Bài giảng Nguyên lý thiết kế kiến trúc nhà ở
Chương 1
Sơ lược quá trình phát triển kiến trúc nhà ở
và những yếu tố ảnh hưởng đến kiến trúc nhà ở
1.1. Sơ lược quá trình phát triển của kiến trúc nhà ở
1.1.1. Kiến trúc nhà ở thời xã hội nguyên thuỷ
Con người thời nguyên thuỷ còn phải sống kiểu du cư thành từng đàn, chưa hình
thành gia đình. Vào thời đó, do trình độ sản xuất rất thấp kém và lạc hậu, nơi ở của bộ lạc
con người còn rất thô sơ. Họ sinh tồn và phát triển dựa trên kinh tế săn bắt và hái lượm.
Họ sống lang thang nay đây mai đó, không ổn định và không định cư một cách lâu dài ở
một nơi nào cả. Nhờ những ngành khoa học mới, đặc biệt là ngành khảo cổ học mà ngày
nay chúng ta biết được rõ hơn những nơi ở đơn giản ban đầu của họ (khi phát hiện khai
quật lên những di chỉ công trình từ xa xưa, hay nhờ các công trình nghiên cứu những bộ
lạc nguyên thuỷ còn tồn tại sống rải rác trên khắp thế giới hiện nay).
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Nguyên lý thiết kế kiến trúc nhà ở
ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ KHOA KIẾN TRÚC Ths. Kts. Trần Đình Hiếu NGUYÊN L Ý THI ẾT KẾ KIẾN TRÚC NHÀ Ở Huế, 10/2007 1 LỜI NÓI ĐẦU Có thể nói kiến trúc nhà ở có ý nghĩa rất lớn trong quốc kế dân sinh, nó luôn là tâm điểm của những vấn đề xã hội, bất luận ở không gian hay thời gian nào. Nhà ở là loại hình kiến trúc xuất hiện sớm nhất. Đó là những không gian kiến trúc phục vụ cho đời sống sinh hoạt gia đình và con người. Trước tiên, nhà ở đơn thuần chỉ là một nơi trú thân đơn giản nhằm bảo vệ con người chống lại những bất lợi của điều kiện thiên nhiên hoang dã như nắng, mưa, tuyết, gió, lũ, bão, thú rừng...đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho người và gia đình của họ những điều kiện để nghỉ ngơi tái phục sức lao động, sinh con đẻ cái để bảo vệ nòi giống, sau cùng còn có thể làm kinh tế để sinh tồn và phát triển. Trong xã hội hiện đại, nhà ở còn là những trung tâm tiêu thụ, nơi hưởng những thành tựu của khoa học kỹ thuật do xã hội cung cấp với đầy đủ những tiện nghi của văn minh đô thị. Nhà ở từ một đơn vị “kinh tế - hưởng thụ” vẫn còn đang tiến hoá dần để đến xã hội tương lai trở thành một đơn vị “tổ ấm - sáng tạo” của con người trong xã hội công nghệ thông tin, sinh học hiện đại. Nhà ở - tổ ấm gia đình ngày nay, thực sự là một phúc lợi lớn của con người do xã hội văn minh đem lại. Tại nhà ở, con người cần có những phòng ốc, những không gian để thoả mãn mọi nhu cầu ngày càng cao của con người về thể chất, tinh thần và trí tuệ; tiến tới nhà ở sẽ có những thư viện gia đình, xưởng sáng tác hay nghiên cứu và những tiện nghi phục vụ chất lượng sống cao cấp. Nhà ở là một nhu cầu hạnh phúc đời sống chính đáng, quan trọng của tất cả mọi người trên hành tinh này. Một xã hội tiến bộ là một xã hội phải biết chăm lo và tạo điều kiện để con người và gia đình mưu cầu được một chỗ ở ổn định để thoả mãn nguyện vọng chính đáng “an cư lạc nghiệp” này. Kiến trúc nhà ở từ lâu đã là mối quan tâm lớn của kiến trúc sư nhiều thế hệ . Những kiến trúc sư bậc thầy của thế giới không ai là không quan tâm và có những kiến nghị đóng góp cho sự phát triển của kiến trúc nhà ở. Mới nhìn vào kiến trúc nhà ở tưởng chừng như đơn giản nhưng thực ra chúng lại hết sức phức tạp bởi vì nó có mối liên quan mật thiết đến sở thích, lối sống của từng con người và từng gia đình. Trong xã hội có bao nhiêu con người là có bấy nhiêu tính cách, bao nhiêu gia đình thì có ngần ấy nguyện vọng, sở thích về hình mẫu tổ ấm gia đình. Người Việt nam và người Phương Đông đã có quan niệm “có an cư mới lập nghiệp” nên nhà ở có yếu tố ảnh hưởng quan trọng và trực tiếp đến chất lượng cuộc sống. Nhà ở góp phần quan trọng trong xây dựng cuộc sống gia đình và xã hội. Dưới một mái nhà làm cho người khoẻ mạnh, bình yên, làm việc, lao động, học tập hăng say và có kết quả, kinh tế gia đình