, chế biến món ăn,...
- Thứ năm là dịch vụ đi lại:
Địa bàn cư trú của đồng bào các dân tộc thiểu số 
có nhiều loại địa hình khác nhau. Các điểm du lịch 
cộng đồng cần nghiên cứu xây dựng các hình thức 
vận chuyển, đi lại truyền thống cho du khách, như 
tổ chức xe trâu đưa du khách đi thăm quan; tổ chức 
đi thuyền đuôi én, đi bè, đi thuyền độc mộc,...
- Thứ sáu là sản xuất đồ lưu niệm:
Cần nghiên cứu sản xuất các đồ lưu niệm từ 
ngành nghề thủ công truyền thống của từng vùng, 
như ở Sa Pa có thổ cẩm đặc trưng của người Mông, 
người Dao, ở Mường Thanh có thổ cẩm người 
Thái, Kiên quyết chống các loại hàng giả, hàng 
nhái (như hàng bạc giả, thuốc nam không có tác 
dụng chữa bệnh,...). Đặc biệt chú ý khuyến khích 
các nghệ nhân giảm giá bán đồ thủ công, nghiên 
cứu các mẫu mã mới phù hợp nhu cầu du khách.
Ba là, xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù cho 
du lịch cộng đồng
Du lịch cộng đồng là cánh cửa mở cho chuyển 
dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn người dân tộc thiểu 
số, góp phần xóa đói, giảm nghèo hiệu quả. Cần có 
chính sách ngân hàng cho các hộ gia đình vay với 
lãi suất thấp hoặc lập các quỹ du lịch hỗ trợ cho 
cộng đồng để đồng bào các dân tộc thiểu số có kinh 
phí xây dựng nhà cửa và các công trình vệ sinh phục 
vụ du lịch cộng đồng. Mặt khác, Nhà nước cần có 
một số chế độ ưu đãi nhằm khuyến khích các doanh 
nghiệp đưa khách đến với vùng du lịch cộng đồng, 
như chế độ giảm thuế, cho vay ưu đãi,...
Bốn  là,  xây dựng cơ chế phối hợp hiệu quả, 
phân  chia nguồn  lợi  cho  cộng đồng  công bằng, 
bình đẳng
Xây dựng các điểm du lịch cộng đồng là công 
việc mới mẻ đối với người dân. Đây là lĩnh vực kinh 
doanh phức tạp, đòi hỏi sự kết hợp của bốn “nhà”. 
Trước hết, chủ nhân của điểm du lịch - đồng bào 
các dân tộc cần phải tự nguyện tham gia một cách 
sáng tạo với ban quản lý, có quy chế hoạt động thiết 
thực, dân chủ. Cộng đồng là chủ nhân cho nên phải 
được hưởng lợi phù hợp, tránh tình trạng “người 
chủ” thì nghèo mà doanh nghiệp đưa khách đến lại 
giàu. Tiếp đến, doanh nghiệp là đối tác đưa khách 
đến điểm du lịch. Nhờ có doanh nghiệp điểm du 
lịch cộng đồng mới phát triển được. Doanh nghiệp 
đóng vai trò cung cấp khách nhưng đồng thời cũng 
đóng vai trò hỗ trợ vốn cho cộng đồng, tập huấn cho 
cộng đồng. Bên cạnh đó, các nhà tư vấn, các tổ chức 
phi chính phủ đóng vai trò nghiên cứu tư vấn cho 
người dân, chính quyền địa phương, doanh nghiệp 
xây dựng các mô hình du lịch cộng đồng. Kinh 
doanh du lịch là một ngành mới, lại phức tạp nên 
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
105Số 21 - Tháng 3 năm 2018
rất cần thiết có nhà tư vấn, nhà khoa học tham gia. 
Cuối cùng, cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương 
đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng, xây 
dựng các cơ chế chính sách đặc thù cho các điểm 
du lịch cộng đồng. Đây cũng là lực lượng điều hòa 
lợi ích giữa người dân với doanh nghiệp. Như vậy, 
cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa người dân, doanh 
nghiệp, nhà khoa học và cơ quan quản lý nhà nước 
một cách hữu cơ, mật thiết để phát triển bền vững 
du lịch cộng đồng.
Bản sắc văn hóa dân tộc vừa là tài nguyên, vừa 
là điều kiện để xây dựng sản phẩm du lịch đặc thù 
của các cộng đồng. Vì vậy, vấn đề bảo tồn phát huy 
bản sắc văn hóa dân tộc trong phát triển du lịch 
cộng đồng đang là vấn đề quan trọng, phổ biến ở 
vùng đồng bào các dân tộc.
Tài liệu tham khảo
[1] Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam (2006), 
Văn hóa sông nước miền Trung, NXB. Khoa học 
Xã hội;
[2] Trường đại học Quảng Nam (2016), Kỷ yếu 
hội thảo khoa học: Di sản văn hóa biển trong phát 
triển vùng kinh tế trọng điểm miền Trung;
[3] Phạm Trung Lương (2008), Cơ sở khoa học 
phát triển du lịch đảo ven bờ vùng du lịch Bắc Trung 
Bộ, Đề tài khoa học cấp ngành, Hà Nội;
[4] Đỗ Cẩm Thơ (2015), Phát triển sản phẩm du 
lịch đặc thù vùng miền núi phía Bắc, 
vn/nghiencuu-traodoi/1101-phat-trien-san-pham-
du-lịch-dac-thu-vung-mien-nui-phia-bac. Truy cập: 
9h00, ngày 05/01/2017;
[5] Trần Hữu Sơn (2016), Văn hóa dân gian với 
vấn đề xây dựng sản phẩm du lịch biển, đảo đặc thù 
ở tỉnh Quảng Ngãi. 
vn/Home/Van-hoa-xa-hoi/2016/41023/Van-hoa-
dan-gian-voi-van-de-xay-dung-san-pham-du.aspx, 
truy cập 05/1/2017.
CULTURE OF ETHNIC MINORITIES 
WITH COMMUNITY TOURISM DEVELOPMENT
Tran Huu Son
Abstract: To develop communitytourism in ethnic minority areas in general and areas where ethnic 
minorities with very few people living in particular, are one of the important solutions both to preserve 
national cultural identity and contribute to building new rural areas, creating jobs, eliminating hunger, 
reducing poverty and improving people’s living standards. Community tourism began to appear in Vietnam 
in the late 1980s, this form of tourism has officially developed and expanded, gradually bringing positive 
economic benefits for many localities. However, to develop community tourism in a sustainable manner, it 
is required that localities develop specific and appropriate tourism products in each region and havea plan 
and selection and attract tourists. The main factor contributing to the success of this type of tourism is the 
local community.
Keywords: Cultural identity of ethnic groups; ethnic minority areas; community tourism; tourism 
products; eliminating hunger, reducing povertysteadily.

File đính kèm:

  • pdfban_sac_van_hoa_cua_cac_dan_toc_thieu_so_voi_phat_trien_du_l.pdf