Bài giảng Lập và quản lý dự án

Chơng 1

Tổng quan về lập dự án đầu t

1.1. Những vấn đề cơ bản về đầu t và đầu t phát triển

1.1.1. Đầu t phát triển

* Khái niệm về đầu t và đầu t phát triển

Đầu t là sự hy sinh các nguồn lực (nguồn lực tiền, tài nguyên thiên nhiên,

sức lao động và trí tuệ) ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm thu đợc

các kết quả (kết quả đạt đợc là sự gia tăng về tài sản, vật chất, tài sản tài chính

hoặc tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất

lao động cao hơn cho nền kinh tế và cho toàn xã hội) thực hiện đợc những mục

tiêu nhất định trong tơng lai.

 

pdf 115 trang phuongnguyen 8180
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Lập và quản lý dự án", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Lập và quản lý dự án

Bài giảng Lập và quản lý dự án
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YấN
ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG
LẬP VÀ QUẢN Lí DỰ ÁN
TRèNH ĐỘ ĐÀO TẠO: ĐẠI HỌC CHÍNH QUY
NGÀNH ĐÀO TẠO: QUẢN TRỊ KINH DOANH 
CễNG NGHIỆP
Hưng Yờn, năm 2016
 1 
Chương 1 
Tổng quan về lập dự án đầu tư 
1.1. Những vấn đề cơ bản về đầu tư và đầu tư phát triển 
1.1.1. Đầu tư phát triển 
* Khái niệm về đầu tư và đầu tư phát triển 
Đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực (nguồn lực tiền, tài nguyên thiên nhiên, 
sức lao động và trí tuệ) ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm thu được 
các kết quả (kết quả đạt được là sự gia tăng về tài sản, vật chất, tài sản tài chính 
hoặc tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất 
lao động cao hơn cho nền kinh tế và cho toàn xã hội) thực hiện được những mục 
tiêu nhất định trong tương lai. 
* Vai trò của đầu tư phát triển 
- Trên góc độ vĩ mô 
 Đầu tư là nhân tố quan trọng tác động đến tăng trưởng và phát triển kinh 
tế 
Về mặt lý luận, hầu hết các tư tưởng, mô hình và lý thuyết về tăng trưởng 
kinh tế đều trực tiếp hoặc gián tiếp thừa nhận đầu tư và việc tích lũy vốn cho đầu 
tư là một nhân tố quan trọng cho việc gia tăng năng lực sản xuất, cung ứng dịch 
vụ cho nền kinh tế. Từ các nhà Kinh tế cổ điển như Adam Smith trong cuốn 
“Của cải của các dân tộc” đã cho rằng “vốn đầu tư là yếu tố quyết định chủ yếu 
của số lao động hữu dụng và hiệu quả”. Việc gia tăng quy mô vốn đầu tư sẽ góp 
phần quan trọng trong việc gia tăng sản lượng quốc gia và sản lượng bình quân 
cho mỗi lao động. Sang thế kỷ XX, nhiều tác giả của các lý thuyết và mô hình 
Đầu tư 
Đầu tư trực tiếp Đầu tư gián tiếp 
Đầu tư 
dịch 
chuyển 
Đầu tư 
phát 
triển 
ĐTTT: Người bỏ vốn trực tiếp quản lý 
 - ĐT dịch chuyển: Bỏ vốn nhằm dịch chuyển 
sở hữu giá trị tài sản mà không gia tăng về giá 
trị tài sản 
 - ĐT phát triển: là một phương thức của đầu 
tư trực tiếp. Hoạt động đầu tư này nhằm duy trì 
và tạo ra năng lực mới trong sản xuất kinh 
 2 
tăng trưởng như Nurkse, Arthur, Lewis, hay Rosenstein-Rodan, Hirschman đều 
đánh giá vai trò của nhà đầu tư có ý nghĩa nhất định đối với tăng trưởng và phát 