phát triển, giáo dục con cái thành đạt, giữ được truyền thống văn hoá tốt đẹp, lành mạnh, xây dựng được nếp sống văn hoá văn minh, đoàn kết hữu ái với cộng đồng. Môn Nguyên lý thiết kế kiến trúc nhà ở cung cấp những kiến thức cơ bản về nhà ở và giúp cho việc học đồ án thiết kế công trình nhà ở của đối tượng là sinh viên năm thứ hai. Nguyên lý thiết kế kiến trúc nhà ở là kiến thức tổng hợp nhằm giải quyết các vấn đề của việc lý luận và đưa ra các cơ sở cho thiết kế các thể loại công trình nhà ở. Giáo trình “ Nguyên lý thiết kế kiến trúc nhà ở ” được soạn thảo dựa trên cơ sở các cuốn sách của các tác giả đã được xuất bản và đã áp dụng giảng dạy trong ngành kiến 2 trúc công trình dân dụng như PGS.TS. Nguyễn Đức Thiềm; KTS Lương Anh Dũng; Tiêu chuẩn về nhà ở của Bộ xây dựng,....Nội dụng giáo trình này dựa trên cơ sở đề cương giảng dạy cho sinh viên kiến trúc của các trường đào tạo kiến trúc sư trong cả nước. các kiến thức được tổng hợp, và phát triển những nội dung để đảm bảo tính cơ bản, hiện đại và phù hợp với điều kiện ở Việt nam. Các nội dung về tổ chức các không gian trong các loại nhà ở, các thành tựu trong việc xây dựng nhà ở hiện đại, cũng như đề cập đến các vấn đề về phong tục tập quán lối sống truyền thống của người Việt nam. Các số liệu mới đã được nghiên cứu thực tế được đưa vào cho phù hợp với điều kiện ở mới của Việt nam và đáp ứng kiến thức mới cho người học. Vì vậy giáo trình này là một tài liệu cơ bản có tính nguyên lí thiết kế công trình nhà ở, nhằm để các cán bộ giảng dạy tham khảo và là giáo trình để giảng dạy cho sinh viên chuyên ngành kiến trúc công trình. Tôi hy vọng, tài liệu này sẽ mang lại cho cán bộ và sinh viên thuộc chuyên ngành kiến trúc những kiến thức thiết thực và cung cấp phần lớn kiến thức cơ bản về lĩnh vực nhà ở. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp chân thành của các đồng nghiệp để cho giáo trình ngày càng hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn! Tác giả 3 Chương 1 Sơ lược quá trình phát triển kiến trúc nhà ở và những yếu tố ảnh hưởng đến kiến trúc nhà ở 1.1. Sơ lược quá trình phát triển của kiến trúc nhà ở 1.1.1. Kiến trúc nhà ở thời xã hội nguyên thuỷ Con người thời nguyên thuỷ còn phải sống kiểu du cư thành từng đàn, chưa hình thành gia đình. Vào thời đó, do trình độ sản xuất rất thấp kém và lạc hậu, nơi ở của bộ lạc con người còn rất thô sơ. Họ sinh tồn và phát triển dựa trên kinh tế săn bắt và hái lượm. Họ sống lang thang nay đây mai đó, không ổn định và không định cư một cách lâu dài ở một nơi nào cả. Nhờ những ngành khoa học mới, đặc biệt là ngành khảo cổ học mà ngày nay chúng ta biết được rõ hơn những nơi ở đơn giản ban đầu của họ (khi phát hiện khai quật lên những di chỉ công trình từ xa xưa, hay nhờ các công trình nghiên cứu những bộ lạc nguyên thuỷ còn tồn tại sống rải rác trên khắp thế giới hiện nay). Vào thời kỳ đồ đá cũ con người cổ xưa sống trong những hang động nguyên sơ hoặc cao hơn là những hang động có gia công chút ít, những hốc núi những hố đá tự nhiên có xếp chèn thêm đá nhỏ, vụn, chung quanh hay có ken đất, cành lá cho kín đáo. Tiếp đến, nhà ở của họ có hình thức kiểu lợp che chắn thô sơ, những vòm lá kín đáo ở trên cao để tạo nên chỗ ẩn náu tránh được mưa gió, tránh được ảnh hưởng trực tiếp của khí hậu tự nhiên, tránh được hiểm hoạ của những cơn nước lũ, mưa rừng và còn tránh được sự dòm ngó, đe doạ của thú rừng. Sau đó là đến nơi ở có mặt bằng hình tròn xây dựng bằng đá hay lá kết bằng các cành cây (hình 1). Một thế kỷ sau khi phát hiện ra châu Mỹ, người ta còn phát hiện ra những bộ lạc sống từ thời đồ đá. Loại lều của họ có thể xây bằng vỏ cây hoặc bằng đất. có loại nhà vòm cây bằng đất có trổ cửa trên đỉnh mái để lấy ánh sáng và kết hợp để thông thoáng (hình 2) Cách dựng lều điển hình của thổ dân da đỏ (theo Oatecman) được bắt đầu từ xây dựng một khung hình chữ V