Bài giảng Quản trị ngân hàng thương mại - Bài 5: Các nghiệp vụ tín dụng

Nội dung

Bài này nêu khái niệm, quy trình, ưu nhược điểm của 5 hình thức cấp tín dụng của ngân

hàng, đó là cho vay, chiết khấu, cho thuê, bảo lãnh và bao thanh toán. Bài học cũng

minh hoạ từng hình thức bằng các ví dụ cụ thể để sinh viên có thể vận dụng nhằm giải

quyết các tình huống thực tế.

Mục tiêu

 Trình bày được các khái niệm và quy trình của từng hình thức cấp tín dụng.

 Phân biệt được sự khác nhau giữa các hình thức cấp tín dụng.

 Phân tích và lấy ví dụ minh họa về từng hình thức cấp tín dụng.

pdf 29 trang phuongnguyen 60
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Quản trị ngân hàng thương mại - Bài 5: Các nghiệp vụ tín dụng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Quản trị ngân hàng thương mại - Bài 5: Các nghiệp vụ tín dụng

Bài giảng Quản trị ngân hàng thương mại - Bài 5: Các nghiệp vụ tín dụng
 Bài 5: Các nghiệp vụ tín dụng 
NEU_NHTM1_Bai5_v1.0013109226 43 
BÀI 5 CÁC NGHIỆP VỤ TÍN DỤNG 
Hướng dẫn học 
Bài này giới thiệu về các nghiệp vụ tín dụng theo các hình thức cấp tín dụng của ngân 
hàng thương mại. Sinh viên cần hiểu được khái niệm, quy trình cũng như ưu nhược 
điểm của từng nghiệp vụ, phân biệt được sự khác nhau giữa các hình thức cấp tín dụng. 
Ngoài ra, sinh viên cũng cần vận dụng được các nghiệp vụ này để giải quyết những tình 
huống thực tế trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng. 
Để học tốt bài này, học viên cần tham khảo các phương pháp học sau: 
 Học đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gia 
thảo luận trên diễn đàn. 
 Đọc tài liệu: 
1. Giáo trình Quản trị Ngân hàng thương mại, PGS. TS. Phan Thị Thu Hà, NXB Giao 
thông vận tải. 
2. Quản trị Ngân hàng thương mại (Commercial Bank Management), Peter S. Rose, 
Nhà xuất bản Tài chính. 
 Sinh viên làm việc theo nhóm và trao đổi với giảng viên trực tiếp tại lớp học hoặc 
qua email. 
 Trang Web môn học. 
Nội dung 
Bài này nêu khái niệm, quy trình, ưu nhược điểm của 5 hình thức cấp tín dụng của ngân 
hàng, đó là cho vay, chiết khấu, cho thuê, bảo lãnh và bao thanh toán. Bài học cũng 
minh hoạ từng hình thức bằng các ví dụ cụ thể để sinh viên có thể vận dụng nhằm giải 
quyết các tình huống thực tế. 
Mục tiêu 
 Trình bày được các khái niệm và quy trình của từng hình thức cấp tín dụng. 
 Phân biệt được sự khác nhau giữa các hình thức cấp tín dụng. 
 Phân tích và lấy ví dụ minh họa về từng hình thức cấp tín dụng. 
 Bài 5: Các nghiệp vụ tín dụng 
44 NEU_NHTM1_Bai5_v1.0013109226 
Tình huống dẫn nhập 
Cho vay theo hạn mức tín dụng 
Ngày 15/9/2012, doanh nghiệp A đề nghị vay vốn lưu động để thực hiện một phương án kinh 
doanh là sản xuất quần áo may sẵn. Có các thông tin như sau (đơn vị tiền: triệu đồng): 
 Nhu cầu tài sản lưu động: 720 
 Vốn tự có trong phương án kinh doanh: 520 
 Thời hạn đề nghị vay: 3 tháng. Trả nợ gốc và lãi một lần khi đến hạn từ nguồn tiền hàng thu 
được theo hợp đồng bán hàng với bên tiêu thụ. 
 Tài sản đảm bảo theo thẩm định của ngân hàng: 
 Một bất động sản: 400 
 Một động sản: 300 
 Theo chính sách tín dụng của ngân hàng: 
 Vốn tự có của khách hàng tham gia vào phương án tối thiểu chiếm 50% nhu cầu tài sản 
lưu động. 
 Mức cho vay của ngân hàng tối đa chiếm 50% giá trị tài sản thế chấp và 60% giá trị tài 
sản cầm cố. 
 Khi thẩm định khách hàng, nhân viên tín dụng tập hợp các thông tin sau: 
 Các yếu tố về tài chính, pháp lý, uy tín, tính hợp lý, nguồn trả nợ khả thi của phương án 
đều rất tốt, đáp ứng mọi yêu cầu của ngân hàng. 
 Trong hợp đồng thương mại, các khoản phải trả cho phương án với thời hạn 2 tháng là 80 
triệu đồng ; các khoản phải thu của phương án bằng 0. 