triển của các quốc gia. Mô hình kinh tế đã học của Harrod-Domar về mức tăng 
trưởng kinh tế 
G = 
 Y 
= 
 Y K 
= 
1 I 
Y Y K ICOR Y 
 Y = 
1 
I 
ICOR 
 Y: Mức gia tăng sản lượng 
 K: Mức gia tăng vốn đầu tư 
I: Mức đầu tư thuần 
K: Tổng quy mô vốn của nền kinh tế 
Y: Tổng sản lượng của nền kinh tế quốc dân 
ICOR: hệ số gia tăng vốn - sản lượng (Increametal Capital - Output Ratio) 
 Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng thể hiện cũng rất rõ nét trong quá 
trình đổi mới mở cửa nền kinh tế của nước ta trong thời gian qua. Với chính 
sách đổi mới, các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước ngày càng đa dạng hóa 
và gia tăng về quy mô, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế đạt được cũng rất 
thỏa đáng. Cuộc sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận dân cư ngày càng 
được cải thiện. 
 Đầu tư tác động đến sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế 
Thông qua những chính sách tác động đầu tư Nhà nước có thể can thiệp 
trực tiếp như thực hiện chính sách phân bổ vốn, kế hoạch hoá, xây dựng cơ chế 
quản lý đầu tư hoặc điều tiết gián tiếp thông qua chính sách thuế, tín dụng, lãi 
suất ngân hàng để xác lập và định hướng cơ cấu kinh tế ngày càng hợp lý đảm 
bảo phát triển xã hội. 
Khi Nhà nước có chính sách đầu tư hợp lý sẽ tạo đà cho sự tăng trưởng và 
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tỷ trọng phân bổ vốn cho các ngành khác nhau sẽ 
mang lại những hiệu quả kinh tế khác nhau. Vốn đầu tư ảnh hưởng đến cơ cấu 
ngành và cơ cấu vùng cũng như ảnh hưởng chung đến tốc độ tăng trưởng kinh 
tế chung của cả nền kinh tế. 
 Đầu tư tác động làm tăng năng lực khoa học công nghệ của đất nước. 
 3 
Đầu tư và đặc biệt là đầu tư phát triển trực tiếp tạo mới và cải tạo chất 
lượng, năng lực sản xuất, phục vụ của nền kinh tế và các đơn vị cơ sở. Chính vì 
vậy, đầu tư cũng chính là điều kiện tiên quyết để cho quá trình đổi mới và phát 
triển, nâng cao năng lực công nghệ của quốc gia. Trong quá trình đầu tư nguồn 
vốn được phân bổ cho cơ cấu khoa học kỹ thuật, máy móc thiết bị, đầu tư với 
nguồn vốn FDI gắn liền với việc chuyển giao công nghệ, đổi mới phương thức 
sản xuất và đảm bảo nhiều ngành, nghề, lĩnh vực khoa học mới như công nghệ 
vật liệu, y học, công nghệ phần mềm 
 Đầu tư vừa tác động đến tổng cung vừa tác động đến tổng cầu của nền 
kinh tế. 
Như chúng ta đã biết tổng cầu nền kinh tế có sự phụ thuộc vào tổng cung bằng 
mô hình biểu thức: AD = C + I + G + X - M. 
Phân tích mô hình: 
Trong giao dịch ngắn hạn 
Do vậy, khi I thay đổi sẽ tác động làm AD, tuy nhiên sự tác động của I 
đến AD chỉ mang tính chất ngắn hạn. 
 Khi tổng cung chưa thay đổi, sự gia tăng của I sẽ làm thay đổi tổng cầu 
một sản lượng là AD và giá cả của các yếu tố đầu vào. 
 Trong giao dịch dài hạn: 
 Khi thành quả của sự đầu tư đã được huy động và phát huy tác dụng, năng 
lực sản xuất và cung ứng dịch vụ gia tăng thì tổng cung cũng sẽ tăng lên. Khi 
đó sản lượng tiềm năng sẽ tăng và đạt mức cân bằng trong ki giá cả của các sản 