ngược, buộc lại ở chỗ giao điểm, rồi dựng thêm một chiếc sào thứ ba làm thành thế chân vạc, nhiều sào phụ khác được dựng tiếp theo và dùng thừng chằng các sào lại với nhau để cuối cùng mái sào được buộc chặt vào khung và ghim chặt xuống đất bằng cọc. Lều thường thấy ở châu Mỹ là loại lều làm bằng thân cây có lợp vỏ cây hoặc phủ bằng da của Hưu Tuần lộc. Điều kiện địa lý khác nhau, lều cũng có hình thức khác nhau. Những người Etxkimä Bắc Cực trong những lều tròn xây dựng bằng băng và băng càng mới nhà càng ấm. Trong khi đó, người ở vùng sông Amua dựng những lều hình yên ngựa; còn lều của người dân du mục vùng Bắc Phi có dạng hình chữ nhật phủ lá cây hoặc da thú. Khi cuộc sống du cư chuyển sang định cư, con người vẫn sống theo chế độ xã hội nguyên thuỷ nhưng đã hình thành gia đình và cả thị tộc cùng tham gia xây dựng nhà ở, làm xuất hiện một loại nhà dài cho vài gia đình. Có nhà chứa được hàng chục gia đình hay hàng trăm người. Tại New Youk, người ta tìm thấy những nhà dài từ 15 đến 18 mét, giữa nhà có hành lang rộng 1,8 đến 2,5 mét có vách ngăn bằng vỏ cây. Cứ bốn gian lại có một bếp lò và toà nhà có từ năm đến bảy bếp lò. 4 Làng xóm bấy giờ, ngoài chướng ngại vật bao xung quanh còn có thêm kho và chuồng súc vật. Tại Ba Lan đã tìm thấy một di chỉ một thôn xóm xã hội nguyên thuỷ với những nhà dài từ 3-12 gian, mỗi gian có một bếp lò. Các nhà xếp song song và cách nhau một con đường có lát gỗ ròng từ 2,1-3,1m. Làng Bixcupinxki nguyên thuỷ này rộng tới 2,5 ha. Mỗi nhà trong làng có tường đất đắp và mái nhà dốc. Hình 1: Mặt bằng bố trí các không gian ở thời Nguyên thuỷ Các nhà khảo cổ học còn tìm ra được cả một ngôi làng nổi trên hồ Zurêch ở Thuỵ Sĩ. Bí mật này được phát hiện vào năm 1854. Trong một vùng rộng khoảng 4000m2 đã phát hiện được bốn vạn cột gỗ sồi, bạch dương hay gỗ thông, đầu cột được vót nhọn bằng rìu đá. Những vật liệu xây dựng đó còn được giữ cho đến ngày nay là do có một lớp bùn dày che chở. Người ta cũng tìm thấy rìu đá và những sản phẩm bằng gốm có hoa văn đơn giản. Điều này đã giúp con người hiện đại khôi phục lại được bức tranh sinh hoạt của con người trong thời kỳ đồ đá khi mà học đã định canh, định cư từ bỏ cuộc sống du mục. Đó 5 là những ngôi nhà sàn hình trong có mái hình nón được đặt trên một mặt sàn đặt nổi trên mặt nước nhờ một hệ thống cột. Lúc bấy giờ con người thích sống trên hồ hay gần bờ sông để tiện lợi sinh hoạt và chống lại được thú dữ hay bộ lạc kẻ thù. Hình 2: Hình thức nhà ở bằng lều tranh, lá 1.1.2. Kiến trúc nhà ở thời kỳ chiếm hữu nô lệ Loài người khi ấy đã hoàn toàn chuyển từ nền kinh tế du canh sang định cư tại những vùng đất phì nhiêu dễ dàng kiếm sống lâu dài. Lúc này nền kinh tế của loài người đã có sự kết hợp giữa săn bắn và lao động sản xuất. Thời kỳ này con người đã chủ động can thiệp vào thiên nhiên. Họ đã tìm ra nhiều cách để cải tạo nên môi trường sống thích ứng và tốt đẹp hơn. Ngoài việc canh tác trồng 6 trọt, săn bắn, hái lượm, họ cũng đã biết thuần dưỡng thú hoang dã và các khu vực ở đã có thêm những chuồng trại đơn sơ. Cũng lúc này xã hội loài người đã phân hoá hình thành những gia đình và bắt đầu sự phân công xã hội rõ rệt. Bên cạnh những người lao động tự do, xã hội còn hình thành nên tầng lớp nô lệ và chủ nô. Nhà ở của họ lúc này đã có những biến đổi sâu sắc. Sự phân hoá giai cấp thấy càng rõ nét hơn khi chúng ta ngồi vào ngôi nhà ở của họ, đó là nhà ở của giai cấp thống trị (bọn chủ nô...) và của giai cấp bị thống trị (người nô lệ). Các chủ nô thường sống trong những ngôi nhà lớn hay trang trại có bố phòng kỹ lưỡng xây dựng kiên cố, còn những người lao động tự do và nô lệ phải sống trong những ngôi nhà được tổ chức đơn sơ bằng những vật liệu có sẵn trong thiên nhiên như thảo mộc, đất đá, rơm rạ. Chỗ ở của họ đôi khi còn tuỳ tiện, bẩn nhiên hôi thối. Nội dung nhà ở còn màn rõ tính chất dân chủ và bình