Với phương án trên, khách hàng đề nghị vay 200 triệu đồng. Ngân hàng chấp nhận cấp hạn mức 
200 triệu đồng trong thời hạn 3 tháng. Ngày 1/10/2005, khách hàng đề nghị giải ngân toàn bộ 
hạn mức và được ngân hàng chấp nhận. 
1. Ngân hàng xác định hạn mức tín dụng cho phương án là 200 triệu đồng. 
Đúng hay sai? Vì sao? 
2. Ngân hàng chấp nhận giải ngân như vậy đúng hay sai? Vì sao? 
 Bài 5: Các nghiệp vụ tín dụng 
NEU_NHTM1_Bai5_v1.0013109226 45 
5.1. Phân loại tín dụng 
5.1.1. Phân loại theo thời hạn tín dụng 
Phân chia theo thời hạn tín dụng có ý nghĩa quan trọng 
với ngân hàng, vì thời hạn liên quan mật thiết đến tính 
an toàn và sinh lời của tín dụng cũng như khả năng 
hoàn trả của khách hàng. Tuy nhiên, việc xác định thời 
hạn trên cũng chỉ có tính chất tương đối vì nhiều khoản 
cho vay không xác định trước được chính xác thời hạn. 
Căn cứ vào thời hạn tín dụng, tín dụng được phân thành: 
Tín dụng ngắn hạn: Có thời hạn từ 12 tháng trở xuống, thường được dùng để tài trợ cho 
tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp hoặc nhu cầu tiêu dùng có giá trị nhỏ của cá nhân. 
Tín dụng trung hạn: Có thời hạn từ trên 1 năm đến 5 năm, thường được dùng để tài 
trợ cho các tài sản cố định như phương tiện vận tải, một số cây trồng, vật nuôi, trang 
thiết bị nhanh hao mòn hoặc nhu cầu tiêu dùng có giá trị lớn của cá nhân. 
Tín dụng dài hạn: Có thời hạn trên 5 năm, thường được dùng để tài trợ cho các công 
trình xây dựng như nhà cửa, sân bay, cầu, đường, máy móc thiết bị có giá trị lớn, hoặc 
nhu cầu tiêu dùng có giá trị lớn của cá nhân. Đây là những tài sản được sử dụng lâu dài. 
Tỷ trọng tín dụng ngắn hạn tại các ngân hàng thương mại thường cao hơn tín dụng trung 
và dài hạn, do các ngân hàng chủ yếu có nguồn vốn kỳ hạn ngắn nên tập trung tài trợ cho 
nhu cầu vốn ngắn hạn của khách hàg. Tín dụng trung và dài hạn thường có tỷ trọng thấp 
hơn do rủi ro cao hơn, nguồn vốn đắt và khan hiếm hơn. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến 
tỷ lệ này như kỳ hạn và tính ổn định của nguồn vốn, khả năng quản lý thanh khoản của 
ngân hàng, khả năng dự báo và dự phòng rủi ro trong trung và dài hạn 
5.1.2. Phân loại theo hình thức tài trợ 
Theo hình thức tài trợ, tín dụng được chia thành cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính, 
chiết khấu và bao thanh toán. 
Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó ngân hàng giao hoặc cam kết giao cho 
khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất 
định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Cho vay là hình thức 
cấp tín dụng chủ yếu của ngân hàng. Cho vay thường được định lượng theo 2 chỉ tiêu: 
doanh số cho vay trong kỳ và dư nợ cuối kỳ. Doanh số cho vay trong kỳ là tổng số 
tiền mà ngân hàng đã cho vay ra trong kỳ. Dư nợ cuối kỳ là số tiền mà ngân hàng hiện 
đang còn cho vay vào thời điểm cuối kỳ. Trên bảng cân đối kế toán, cho vay được thể 
hiện dưới hình thức dư nợ cho vay. Một số ngân hàng thường ghi giảm dư nợ bằng 
phần trích lập dự phòng rủi ro tín dụng. 
Chiết khấu là việc mua ngân hàng mua các giấy tờ có giá của người thụ hưởng trước 
khi đến hạn thanh toán với giá nhỏ hơn giá trị của giấy tờ có giá tại thời điểm đáo hạn. 
Giá chiết khấu (hay mua của ngân hàng) phụ thuộc vào mệnh giá của giấy tờ có giá, 
thời gian đáo hạn còn lại và lãi suất thị trường, chứ không phụ thuộc vào lãi suất trên 
giấy tờ có giá. 
 Bài 5: Các nghiệp vụ tín dụng 
46 NEU_NHTM1_Bai5_v1.0013109226 
Cho thuê tài chính là việc ngân hàng bỏ tiền ra mua tài sản để cho khách hàng thuê 
theo những thỏa thuận nhất định. Trong thời gian thuê, khách hàng phải trả gốc và lãi 
cho ngân hàng dưới hình thức tiền thuê. Trên bảng cân đối kế toán, dư nợ cho thuê 
được ghi với giá trị bằng giá trị tài sản cho thuê trừ đi phần thu gốc trong tiền thuê 
ngân hàng đã thu được. 