phẩm sẽ có xu hướng giảm xuống ===> Sản lượng gia tăng, giá cả giảm sẽ 
kích thích tiêu dùng và hoạt động cung ứng của nền kinh tế. 
- Trên góc độ vi mô 
Đầu tư là nhân tố quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của các cơ sở 
sản xuất cung ứng và của cả các đơn vị hoạt động công ích. Để tạo dựng và tồn 
tại thì các đơn vị này phải trang bị nhà xưởng, máy móc thiết bị và thực hiện 
các chi phí để duy trì, sử dụng Đây cũng chính là biểu hiện cụ thể của hoạt 
động đầu tư. 
Đối với các cơ sở đang hoạt động, khi cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh 
nghiệp cần phải tiến hành sửa chữa hoặc thay thế mới  nhằm tạo điều kiện 
cho các cơ sở này thích ứng với môi trường hoạt động. Và đây cũng chính là 
hoạt động đầu tư nhằm tạo ra giá trị gia tăng và làm tăng năng suất. 
 4 
* Nguồn vốn cho đầu tư phát triển 
- Nguồn vốn đầu tư phát triển trên góc độ vĩ mô 
Vốn đầu tư là một nguồn lực quan trọng cho hoạt động đầu tư. Đứng trên góc 
độ vĩ mô, nguồn hình thành vốn đầu tư phát triển bao gồm nguồn vốn trong 
nước và nguồn vốn nước ngoài. 
Nguồn vốn trong nước: Được hình thành từ việc tích luỹ của nền kinh tế 
(gồm Nhà nước và dân doanh) bao gồm: 
- Nguồn vốn đầu tư Nhà nước bao gồm: Vốn ngân sách, nguồn vốn tín 
dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà 
nước (Chiếm tỷ trọng lớn do toàn bộ của cải vật chất, điều tiết lưu thông là do 
Nhà nước) 
- Nguồn vốn dân doanh: Phần tích luỹ của dân cư, Doanh nghiệp dân 
doanh... được đưa vào tái sản xuất xã hội, thực hiện các hoạt động đầu tư phát 
triển, mở rộng quy mô sản xuất... (Thu hồi giá trị đầu tư, gia tăng của đầu tư, giá 
trị khấu hao...) 
Nguồn nước ngoài: Bao gồm nguồn tài trợ phát triển chính thức (ODF) và 
(ODA), FDI... nguồn tín dụng của các tổ chức nước ngoài, tổ chức phi chính 
phủ... 
- Nguồn vốn đầu tư phát triển trên góc độ vi mô 
Nguồn tự tài trợ: Bao gồm vốn chủ sở hữu, thu nhập giữ lại để tái đầu tư 
(sau khi phân phối lãi), khấu hao tài sản cố định... 
Nguồn tài trợ từ bên ngoài: Bao gồm nguồn tài trợ gián tiếp qua trung 
gian tài chính, ngân hàng, tổ chức tín dụng... và nguồn tài trợ trực tiếp như thị 
Nguồn vốn cho đầu tư phát triển 
Góc độ vĩ mô Góc độ vi mô 
Nguồn 
trong 
nước 
Nguồn 
nước 
ngoài 
Nguồn 
tự tài 
trợ 
Nguồn 
tài trợ 
bên 
ngoài 
 5 
trường chứng khoán, thị trường tín dụng thuê mua... tài trợ từ việc mua bán giao 
dịch thương mại. 
= Kết luận: Tuỳ thuộc vào từng đơn vị cụ thể mà cơ cấu và đặc trưng 
của vốn có thể khác nhau. Đối với các cơ sở hoạt động phúc lợi công cộng thì 
vốn đầu tư có thể là do ngân sách cấp, từ nguồn vốn viện trợ không hoàn lại trự 
tiếp cho cơ sở và vốn tự có của đơn vị. Đối với các đơn vị quốc doanh thì vốn 
đầu tư phát triển là các nguồn tài trợ từ vốn vay, vốn liên doanh liên kết... 
1.1.2. Dự án đầu tư 
* Sự cần thiết phải tiến hành các hoạt động đầu tư theo dự án. 
Đầu tư phát triển có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của một quốc 
gia nhằm tạo ra và duy trì sự hoạt động của cơ sở vật chất, kỹ thuật của nền kinh 