đẳng với những không gian đơn sơ và đa năng. Trong xã hội nô lệ thì dần dần những không gian này đã được chia nhỏ thành những không gian riêng biệt như kho chứa lương thực dự phòng, nơi chăn nuôi và sinh hoạt... Điều đó cũng cho ta thấy được sự khác biệt rất rõ nét giữa nhà ở của chủ nô và nhà ở của nô lệ về nội dung cũng như hình thức tổ chức không gian. Nhà ở chủ nô là một quần thể toà ngang, dãy dọc quây quanh những sân trong với từng không gian với chức năng riêng, các chuồng trại, chổ ở của nô lệ được tách xa và xây dựng tạm bợ. Thời chế độ chiếm hữu nô lệ, nền văn minh nhà ở đã được bộc lộ rất rõ nét ở Ai Cập, Hy Lạp, La Mã và Ấn Độ, những cái nôi của nhân loại. Tại Ai Cập cổ đại, nhà ở thường làm bằng đất sét, lau sậy và gạch nung chỉ thấy có trong nhà của quý tộc. Khoảng 4000 năm trước công nguyên, ở gần Cairo người ta đã phát hiện ra một điểm dân cư lớn với hai loại nhà cổ điển. Loại nhà khung gỗ, tường gỗ, trên khung có cài tường bằng gỗ xen sậy. Nhà có phong cách nhẹ nhàng và chất lượng thẩm mỹ tương đối cao. Loại nhà có kết cấu gạch không nung, tường móng làm bằng đá hộc, hình dáng nặng nề không ổn định. Nhà ở bấy giờ đã phản ánh rõ nét sự đối lập giàu nghèo. Mặt bằng nhà ở quý tộc Ai Cập thời kỳ này có những đặc điểm sau: mặt giáp phố không trổ cửa sổ, chỉ có cửa hẹp thông vào sân trong, Trong nhà có các phòng cho nam và nữ riêng biệt, phòng lớn có độ cao lớn, phòng nhỏ có độ cao bé hơn, phần chênh lệch về độ cao này dùng để làm cửa trời thông gió, từ sân có cầu thang lên mái được dùng làm nơi để hóng mát. Phát triển gần như song song với Ai Cập cổ thì châu Á có đất nước Trung Hoa và Ấn Độ cũng đã có một nền văn minh nhà ở cổ đại cũng rất đáng được chú ý. Thế giới biết đến người Ấn Độ cổ đại như những nhà quy hoạch đô thị tiên phong qua dấu vết của các thành phố cổ Mohenzo davo và Sanho daro (ở vùng Vịnh) cũng như Harrappa. Tại đây có những ngôi nhà gạch màu đỏ, mái bằng có tường ngăn xây lửng đến trần để thông gió. Trong thành phố còn có cả nhà hai tầng, tầng dưới là bếp, nhà tắm, kho, giếng, tầng trên là các phòng ngủ. Từ thời đại đồ Đá tiến lên thời đại đồ Đồng ở Việt Nam tổ tiên xa xưa của chúng ta cũng đã rời bỏ hang động miền núi để xuống miền trung du và đồng bằng, quần tụ theo từng cụm mãng ở các đỉnh gò, sườn đồi chân núi và đồi đất. Do sinh trụ giữa trời nên việc dựng nhà sao cho vững cứng ổn định trở thành nhu cầu bức thiết. Trải qua một quá trình dài thực nghiệm và cải tiến, đến giai đoạn văn hoá đông Sơn, mô hình ngôi nhà đã hoàn chỉnh và khá phong phú mà hình ảnh cụ thể của nó còn được lưu giữ khắc trên một số trống đồng Đông Sơn mà dấu vết vật chất của nó cũng được tìm thấy ở di chỉ Đông 7 sơn (Thanh Hoá), đó là những gióng tre, những mảnh phên đan và đặc biệt là những cột nhà bằng gỗ dài đến 4,5m có lỗ mộng (để bắc sàn?) cách chân cột trung tâm 1,25m. đó là những ngôi nhà ở trên sàn, không có tường, mái cong võng hình thuyền và chảy xuống sát sàn, kiêm luôn chức năng vách che, hai đầu mái phía trên uốn cong cuộn lại và nhô ra phía xa, trên nóc mái trang trí có một hoặc hai con chim đậu. Cạnh nhà ở còn có nhà kho cũng ở trên sàn, mái cong vòng lên hình mui thuyền, tĩnh mà lại rất động, thanh thoát mà rất chắc chắn, thích nghi với khí hậu có nắng nóng và mưa to, hợp với khung cảnh thiên nhiên vốn nhiều ngòi lạch chằng chịt mà hàng năm vào mùa mưa nước dâng lên ngập trắng cả vùng. để dựng lên những ngôi nhà sàn này, cư dân Đông Sơn dùng ngay vật liệu sẵn có trong rừng như tranh, tre, gỗ với cấu trúc bộ khung cột để chuyển xuống đất, mặt ngoài có một số mô típ hình chim, gà sử dụng ở độ vừa phải không hề lạm dụng, đủ để làm duyên. Ngôi nhà sàn đông Sơn võng nóc hình thuyền này được thấy tồn tại ở các dạng nhà hình thuyền của người Dayake và người Toraja trên quần đảo Indonesia, hoặc còn thấy được ở nhà sàn đông Sơn để có nóc thẳng còn thấu một số dạng nhà ở khác hoặc nhà mồ của một số bộ phận thổ dân trên quần đảo Inđônêxia, hoặc còn thấy được ở cả nhà người Êđê trên Tây Nguyên... chứng tỏ giữa các khối cư dân này có một mối liên hệ mật thiết mà riêng ở kiến trúc có một sự “bảo thủ” dai dẳng, để qua đó (không hề khiêng cưỡng) thấy được ở cả khung cảnh Đông Nam Á chịu sự toả sáng của văn hoá Đông Sơn. 1.1.3. Kiến trúc nhà ở giai đoạn xã hội phong kiến Thời kỳ xã hội phong kiến sự phân hoá ... 