Bảo lãnh ngân hàng là việc ngân hàng cam kết với bên 
nhận bảo lãnh về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính 
thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện 
hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết; 
khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho ngân hàng 
bảo lãnh theo thỏa thuận. Mặc dù không phải xuất tiền 
ra, nhưng ngân hàng cho phép khách hàng sử dụng uy 
tín của mình để tăng thu nhập. Số dư bảo lãnh được 
ghi vào tài khoản ngoại bảng, đó là giá trị mà ngân hàng cam kết trả thay khách hàng 
của mình. Phần giá trị bảo lãnh ngân hàng phải trả thay cho khách hàng được ghi vào 
tài sản nội bảng (mục dư nợ cho vay và được tính lãi quá hạn). 
Bao thanh toán là hình thức cấp tín dụng cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các 
khoản phải thu phát sinh từ việc mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo hợp đồng 
mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ. Khi bán các khoản phải thu cho ngân hàng, 
người bán hàng về cơ bản đã chuyển quyền sở hữu các khoản phải thu cho ngân hàng 
thực hiện bao thanh toán, bằng cách chỉ định ngân hàng có được tất cả các quyền liên 
quan đến các khoản phải thu. Theo đó, ngân hàng có được quyền nhận các khoản 
thanh toán của người mua với số tiền nhận nợ trong hợp đồng mua, bán hàng hoá, 
cung ứng dịch vụ, và trong bao thanh toán miễn truy đòi, ngân hàng còn phải chịu 
những tổn thất nếu người mua không trả số tiền nhận nợ đó. Thông thường, người 
mua được thông báo về việc bán khoản phải thu, và phải chuyển tiền trả cho ngân 
hàng khi đến hạn thanh toán. 
5.1.3. Phân loại theo hình thức đảm bảo 
Theo hình thức đảm bảo, tín dụng được chia thành tín dụng không có đảm bảo (tín 
chấp) và tín dụng có đảm bảo bằng tài sản (dưới hình thức thế chấp hoặc cầm cố). Về 
nguyên tắc, mọi khoản tín dụng của ngân hàng đều có đảm bảo. Tuy nhiên, ngân hàng 
chỉ nhận làm đảm bảo những tài sản mà ngân hàng có thể bán đi để thu hồi nợ nếu 
khách hàng không trả được nợ. 
Cam kết đảm bảo là cam kết của người nhận tín dụng về việc dùng tài sản mà mình 
đang sở hữu hoặc sử dụng (đối với quyền sử dụng đất), hoặc sẽ có quyền sở hữu/sử 
dụng (đối với tài sản hình thành từ vốn vay), hoặc tài sản của người thứ ba, để trả nợ 
cho ngân hàng. Khi cấp tín dụng dựa trên cam kết đảm bảo, ngân hàng và khách hàng 
phải ký hợp đồng bảo đảm. Trong quá trình quản lý tín dụng, ngân hàng thường xuyên 
kiểm tra, đánh giá tình trạng của tài sản đảm bảo (quyền sở hữu, giá trị thị trường, khả 
năng bán lại trên thị trường, khả năng tài chính của người bảo lãnh), giám sát việc 
vận hành, bảo dưỡng tài sản đảm bảo. 
Tín dụng không cần tài sản đảm bảo có thể được cấp cho khách hàng có uy tín, thường 
là khách hàng có mối quan hệ tín dụng thường xuyên, thu nhập ổn định, tình hình tài 
 Bài 5: Các nghiệp vụ tín dụng 
NEU_NHTM1_Bai5_v1.0013109226 47 
chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa, hoặc món vay tương đối nhỏ so 
với tổng tài sản của khách hàng. Các khoản cho vay theo chỉ thị của Chính phủ, cho 
vay đối với các tổ chức tài chính lớn, các công ty lớn, hoặc các khoản cho vay trong 
thời gian ngắn mà các ngân hàng có khả năng giám sát việc bán hàng cũng có thể 
không cần tài sản đảm bảo. 
5.1.4. Phân loại theo rủi ro 
Các khoản cho vay cần được phân loại theo mức độ rủi 
ro (hay khả năng thu hồi nợ) để ngân hàng có thể áp 
dụng biện pháp quản lý phù hợp. Để phân loại theo rủi 
ro, ngân hàng cần xây dựng căn cứ để đánh giá và xếp 
loại rủi ro. Thông thường, ngân hàng thiết lập hệ thống 
xếp hạng tín dụng nội bộ để đánh giá và phân loại nợ 
theo các thang bậc khác nhau. Một số ngân hàng lớn 
phân chia tín dụng theo 10 thang bậc rủi ro theo các dấu hiệu rủi ro từ thấp đến cao. 
Phân loại tín dụng theo rủi ro giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại chất lượng tín 
dụng, làm cơ sở để quản lý một cách thích hợp những khoản cho vay hiện hành, cấp 
tín dụng bổ sung cho khách hàng, và trích lập dự phòng cho những khoản tín dụng có 
rủi ro cao. 
Thông thường, ngân hàng phân loại tín dụng thành 5 nhóm như sau: 
 Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được ngân hàng đánh giá là 
có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi đúng hạn, và các cam kết ngoại bảng 
được ngân hàng đánh giá là khách hàng có khả năng thực hiện đầy đủ nghĩa vụ 
theo cam kết. 
 Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm: Các khoản nợ được ngân hàng đánh giá là có 
khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm 
khả năng trả nợ, và các cam kết ngoại bảng được ngân hàng đánh giá là khách 
hàng có khả năng thực hiện nghĩa vụ theo cam kết nhưng có dấu hiệu suy giảm 
khả năng thực hiện cam kết. 
 Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được ngân hàng đánh giá là 
không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn (có khả năng tổn thất), và các 
cam kết ngoại bảng được ngân hàng đánh giá là khách hàng không có khả năng 
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ theo cam kết. 
 Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: Các khoản nợ được ngân hàng đánh giá là có khả 
năng tổn thất cao, và các cam kết ngoại bảng mà khả năng khách hàng không thực 
hiện cam kết là rất cao. 
 Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: Các khoản nợ được ngân hàng đánh 
giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn, và các cam kết ngoại bảng mà khách 
hàng không còn khả năng thực hiện nghĩa vụ cam kết. 
5.1.5. Phân loại khác 
Theo ngành kinh tế (công, nông nghiệp) 
Theo đối tượng tín dụng (tài sản lưu động, tài sản cố định) 
Theo mục đích (cho vay sản xuất, cho vay tiêu dùng) 
 Bài 5: Các nghiệp vụ tín dụng 
48 NEU_NHTM1_Bai5_v1.0013109226 
Các cách phân loại này cho thấy tính đa dạng hoặc chuyên môn hóa trong cấp tín dụng 
của ngân hàng. Với xu hướng đa dạng, các ngân hàng sẽ mở rộng phạm vi tài trợ song 
vẫn có thể duy trì lĩnh vực mà ngân hàng có lợi thế. Ví dụ, Ngân hàng Nông nghiệp và 
Phát triển Nông thôn Việt Nam, bên cạnh việc đa dạng hóa các ngành tài trợ, vẫn tập 
trung tài trợ cho lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn. Cách phân loại trên cho phép 
ngân hàng theo dõi rủi ro và khả năng sinh lợi gắn liền với những lĩnh vực tài trợ, để 
có chính sách lãi suất, đảm bảo, hạn mức và chính sách mở rộng phù hợp. 
5.2. Cho vay 
5.2.1. Thấu chi 
Thấu chi là nghiệp vụ qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội (vượt) trên 
số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời 
gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. 
Hình 5.1: Cho vay thấu chi 
Để được thấu chi, khách hàng cần làm đơn xin ngân hàng hạn mức thấu chi và thời gian 
thấu chi (có thể phải trả phí cam kết cho ngân hàng). Trong quá trình hoạt động, khách 
hàng có thể ký séc, lập ủy nhiệm chi, mua thẻ vượt quá số dư tiền gửi để chi trả (song 
trong hạn mức thấu chi). Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản tiền gửi ngân hàng 
sẽ thu nợ gốc và lãi. Số tiền lãi mà khách hàng phải trả được tính theo công thức: 
Lãi suất thấu chi × Thời gian thấu chi × Số tiền thấu chi 
Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ sử dụng hình 
thức này. 
Thấu chi dự trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về thời gian và quy 
mô. Thời gian và số lượng tiền dùng để thanh toán còn thiếu có thể được dự đoán dựa 
vào ngân quỹ, song có thể không chính xác. Do vậy, hình thức cho vay này tạo điều 
kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình thanh toán được nhanh chóng, chủ 
động, kịp thời. 
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn không 
có tài sản đảm bảo, có thể cấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá nhân vài ngày trong tháng, 
vài tháng trong năm, dùng để trả lương, chi các khoản phải nộp, mua hàng Hình 
thức này nhìn chung chỉ sử dụng đối với các khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập 
đều đặn và kỳ thu nhập ngắn. 
Hạn mức 
thấu chi
Vay ngân 
hàng 
Số dư tiền gửi 
thanh toán 
Số dư tiền 
gửi thanh 
toán 
Thời gian 
 Bài 5: Các nghiệp vụ tín dụng 
NEU_NHTM1_Bai5_v1.0013109226 49 
5.2.2. Cho vay theo hạn mức 
Để đầu tư vào tài sản lưu động, doanh nghiệp thường phải vay vốn ngắn hạn từ ngân 
hàng nhiều lần trong năm, khách hàng và ngân hàng thường gặp một số vấn đề sau: 
Trong một năm, khách hàng có nhu cầu vay - trả nhiều lần, tuy nhiên, số dư nợ của 
mỗi kỳ vay - trả tương đối ổn định và có thể dự tính trước (hạn mức đối với từng 
khách hàng). 
Khách hàng muốn được ngân hàng cam kết đảm bảo nhu cầu tín dụng, để việc vay 
mượn nhanh chóng và chắc chắn. Ngân hàng cũng muốn biết trước nhu cầu tín dụng 
của khách hà ... àng tạo mối liên kết trách nhiệm tài chính và san sẻ rủi ro. Trách 
nhiệm tài chính trước hết thuộc về khách hàng, trách nhiệm của ngân hàng là thứ cấp 
khi khách hàng không thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba. Do mối liên hệ giữa ngân 
hàng với khách hàng có khả năng ràng buộc khách hàng phải thực hiện các cam kết. 