tế nó gắn liền với sự vận động phát triển doanh nghiệp. Đối với các cơ sở sản 
xuất kinh doanh dịch vụ hoạt động đầu tư là một bộ phận trong hoạt động sản 
xuất kinh doanh nhằm tăng thêm cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có và vì thế là điều 
kiện để phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ của các doanh nghiệp. 
Hoạt động đầu tư phát triển có những đặc điểm khác biệt với các loại hình 
kinh tế đó là: 
 - Hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi một số vốn lớn và nằm khê đọng 
trong quá trình thực hiện đầu tư. 
- Hoạt động đầu tư có tính chất lâu dài được thể hiện qua thời gian thực 
hiện, thời gian cần hoạt động để thu hồi đủ số vốn đã bỏ ra. Do đó, không tránh 
khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố không ổn định về tự 
nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế 
- Kết quả và hiệu quả đầu tư chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố không ổn 
định theo thời gian và điều kiện địa lý của không gian. 
 - Các thành quả của hoạt động đầu tư mang tính chất đơn chiếc và độc 
đáo, giá trị sử dụng lâu dài như Vạn Lý Trường Thành, Kim Tự Tháp, Nhà thờ 
La Mã ở RôMa 
- Các công trình xây dựng chịu tác động của môi trường kinh tế, pháp lý, 
điều kiện tự nhiên, thể chế, quy hoạch. 
== Kết luận: Để đảm bảo cho đầu tư tiến hành thuận lợi, đạt được mục 
tiêu mong muốn, đem lại hiệu quả kinh tế thì trước khi đầu tư phải xem xét và 
tính toán toàn diện các khía cạnh của thị trường, kinh tế kỹ thuật, kinh tế tài 
chính. Quá trình xem xét và đánh giá phải được soạn thảo, trình bày, đo lường 
giá trị, thời gian, chi phí thực hiện dự án. 
 6 
* Khái niệm và công dụng cho dự án đầu tư. 
a/ Khái niệm: 
Về mặt hình thức: Dự án đầu tư là tập hợp hồ sơ, tài liệu trình bày một 
cách chi tiết, có hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch nhằm đạt 
được những kết quả và thực hiện được những mục tiêu đã định trong tương lai. 
Góc độ quản lý: Dự án đầu tư là một công cụ quản lý việc sử dụng vốn, vật 
tư, lao động, thời gian để tạo ra các kết quả tài chính, kinh tế xã hội trong một 
thời gian dài. 
Góc độ kế hoạch hoá: Dự án đầu tư là một công cụ thể hiện những kế 
hoạch chi tiết của một công cuộc đầu tư sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế 
xã hội, làm tiền đề cho các quy định đầu tư và tài trợ. 
Về nội dung: Dự án đầu tư là tổng thể các hoạt động và chi phí cần thiết, 
được bố trí theo kế hoạch chặt chẽ với lịch trình và thời gian địa điểm xác định 
để tạo mới, mở rộng, cải tạo những cơ sở vật chất nhất định để thực hiện ý định 
tương lai. 
Thành phần chính của dự án gồm 4 phần 
Mục tiêu của dự án: 
- Mục tiêu phát triển thể hiện sự đóng góp của dự án vào việc thực hiện các 
mục tiêu chung của một quốc gia mang lại lợi ích kinh tế xã hội 
- Mục tiêu trực tiếp của chủ đầu tư tức là lợi ích thu được khi chủ đầu tư 
tham gia thực hiện dự án. 
Các kết quả: Kết quả cụ thể, có thể định lượng được tạo ra từ các hoạt 
động khác nhau của dự án. Đây là điều kiện cần thiết để thực hiện được các 