103 (chủ nghĩa quốc tế) vì không hợp với cả khí hậu lẫn văn hoá địa phương. Vì vậy, trước tình hình đó, từ năm 1980 trở về đây, tiến sĩ kiến trúc sư Ken Yeang (Malaysia) và công ty của ông phấn đấu không mệt mỏi để duy trì việc thiết kế các nhà ở cao tầng trên cơ sở nghiên cứu sâu sắc mối quan hệ giữa kiến trúc và sinh thái. Trong điều kiện phát triển kinh tế nhanh chóng của xã hội Malaysia, các toà nhà cao tầng chiếm một vai trò quan trọng trong cơ cấu đô thị. Ông đã tìm đến cấu trúc nhạy cảm với khí hậu và văn hoá truyền thống thông qua hơn 200 chi tiết kiến trúc, mà theo ông nó đóng vai trò quan trọng trong mối liên hệ mật thiết của nhà cao tầng với môi trường nhiệt đới nóng ẩm. Đó là một thành công không nhỏ. Kiến trúc sinh thái theo ông phải “tính đến những ảnh hưởng sâu rộng đôi khi có hại là quá trình đô thị hoá tác động rất xấu vào môi trường thiên nhiên. Kiến trúc sinh thái phải được phát triển không chỉ để bảo đảm sự bảo tồn những gì cần để lại, mà còn phải bảo đảm sự tồn tại lâu dài của sinh quyển và hành tinh như một tổng thể hài hoà”. Cũng có phần giống như ở Việt Nam về đặc trưng nóng ẩm (tính ẩm có phần gay gắt hơn), nhà ở nông dân truyền thống của Malaysia thường dùng các bức tường như bộ phận trợ giúp cho việc thông hơi thoáng gió, các kiểu mái tranh, mái đan bằng tre nứa chống chói và lọc bức xạ, và đó chính là những yếu tố đem lại cảm hứng trong sáng tác kiến trúc của ông. Ông đã nghiên cứu lý thuyết và đưa ra các giải pháp kiến trúc nhà cao tầng có khả năng tác động qua lại giữa kiến trúc với môi trường xung quanh, nhờ vào sự xác định hướng gió, nắng, các kiểu mái hắt, các cách thông gió tự nhiên... tất cả được khái quát hoá những biến thể mở rộng vào các giải pháp kiến trúc có tính “sinh - khí hậu" của các nhà tháp ở Malaysia. Sự thử nghiệm đầu tiên chính là ngôi nhà “mái chồng mái” mà ông tự xây dựng cho mình năm 1983. Quan niệm thiết kế của ông là coi nó như một hệ thống rào chắn (bằng hệ thống tường như những tấm lọc môi trường) bao quanh không gian sử dụng bên trong, tạo cho ngôi nhà như một tế bào sống trong khung cảnh thiên nhiên bao chứa nó. Các không gian chính quay ra hướng Bắc - Nam. các phòng khách và sinh hoạt còn mở rộng về phía Đông để quay ra bể bơi nhằm đón luồng gió Đông Nam đã được làm mát bởi hơi nước, đã làm thay đổi vi khí hậu trong các phòng khách lớn. Các tấm tường lớn được thiết kế như một hệ thống rèm trượt, panen đặc, panen kính, cửa chớp lật (được phân chia làm nhiều lớp có thể di chuyển cơ động linh hoạt) được dùng để điều khiển vi khí hậu theo sự thay đổi tương ứng của môi trường vĩ mô. Độc đáo nhất là ngôi nhà có thêm bốn lớp mái “kiểu đan phên” truyền thống, nhưng được đổ liền khối bằng lớp bêtông cốt thép, phủ lên toàn bộ mái bằng với các sân, hiên, bể bơi phía dưới. Ý tưởng của tác giả muốn dùng mái phụ đó để lợi dụng các yếu tố có lợi như tăng độ mát của làn gió thổi qua bể bơi tới các tầng nhà. Từ ngôi nhà đầu tiên đó, những năm về sau ông đã thành công trong sự nghiệp thiết kế nhà cao tầng ở vùng nhiệt đới nóng ẩm với hàng loạt các nhà tháp: trung tâm thương mại IBM, nhà tháp quảng trường Atrium, nhà tháp Menara Mesiniaga, trung tâm thương mại Central, văn phòng Budaya... (Kualua Lumpur) và số lớn các nhà cao tầng ở Trung Quốc. Năm 1989 Ngôi nhà 15 tầng Menara Mesiniaga đưa vào sử dụng đã khẳng định những nguyên tắc thiết kế của Yeang về