Bảo lãnh cũng góp phần giảm bớt thiệt hại tài chính cho bên thứ ba khi tổn thất xảy ra. 
Ngân hàng cố gắng tìm kiếm các khoản thu từ bảo lãnh nhằm bù đắp chi phí. Phí bảo 
lãnh được tính theo tỷ lệ phần trăm trên số tiền bảo lãnh. Ngoài phí, ngân hàng có thể 
yêu cầu khách hàng phải ký quỹ, tạo nguồn vốn cho ngân hàng với mức lãi suất rất 
thấp. Bảo lãnh cũng góp phần mở rộng các dịch vụ khác như kinh doanh ngoại tệ, tư 
vấn, thanh toán 
Ví dụ về bảo lãnh: 
Công ty Cổ phần tin học Âu Lạc Việt sẽ tham dự đấu thầu cung cấp thiết bị công nghệ 
thông tin cho gói thầu "Thiết bị công nghệ thông tin và phần mềm hệ thống" thuộc dự 
án "Ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ công tác quản lý, Giáo dục đào tạo và 
nghiên cứu khoa học của Bộ giáo dục đào tạo". Khi tham gia đấu thầu cần chứng minh 
năng lực tài chính, Công ty đã gửi hồ sơ đề nghị Ngân hàng M bão lãnh đấu thầu. 
Ngân hàng M đồng ý phát hành thư bảo lãnh dự thầu với nội dung như sau: 
 Ngân hàng M cam kết với bên mời thầu bảo lãnh cho nhà thầu tham dự đấu thầu 
gói thầu này với giá trị 20 tỷ đồng, và cam kết sẽ chuyển ngay cho bên mời thầu 
khoản tiền nêu trên khi bên mời thầu có văn bản thông báo nhà thầu vi phạm các 
quy định về đấu thầu nêu trong hồ sơ mời thầu. 
 Bài 5: Các nghiệp vụ tín dụng 
66 NEU_NHTM1_Bai5_v1.0013109226 
 Bảo lãnh này có hiệu lực kể từ ngày 14/06/2011 đến hết ngày 14/11/2011. 
 Bất cứ yêu cầu nào của bên mời thầu liên quan đến bảo lãnh này phải gửi đến ngân 
hàng M trong thời hạn nói trên. 
Tuy nhiên đến ngày 20/11/2011, bên mời thầu đã có văn bản thông báo Công ty Âu 
Lạc Việt vi phạm quy định đấu thầu và yêu cầu NHM thực hiện cam kết bảo lãnh. 
Ngân hàng M có thực hiện nghĩa vụ tài chính của mình hay không? Tại sao? 
Đáp án: 
Cam kết bảo lãnh chấm dứt hiệu lực trong các trường hợp sau: 
 Khi bảo lãnh được hủy bỏ theo sự thỏa thuận của các bên liên quan; 
 Khi bảo lãnh được hủy bỏ hoặc thay thế bằng một biện pháp bảo đảm khác; 
 Khi bên nhận bảo lãnh đồng ý miễn thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo lãnh; 
 Khi người được bảo lãnh đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của họ cho bên nhận bảo lãnh; 
 Khi Ngân hàng bảo lãnh đã thực hiện xong nghĩa vụ trả thay của mình; 
 Nghĩa vụ bảo lãnh được chấm dứt theo qui định của pháp luật (ví dụ khi hợp đồng 
gốc bị tuyên bố là vô hiệu); 
Trong trường hợp trên, Hợp đồng bảo lãnh hết hạn vào ngày 14/11/2011, nên nghĩa vụ 
bảo lãnh của ngân hàng đã chấm dứt, và Ngân hàng M từ chối thực hiện cam kết bảo lãnh. 
5.6. Bao thanh toán 
5.6.1. Khái niệm Bao thanh toán 
Theo Hiệp hội Bao thanh toán Quốc tế (FCI), bao thanh toán là một dịch vụ tài chính 
trọn gói, kết hợp việc tài trợ vốn lưu động, phòng ngừa rủi ro tín dụng, theo dõi công 
nợ và thu hồi nợ. Đó là sự thỏa thuận giữa đơn vị bao thanh toán và người bán, thường 
là không truy đòi, nhưng cũng người bán có thể có trách nhiệm đảm bảo khả năng chi 
trả của người mua. Nếu người mua mất khả năng chi trả, đơn vị bao thanh toán sẽ thay 
người mua trả tiền cho người bán (bao thanh toán có truy đòi). 
Theo quy chế hoạt động Bao thanh toán của các tổ chức tín dụng ban hành kèm theo 
quyết định số 1096/2004/NHNN/QD-NHNN ngày 06/09/2004: “Bao thanh toán là 
một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho bên bán hàng thông qua việc mua 
lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ đã 
được bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận trong hợp đồng mua bán hàng hoá và 
cung ứng dịch vụ”. 