mục tiêu của dự án. 
Các hoạt động: Những nhiệm vụ hay hành động để thực hiện dự án tạo ra 
kết quả được lập, tính, biểu đạt thành chuỗi hành động hay nói cách khác đó là 
kế hạch làm việc của dự án. 
Các nguồn lực: Vật chất, tài chính, con người... 
b/ Công dụng của dự án: 
- Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước và các định chế tài chính: Dự án 
đầu tư là cơ sở để thẩm tra cấp giấy chứng nhận đầu tư, thẩm định để chấp thuận 
sử dụng vốn của nhà nước và ra quyết định đầu tư quyết định tài trợ vốn cho dự 
án. 
- Đối với chủ đầu tư: 
+ Dự án đầu tư là căn cứ quan trọng nhất để quyết định bỏ vốn đầu tư. 
 7 
+ Dự án đầu tư là cơ sở để xin phép được đầu tư và cấp giấy phép hoạt 
động 
+ Dự án đầu tư là cơ sở để xin phép được nhập khẩu máy móc thiết bị, xin 
hưởng các khoản ưu đãi trong đầu tư. 
+ Là phương tiện để tìm các đối tác trong và ngoài nước liên doanh bỏ vốn 
đầu tư. 
+ Là phương tiện thuyết phục các tổ chức tài chính, tín dụng tài trợ hoặc 
cho vay vốn. 
+ Là căn cứ quan trọng để xem xét lợi ích, trách nhiệm, nghĩa vụ giữa các 
bên tham gia. 
* Các đặc trưng của dự án đầu tư: 
 - Dự án có mục đích, mục tiêu rõ ràng 
 - Dự án có chu kỳ phát triển riêng và thời gian tồn tại hữu hạn. 
 - Dự án có sự tham gia của nhiều bên như: Chủ đầu tư, nhà thầu, cơ quan 
cung cấp dịch vụ trong đầu tư, cơ quan quản lý nhà nước. 
 - Sản phẩm của dự án mang tính chất đơn chiếc, độc đáo. 
- Môi trường hoạt động của dự án mang tính chất phức hợp: chịu sự kiểm 
soát bởi nhiều cơ quan hữu quan khác nhau. 
 - Dự án mang tính bất định và rủi ro cao, do đặc điểm mang tính dài hạn 
của hoạt động đầu tư phát triển. 
 8
* Phân loại dự án đầu tư 
- Theo cơ cấu tái sản xuất: Dự án chia theo chiều rộng và chia theo chiều sâu. Chiều rộng phát triển về khối lượng phạm vi dự án, 
chiều sâu thường đòi hỏi khối lượng công việc ít hơn, thời gian thực hiện ít hơn và mức độ rủi ro thấp hơn. 
- Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội: Dự án đầu tư phát triển hạ tầng, kỹ thuật, kinh doanh và các dự án này có mối quan hệ tương 
hỗ với nhau. 
- Theo các giai đoạn hoạt động của các dự án đầu tư trong quá trình tái sản xuất xã hội: Bao gồm: 
Dự án đầu tư thương mại là dự án đầu tư có thời gian thực hiện đầu tư và hoạt động của các kết quả đầu tư để thu hồi vốn 
ngắn, tính chất bất định không cao dễ dự đoán và dễ chuyển đổi. Chỉ mang tính chất phân phối ngành nghề, khu vực mà không tạo 
ra giá trị gia tăng. 
Phân loại dự án đầu tư 
Theo cơ 
cấu tái 
sản xuất 
Theo 
lĩnh vực 
hoạt 
động 
trong xã 
hội 
Theo các 
giai đoạn 
hoạt động 
của các dự 
án đầu tư 
trong quá 
trình tái 
sản xuất 
xã hội 
Theo thời 
gian thực 
hiện và 
phát huy 
tác dụng 
để thu hồi 
đủ vốn đã 
bỏ ra 
Theo sự 
phân cấp 
quản lý 
dự án 
(quyền 
quyết 
định, cấp 
giấy CN 
đầu tư) 
Theo 
cấp độ 
nghiên 
cứu 
(Tiền 
khả thi 
và khả 
thi) 
Theo 
nguồn 
vốn 
Theo 
vùng 
lãnh thổ 
 9
Dự án đầu tư sản xuất là dự án đầu tư có thời gian hoạt động dài hạn, vốn đầu tư lớn, thu hồi chậm, thời gian thực hiện đầu 