kiến trúc sinh - khí hậu và đã được coi như một mẫu mực phát triển đúng đắn của kiến trúc cao tầng Đông Nam Á (theo đánh giá của phương Tây). Ngoài việc đặt hướng nhà sao cho các phòng sử dụng đón được hướng gió tốt (Nam, Đông Nam), các khu vệ sinh và thang nằm ở góc Đông và Tây, ông còn tiến thêm một bước trong ý đồ thiết kế tạo lập một môi trường sinh thái tự nhiên (như một phần của tổng thể địa phương) bao quanh ngôi nhà. Những phần luôn được che nắng bởi 104 bóng đổ của ngôi nhà đã khuyến khích đời sống tự nhiên phong phú của hệ động vật địa phương phát triển. Ngôi nhà cũng sử dụng một loạt các giải pháp truyền thống khi xử lý các khoảng sân trời bán mái trong các tầng, cấu tạo lớp tường kép bằng tấm cách nhiệt ở hướng Đông và Tây, sáng tạo mái đan phên chống bức xạ có thể tự di động theo đường mặt trời... Các điều kiện khí hậu lý tưởng đạt được trong các phòng sử dụng không cần đến hệ thống điều hoà đã khiến ngôi nhà này được coi là “Mô hình của chủ nghĩa hiện đại nhiệt đới đáng tin cậy về mặt môi trường” (Clifford - nhà bình luận kiến trúc người Anh). Hình 42: Công trình nhà ở tại Việt nam - Ở Việt Nam, nói chung là nhà ở cao tầng chưa phát triển nhiều, mức độ đáp ứng của nó cho nhu cầu ở tại các đô thị còn thấp , mới có ở một số ít ở thành phố (Hà Nội, Hồ 105 Chí Minh). Việc đưa dân cư vào sống trong các nhà ở cao tầng mới chỉ là giai đoạn bắt đầu thí điểm ở Việt Nam. Trong khi đó ở các nước ngay trong khu vực Đông Nam Á, nhà ở cao tầng mọc lên như nấm, phát triển rất nhanh. Đấy là điều kiện tốt để Việt Nam học hỏi và tham khảo. 5.2.5 Xu hướng phát triển của nhà khối ghép tại Việt nam - Trong khoảng thời gian những năm 1980-1990 các căn hộ khối ghép xây dựng một cách tự phát, thiết kế rất sơ lược đơn giản chủ yếu chỉ để đáp ứng các nhu cầu tối thiểu tạm thời trước mắt về chỗ ở. Các căn hộ thường hai tầng, chưa chú ý đến vẻ đẹp tổng thể cũng như của từng căn hộ. Diện tích sử dụng của các căn hộ thậm chí không đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng tối thiểu dẫn đến tình trạng cơi nới, chắp vá gây ảnh hưởng đến mỹ quan chung của ngôi nhà. - Sau năm 1990, kinh tế xã hội bước đầu thoát khỏi khủng hoảng. Thu nhập bình quân đầu người tăng, chất lượng cuộc sống ngày càng được chú ý hơn. Ngôi nhà không còn chỉ là chỗ trú chân, văn hoá ở trở thành một nhu cầu thiết yếu cho mọi gia đình. Trào lưu mua đất xây nhà bùng nổ do điều kiện sinh hoạt trong các chung cư không đáp ứng được cuộc sống hiện đại. Bộ mặt hè phố thay đổi từng ngày, các khu dân cư mới ngày càng mở rộng. Gắn liền với nó là những kiểu nhà biệt thự hay chia lô được xây dựng ồ ạt và tự phát, thiếu một quy hoạch tổng thể chung. Ai cũng muốn có một căn nhà theo sở thích riêng dẫn đến sự sao chép tuỳ tiện những hình thức chi tiết kiến trúc mà họ cho là “đẹp” nhưng trên thực tế lại rất “kém thị hiếu”. Tổng thể chung khu ở, đường phố trở nên lộn xộn trái ngược với mong muốn của công chúng. - Trong tình hình đó, xây dựng nhà khối ghép với những ưu điểm vốn có của nó trở nên rất thích hợp với nhiều đối tượng gia đình. - Nhà khối ghép đã trở thành xu hướng chủ đạo không chỉ ở vùng ven đô, thị trấn, thị xã mà ở cả thành phố du lịch, khu nghỉ mát. Ở nước ngoài (Mỹ, Thái Lan, Malaysia...) dễ dàng bắt gặp khắp nơi những nhà khối ghép đa dạng về chủng loại, phong phú về màu sắc, kiểu cách sang trọng và rất thời thượng (cho cả tầng lớp thượng lưu), được phối hợp hài hoà độc đáo với các khối mảng cây xanh của nhà vườn - biệt thự, với hình khối kiến trúc các nhóm quần thể chung cư nhiều tầng và cao tầng, tạo nên cảnh sắc, bóng dáng đô thị vui mắt sinh động và đầy sức hấp dẫn và hiện đại... - Tìm kiếm các dạng nhà ở thấp tầng liên kế mật độ cao (có sân trong) để nâng cao mật độ cư trú, hệ số sử dụng đất nằm mở rộng hơn nữa phạm vi áp dụng nó trong đô thị cũng là một hướng phát triển được nhiều