Như vậy, hoạt động bao thanh toán tại Việt Nam có một số đặc điểm như sau: 
Một là, bao thanh toán là một hình thức cấp tín dụng ngắn hạn của tổ chức tín dụng. 
Theo đó, hoạt động bao thanh toán phải gắn trực tiếp với chức năng tài trợ tín dụng, 
các nghiệp vụ quản lý sổ sách, quản lý thu nợ không được coi là một chức năng độc 
lập trong hoạt động bao thanh toán; tổ chức thực hiện bao thanh toán phải tuân thủ các 
điều kiện, thủ tục và các mức hạn chế để bảo đảm an toàn. 
Hai là, hoạt động bao thanh toán dựa trên quan hệ về quyền mua bán quyền tài sản là 
quyền đòi nợ. Đơn vị bao thanh toán phải tiến hành phân tích toàn diện và trực tiếp các 
giao dịch làm phát sinh các khoản phải thu, tình hình tài chính và hoạt động của bên bán 
 Bài 5: Các nghiệp vụ tín dụng 
NEU_NHTM1_Bai5_v1.0013109226 67 
và bên mua hàng, và bên bán hàng phải chuyển giao toàn bộ và giấy tờ liên quan đến 
giao dịch mua, bán để xác lập và chuyển quyền đòi nợ cho bên bao thanh toán. 
5.6.2. Quy trình bao thanh toán 
Hình 5.6: Quy trình bao thanh toán 
(1) Phát sinh hợp đồng mua bán giữa bên bán hàng và mua hàng; 
(2) Bên bán hàng đề nghị đơn vị bao thanh toán thực hiện bao thanh toán các khoản 
phải thu: 
 Đơn vị bao thanh toán thực hiện phân tích các khoản phải thu, tình hình hoạt động 
và khả năng tài chính của bên bán hàng và bên mua hàng; 
 Đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng thoả thuận và ký kết hợp đồng bao thanh toán. 
(3) Bên bán hàng gửi văn bản thông báo về hợp đồng bao thanh toán cho bên mua 
hàng và các bên liên quan, trong đó nêu rõ việc bên bán hàng chuyển giao quyền 
đòi nợ cho đơn vị bao thanh toán và hướng dẫn bên mua hàng thanh toán cho đơn 
vị bao thanh toán; 
(4) Bên mua hàng gửi văn bản cho bên bán hàng và đơn vị bao thanh toán xác nhận 
về việc đã nhận được thông báo và cam kết về việc thực hiện thanh toán cho đơn 
vị bao thanh toán. Trường hợp bên mua hàng không có văn bản cam kết thực hiện 
thanh toán cho đơn vị bao thanh toán thì việc tiếp tục thực hiện bao thanh toán 
giữa bên bán và đơn vị bao thanh toán sẽ do hai bên quyết định và tự chịu trách 
nhiệm khi có rủi ro phát sinh; 
(5) Bên bán hàng chuyển giao bảng kê kèm bản gốc hợp đồng mua bán hàng hoá, 
cung ứng dịch vụ; chứng từ mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ và các chứng từ 
khác liên quan đến các khoản phải thu cho đơn vị bao thanh toán. Nếu tài liệu nêu 
trên là bản sao có chứng thực của cơ quan có thẩm quyền thì sẽ do bên bán hàng, 
đơn vị bao thanh toán thoả thuận và tự chịu trách nhiệm về quyết định của mình 
khi có rủi ro phát sinh; 
(6) Đơn vị bao thanh toán chuyển tiền ứng trước cho bên bán hàng theo thoả thuận 
trong hợp đồng bao thanh toán; 
(7) Đơn vị bao thanh toán theo dõi, thu nợ từ bên mua hang; 
(8) Đơn vị bao thanh toán tất toán tiền với bên bán hàng theo quy định trong hợp 
đồng bao thanh toán; 
Đối với hoạt động bao thanh toán xuất - nhập khẩu: quy trình nghiệp vụ bao thanh 
toán có thể được thực hiện theo như trên hoặc được thực hiện thông qua đơn vị bao thanh 
 Bài 5: Các nghiệp vụ tín dụng 
68 NEU_NHTM1_Bai5_v1.0013109226 
toán nhập khẩu. Đơn vị bao thanh toán nhập khẩu chịu trách nhiệm phân tích khoản 
phải thu, tình hình hoạt động, khả năng tài chính của bên mua hàng là bên nhập khẩu 
trong hợp đồng xuất - nhập khẩu; thực hiện việc thu nợ theo uỷ quyền của đơn vị bao 
thanh toán xuất khẩu và cam kết sẽ thanh toán thay cho bên nhập khẩu trong trường 
hợp bên nhập khẩu không có khả năng thanh toán khoản phải thu. 
Trường hợp hoạt động bao thanh toán thực hiện qua 
đơn vị bao thanh toán nhập khẩu, đơn vị bao thanh 
toán xuất khẩu và đơn vị bao thanh toán nhập khẩu 
phải thoả thuận và ký kết một hợp đồng riêng phù hợp 
với quy định của pháp luật, trong đó quy định cụ thể 
về quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi bên. 
5.6.3. Các hình thức bao thanh toán 
Bao thanh toán có thể chia thành nhiều hình thức khác nhau, dựa trên các phương thức 
khác nhau. 
Phân loại theo ý nghĩa bảo hiểm rủi ro thanh toán: 
 Bao thanh toán có truy đòi: Là hình thức bao thanh 
toán, trong đó đơn vị bao thanh toán có quyền truy 
đòi lại số tiền đã ứng trước cho bên bán hàng khi 
bên mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa 
vụ thanh toán khoản phải thu. Vì vậy, trong bao 
thanh toán truy đòi, tổn thất chỉ thực sự xảy ra 
trong trường hợp khoản phải thu không được thanh 
toán và người bán không thể bù đắp khoản thiếu hụt. 
 Bao thanh toán miễn truy đòi: Là hình thức bao thanh toán, trong đó đơn vị bao 
thanh toán chịu toàn bộ rủi ro khi bên mua hàng không có khả năng hoàn thành 
nghĩa vụ thanh toán khoản phải thu. Đơn vị bao thanh toán chỉ có quyền đòi lại số 
tiền đã ứng trước cho bên bán hàng trong trường hợp bên mua từ chối thanh toán 
khoản phải thu do bên bán giao hàng không đúng hợp đồng hoặc vì lý do khác 
không liên quan đến khả năng thanh toán của bên mua hàng. 
Phân loại theo tính chất có thông báo hay không thông báo: 
 Bao thanh toán có thông báo: Là hình thức bao thanh toán, trong đó người mua 
được thông báo là khoản thanh toán tiền hàng được chuyển nhượng cho đơn vị bao 
thanh toán. Trong bao thanh toán có thông báo, người bán có nghĩa vụ phải cung 
cấp cho đơn vị bao thanh toán biên lai giao hàng, giấy chuyển nhượng khoản tiền 
hàng và 2 liên hóa đơn, trong đó nêu rõ đơn vị bao thanh toán và chỉ ra rằng khoản 
tiền hàng đã được bán cho đơn vị bao thanh toán. 
 Bao thanh toán không thông báo: Là hình thức bao thanh toán, trong đó người mua 
không biết việc khoản tiền hàng mình phải thanh toán đã được chuyển cho đơn vị 
bao thanh toán. 
Phân loại theo phạm vi thực hiện: 
 Bao thanh toán trong nước: Là việc bao thanh toán dựa trên hợp đồng mua bán, 
trong đó bên bán hàng và bên mua hàng đều là người cư trú theo quy định của 
pháp luật về quản lý ngoại hối. 
 Bài 5: Các nghiệp vụ tín dụng 
NEU_NHTM1_Bai5_v1.0013109226 69 
 Bao thanh toán xuất nhập khẩu (bao thanh toán quốc tế): Là việc bao thanh toán 
dựa trên hợp đồng xuất nhập khẩu, trong đó bên bán hàng và bên mua hàng cư trú 
ở những quốc gia khác nhau. 
Phân loại theo phương thức bao thanh toán: 
 Bao thanh toán từng phần: Là phương thức áp dụng đối với khách hàng (Bên bán 
hàng) có nhu cầu bao thanh toán từng lần. Mỗi lần bao thanh toán, ngân hàng và 
bên bán hàng thực hiện các thủ tục cần thiết và ký hợp đồng bao thanh toán đối 
với các khoản phải thu của bên bán hàng. 
 Bao thanh toán theo hạn mức: Là phương thức áp dụng đối với khách hàng có nhu 
cầu bao thanh toán thường xuyên, kinh doanh ổn định. Ngân hàng và bên bán hàng 
thoả thuận và xác định một hạn mức bao thanh toán duy trì trong một khoảng thời 
gian nhất định. Trong thời gian hiệu lực của hợp đồng hạn mức bao thanh toán, 
khách hàng có thể vừa được ứng trước, vừa thanh toán khoản ứng trước và đảm 
bảo số dư ứng trước không vượt quá hạn mức ứng trước. 
Phân loại theo số lượng ngân hàng tham gia một hợp đồng bao thanh toán: 
 Bao thanh toán đơn: Chỉ có một ngân hàng (một đơn vị bao thanh toán) tham gia 
vào hợp đồng bao thanh toán. 
 Đồng bao thanh toán: Hai hay nhiều đơn vị bao thanh toán cùng thực hiện hoạt 
động bao thanh toán cho một hợp đồng mua, bán hàng, trong đó một đơn vị bao 
thanh toán làm đầu mối thực hiện việc tổ chức đồng bao thanh toán. 
5.6.4. Lợi ích của bao thanh toán 
Đối với bên bán hàng 
Thứ nhất, bên bán hoàn toàn có thể tăng lượng vốn 
lưu động và khả năng thanh khoản do được tài trợ 
ứng trước. Bên bán được cải thiện tình hình ngân quỹ, 
được cung cấp nguồn tài chính để đảm bảo hoạt động 
sản xuất kinh doanh ổn định. Điều này cho phép bên 
bán tận dụng lợi thế chiết khấu khi bán hàng, đương 
đầu với nhu cầu hàng hóa lưu kho tăng cao và đáp 
ứng được những yêu cầu tài trợ mang tính thời vụ. 