nước chú ý những thập kỷ gần đây. Nhà khối ghép ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong việc giải quyết chỗ ở cho người dân Hà Nội, nâng cao điều kiện sống cho mọi người, mọi nhà. Nhà khối ghép trở thành một yếu tố không thể thiếu trong những loại hình nhà ở. Tất nhiên còn phải qua thực tế sàng lọc. Mong rằng chúng ta sẽ có những căn nhà khối ghép phù hợp hơn trong tương lai. Phần câu hỏi: Câu 19: Anh (Chị) phân tích nhà ở sinh thái? Hãy đưa ra một số ý tưởng nhà ở sinh thái Câu 20: Trình bày xu hướng phát triển nhà ở hiện nay trên thế giới Câu 21: Anh (Chi) hãy phân tích việc phát triển nhà ở tại Việt nam hiện nay đã phù hợp với điều kiện sống của người Việt nam chưa? 106 Danh mục sách tham khảo 1. PGS. TS. KTS. Nguyễn Đức Thiềm - 2004 – Nguyên lý thiết kế kiến trúc nhà dân dụng - NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà nội 2. Bộ xây dựng - 1997 - Tuyển tập (tập IV) Tiêu chuẩn xây dựng của Việt nam - NXB Xây dựng, Hà nội 3. KTS Lương Anh Dũng - 2003 - Chất lượng ở cho đô thị sau năm 2000 - NXB Khoa học kỹ thuật,Hà nội 4. Wiliam.j.r.curtis – 1981 (1995) – Modern architecture since 1900 – Boston – Masachusetts – Hoa kỳ Website tham khảo www.kientrucviet.com.vn, www.diendanxaydung.vn, www.ashui.com, www.act.com.vn, www.wiki.com,.... Câu 1: Trình bày hoàn cảnh hình thành nhà ở Câu 2: Trình bày phát triển nhà ở thời kỳ Tư bản chủ nghĩa và Tư bản chủ nghĩa phát triển cao Câu 3: Trình bày phát triển nhà ở thời kỳ xã hội Nguyên thuỷ Câu 4: Những yếu tố nào ảnh hưởng đến nhà ở? Hãy trình bày một trong những yếu tố đó. Câu 5: Có những hệ thống không gian nhà ở nào? Hãy phân tích cụ thể một không gian Câu 6: Căn hộ là gì? Nêu các thành phần trong căn hộ Câu 7: Hãy cho biết diện tích chuẩn cho các thành phần và phân biệt rõ các loại diện tích trong căn hộ Câu 8: Hãy phân tích một thành phần không gian mà Anh (Chi) thích ở trong căn hộ Câu 9: Hãy vẽ sơ đồ dây chuyền mối quan hệ của một căn hộ Câu 10: Hãy phân biệt nhà ở chung cư và nhà ở tập thể, vẽ sơ đồ minh hoạ Câu 11: Anh (chị), hãy phân tích điểm khác nhau giữa nhà ở nhiều căn hộ và nhà ở kiểu khách sạn. Câu 12: Có những loại nhà ở nào? Hãy trình bày đặc điểm của từng loại Câu 13: Có những cách phân loại nhà ở nào? Hãy trình bày một loại nhà ở phổ biến nhất tại Việt nam. Câu 14: Hãy trình bày chức năng của một căn hộ hiện đại Câu 15: Hãy trình bày xu hướng thiết kế căn hộ hiện nay Câu 16: Có những yêu cầu nào trong thiết kế căn hộ hiện đại? hãy nêu yêu cầu thiết kế phù hợp với tâm sinh lý con người Câu 17: Có những giải pháp nào cho việc thiết kế căn hộ thoả mãn điều kiện tiện nghi và tiết kiệm năng lượng Câu 18: Anh (Chị) phân tích nhà ở sinh thái? Hãy đưa ra một số ý tưởng nhà ở sinh thái Câu 19: Trình bày xu hướng phát triển nhà ở hiện nay trên thế giới Câu 20: Anh (Chi) hãy phân tích việc phát triển nhà ở tại Việt nam hiện nay đã phù hợp với điều kiện sống của người Việt nam chưa? 1 MỤC LỤC Chương 1: Sơ lược quá trình phát triển kiến trúc nhà ở và những yếu tố ảnh hưởng đến kiến trúc nhà ở 1.1. Sơ lược quá trình phát triển của kiến trúc nhà ở 3 1.1.1. Kiến trúc nhà ở thời xã hội nguyên thuỷ 3 1.1.2. Kiến trúc nhà ở thời kỳ chiếm hữu nô lệ 5 1.1.3. Kiến trúc nhà ở giai đoạn xã hội phong kiến 7 1.1.4. Nhà ở thời tư bản chủ nghĩa 8 1.1.5. Nhà ở giai đoạn xã hội tư bản phát triển cao 9 1.