Thứ hai, bên bán nâng cao hiệu quả hoạt động nhờ chuyên môn hóa sản xuất. Người 
bán không còn phải tốn chi phí để duy trì và điều hành một bộ phận chuyên trách việc 
xem xét khách hàng có đủ điều kiện mua chịu hay không, cũng như phải kiểm tra và 
thu hồi các khoản nợ này nữa. Với kinh nghiệm, nguồn lực vật chất và nguồn nhân lực 
được đào tạo bài bản của mình, các tổ chức bao thanh toán sẽ giải quyết nhanh chóng, 
chuyên nghiệp và hiệu quả mọi vấn đề liên quan đến các hóa đơn và việc thu hồi nợ. 
Thứ ba, vì tài sản thế chấp không còn là điều kiện bắt buộc nên bên bán có thể giải 
quyết được nhu cầu cấp bách về vốn. Đây có thể được coi là vấn đề rất quan trọng 
đối với những quốc gia mà công nghệ ngân hàng chưa phát triển đến trình độ cao, 
việc quyết định cấp tín dụng hay không phần lớn phụ thuộc vào tài sản đảm bảo của 
khách hàng. 
 Bài 5: Các nghiệp vụ tín dụng 
70 NEU_NHTM1_Bai5_v1.0013109226 
Thứ tư, bên bán có cơ hội tiếp cận với những cơ hội giao thông quốc tế, khi bao thanh 
toán được áp dụng rộng rãi, được sự tư vấn của đơn vị bao thanh toán để hạn chế 
những rủi ro trong quan hệ mua bán với các nước khác tới mức thấp nhất. 
Đối với bên mua hàng 
Khi tham gia bao thanh toán, bên mua hàng dễ đàm phán điều khoản thanh toán tốt 
hơn (tăng thời hạn trả chậm) với bên bán hàng, có thể tập trung thanh toán cho các nhà 
cung cấp về một ngân hàng và nhanh chóng đặt hàng mà không bị trì hoãn do các trở 
ngại về vấn đề thiếu vốn từ đơn vị sản xuất. 
Đối với đơn vị bao thanh toán (ngân hàng) 
Tạo được một nguồn doanh thu không nhỏ từ nghiệp vụ bao thanh toán (phí, lãi suất), 
đồng thời đa dạng hóa dịch vụ, hướng tới các dịch vụ trọn gói, tăng tính cạnh tranh, 
nâng cao uy tín, thương hiệu của ngân hàng. 
Đối với các quốc gia áp dụng bao thanh toán 
Thứ nhất, việc áp dụng bao thanh toán thường xuyên và hiệu quả sẽ giúp tăng cao lợi 
thế cạnh tranh và thu hút giao thương quốc tế trong điều kiện quốc gia đó còn nhiều 
hạn chế về luật thương mại, hệ thống luật phá sản và kinh nghiệm quản lý. Đặc biệt là 
trong hoạt động giao thương quốc tế, các bên rất hạn chế giao dịch đối với bên mua tại 
các quốc gia có luật thương mại yếu kém vì cơ sở giao dịch không được bảo đảm. 
Điều này cũng đồng nghĩa với sự phát triển của quốc gia đó có nhiều hạn chế, sự hấp 
dẫn đầu tư cũng giảm sút. 
Thứ hai, bao thanh toán đem lại lợi thế đối với việc tài trợ các khoản phải thu giữa các 
quốc gia. Trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập hóa như hiện nay thì việc giao thương 
mua bán giữa các quốc gia, giữa các công ty của quốc gia này với các công ty của 
quốc gia khác là điều rất thường xuyên. Thông qua sản phẩm bao thanh toán, những 
quốc gia của bên bán có thể tăng cường tài trợ trực tiếp cho bên bán để tăng cường 
phát triển kinh tế nhưng cũng đồng thời đảm bảo nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. 
 Bài 5: Các nghiệp vụ tín dụng 
NEU_NHTM1_Bai5_v1.0013109226 71 
Tóm lược cuối bài 
Tín dụng là nghiệp vụ tạo nên tỷ trọng tài sản lớn nhất và mang lại nhiều doanh thu nhất cho 
NHTM. Nghiệp vụ cấp tín dụng bao gồm cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh và 
bao thanh toán, trong đó cho vay hình thức tín dụng chủ yếu với tỷ trọng lớn nhất trong danh 
mục cấp tín dụng của ngân hàng, và cũng là nguồn thu nhập chính của ngân nhiều hàng. Mỗi 
hình thức cấp tín dụng đều có ưu nhược điểm riêng đối với cả ngân hàng và khách hàng. Việc 
lựa chọn hình thức nào phụ thuộc vào nhu cầu vay vốn, khả năng hoàn trả nợ của khách hàng, 
cũng như khả năng đáp ứng của từng ngân hàng. 

File đính kèm:

  • pdfbai_giang_quan_tri_ngan_hang_thuong_mai_bai_5_cac_nghiep_vu.pdf