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến kiến trúc nhà ở 10 1.2.1 Yếu tố tự nhiên 10 1.2.2 Yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội và văn hoá lối sống ở Việt nam 11 1.2.3. Điều kiện kỹ thuật 17 1.2.4 Yếu tố quy hoạch và đô thị hoá 19 Chương 2: Tổ chức không gian kiến trúc nhà ở 2.1. Hệ thống không gian nhà ở (không gian khu ở) 21 2.1.1. Không gian cá thể 21 2.1.2. Không gian giao tiếp 21 2.1.3. Không gian công cộng 21 2.2. Không gian ở cơ bản trong căn hộ 21 2.2.1. Định nghĩa căn hộ 21 2.2.2. Thành phần và cơ cấu căn hộ 23 2.3. Phân khu chức năng trong căn hộ 37 2.3.1. Phân khu công năng trong căn hộ (dây chuyền) 37 2.3.2. Phân khu chức năng giao thông 39 2.3.3 Diện tích các loại căn hộ điển hình 39 Chương 3: Các loại nhà ở 3.1. Phân loại nhà ở theo yêu cầu quy hoạch 41 3.1.1. Nhà ở đô thị 41 3.1.2. Nhà ở nông thôn 41 3.2. Phân loại theo chức năng sử dụng 44 3.2.1. Nhà ở kiểu biệt thự 44 3.2.2 Nhà ở liên kế (nhà khối ghép) 56 3.2.3 Nhà ở ghép hộ 62 3.2.4 Nhà ở kiểu khách sạn 65 3.2.5 Nhà ở ký túc xá 65 2 3.2.6 Nhà ở nhiều căn hộ (nhà chung cư) 66 3.3 Phân loại dựa trên độ cao 78 3.3.1. Nhà ở thấp tầng 78 3.3.2 Nhà ở có số tầng trung bình 79 3.3.3 Nhà ở cao tầng 79 3.3.4 Nhà ở nhiều tầng (nhà chọc trời) 79 3.4 Phân loại dựa vào đối tượng phục vụ và ý nghĩa xã hội của nó 79 3.4.1 Nhà ở kiểu sang trọng tiêu chuẩn cao 79 3.4.2 Nhà ở cho người có thu nhập cao 79 3.4.3 Nhà ở dành cho người thu nhập khá, trung bình 79 3.4.4 Nhà ở cho người có thu nhập thấp, nghèo khổ 79 Chương 4: Những vấn đề cơ bản trong thiết kế kiến trúc nhà ở 4.1. Chức năng của căn hộ hiện đại 80 4.1.1 Khái niệm chung 80 4.1.2 Các chức năng của căn hộ 80 4.2. Các yêu cầu tâm lý, sinh học của không gian ở 81 4.2.1 Các yêu cầu khi thiết kế phù hợp với tâm sinh lý của con người 81 4.2.2 Các chỉ tiêu về điều kiện môi trường đáp ứng nhu cầu của con người 82 4.3. Nội dung yêu cầu công năng và giải pháp không gian nội thất căn hộ 83 4.3.1. Yêu cầu chung của nhà hiện đại. 83 4.3.2 Các giải pháp tổ hợp không gian nội thất căn nhà ở hiện đại 86 4.4 Yêu cầu về giải pháp kiến trúc, kỹ thuật và thẩm mỹ đối với nhà ở 87 4.4.1 Các yêu cầu về giải pháp kiến trúc và kết cấu 87 4.4.2 Cầu thang trong chung cư nhiều tầng 87 4.4.3 Thẩm mỹ trong kiến trúc nhà ở 88 Chương 5: Những xu hướng và kinh nghiệm trong thiết kế kiến trúc nhà ở 5.1. Các xu hướng và giải pháp nâng cao tiện nghi và chất lượng nhà ở 90 5.1.2 Tính linh hoạt trong thiết kế và khai thác không gian ở 90 5.1.1 Các giải pháp tạo vi khí hậu thuận tiện trong nhà ở 90 5.2 Kinh nghiệm của các nước trên thế giới 90 5.2.1 Kinh nghiệm về tổ chức chung cư cao tầng ở các nước Đông nam á 90 5.2.2 Xu thế phát triển kiến trúc chung cư nhiều tầng và cao tầng trên thế giới 98 5.2.3 Nhà chọc trời hướng tới lý thuyết thiết kế đô thị theo chiều hướng đứng ở châu Á 98 5.2.4 Một số bài học cần rút ra và kinh nghiệm cần hướng tới trong tương lai 98 5.2.5 Xu hướng phát triển của nhà khối ghép 99 Mục lục 104 Tài liệu tham khảo 106 107 TÀI LI ỆU THAM KHẢO 1. PGS. TS. KTS. Nguyễn Đức Thiềm - 2004 – Nguyên lý thiết kế kiến trúc nhà dân dụng - NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà nội 2. Bộ xây dựng - 1997 - Tuyển tập (tập IV) Tiêu chuẩn xây dựng của Việt nam - NXB Xây dựng, Hà nội 3. KTS Lương Anh Dũng - 2003 - Chất lượng ở cho đô thị sau năm 2000 - NXB Khoa học kỹ thuật,Hà nội 4. KTS Nguyễn Tài My – 1995 - Kiến trúc công trình - Những khái niệm cơ bản – ĐH Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh. 5. Wiliam.j.r.curtis – 1981 (1995) – Modern architecture since 1900 – Boston – Masachusetts – Hoa kỳ 1. Thông tin về tác giả: - Họ và tên: Trần Đình Hiếu - N ăm sinh: 24/9/1973 - Nơi công tác: Khoa Kiến trúc, Trường Đại học Khoa học Huế - Địa chỉ: 14/116 Nguyễn Lộ trạch, TP Huế - Điện thoại CQ: 054.3833530; NR 054.3812191; DĐ 0905566906 - Địa chỉ Email: hieuchi2000@yahoo.com 2. Thông tin về giáo trình: - Giáo trình chưa xuất bản - Giáo trình áp dụng cho sinh viên chuyên ngành kiến trúc công trình và chuyên ngành kiến trúc quy hoạch và chuyên ngành xây dựng dân dụng - Giáo trình dành cho tất cả các trường đào tạo Kiến trúc sư - Yêu cầu kiến thức về kiến trúc nhập môn, phương pháp sáng tác kiến trúc trước khi học môn này - Các từ khoá: (nhahue2009)
File đính kèm:
- bai_giang_nguyen_ly_thiet_ke_kien_truc_nha_o.pdf