tư lâu, độ mạo hiểm cao, tính chất kỹ thuật phức tạp chịu tác động của nhiều yếu tố bất động trong tương lai mang giá trị gia tăng 
nhiều hơn dự án thương mại. 
- Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi đủ vốn đã bỏ ra: Tính toán giá trị và thòi gian hoàn lại đủ số vốn đầu 
tư. 
- Theo sự phân cấp quản lý dự án (quyền quyết định, cấp giấy chứng nhận đầu tư): Dự án quan trọng quốc gia, Dự án cấp quản lý địa 
phương... 
- Theo cấp độ nghiên cứu 
 Dự án tiền khả thi là kết quả của giai đoạn nghiên cứu tiền khả thi, giai đoạn sơ bộ lựa chọn dự án nội dung lựa chọn còn chưa chi tiết 
kết quả chỉ đánh giá ở mức cơ hội đầu tư. 
 Dự án khả thi là kết quả của giai đoạn nghiên cứu khả thi, nội dung được trình bày một cách chi tiết, mức độ chính xác cao và là căn 
cứ để xác định có được thực hiện dự án hay không. 
- Theo nguồn  ... sát 
cần đơn giản, dễ hiểu, tập trung vào những thay đổi quan trọng, những khâu yếu 
trong hệ thống. Việc lựa chọn hệ thống kiểm soát phụ thuộc vào nhiều yếu tố như 
loại hình tổ chức dự án, yêu cầu công nghệ, kế hoạchTiêu chuẩn lựa chọn hệ thống 
kiểm soát chính thức phụ thuộc vào : (1) mức độ rủi ro của dự án và (2) chi phí của 
hệ thống và lợi nhuận mà nó đem lại. Hệ thống kiểm soát có thể rất đơn giản như 
cuộc họp giao bán hàng tuần hoặc rất phức tạp bao gồm nhiều chi tiêu đánh giá. 
Nguyên tắc chung để lựa chọn một hệ thống kiểm soát chi phí không vượt quá mức 
lợi nhuận (hoặc tiết kiệm được) do hoạt động kiểm soát đem lại. 
b. Phương pháp giám sát dự án 
 Việc giám sát dự án được hướng dẫn bởi kế hoạch và ngân sách dự án. Giám 
sát là việc đo lường,thu nhập, ghi chép, so sánh đối chiếu và phân tích thông tin. 
Giám sát được thực hiện ở cấp độ điều hành và thực hiện liên tục. Tuy nhiên, giám 
 108
sát cũng được thưc hiên ở cấp độ quản lý cấp cao nhưng được làm định kỳ. Có nhiều 
phương pháp giám sát khác nhau. Dưới đây là một số phương pháp chính: 
*Phương pháp sử dụng các mốc giới hạn 
Các mốc giới hạn (mốc thời gian) của dự án là sự kiện được dùng để đánh 
dấu một quá trình, một giai đoạn của dự án. Chúng có thể được ghi lại dưới dạng 
những đồ thị hoặc các từ ngữ. Phương pháp này được coi là một công cụ để giám 
sát dự án, nó làm cho mọi người trong dự án hiểu được tình trạng thực của dự án và 
có thể quản lí và kiểm tra dự án. 
*Phương pháp kiểm tra giới hạn 
Kiểm tra giới hạn liên quan đến việc xác lập một phạm vi giới hạn cho phép 
để quán lí dự án. So sánh giá trị đo được trong thực tế với mức độ chuẩn xác lập ban 
đầu và thực những hành động cần thiết khi giới hạn này bị vượt quá. Phương pháp 
kiểm tra giới hạn dùng để giám sát chi tiêu và mức độ thực hiện của dự án. Ví dụ 
hình 10.20 
Hình 10.20. Sơ đồ giới hạn để quản lý chỉ tiêu tỷ số quan trọng. 
*Đường cong chữ S 
 Đường cong chữ S thường được sử dụng trong giám sát ngân sách. Đây là 
phương pháp phân tích bằng đồ thị để chỉ ra sự khác nhau giữa chi tiêu kế hoạch và 
chi tiêu thực tế. Chi phí tích lũy trong một khoảng thời gian và chênh lệch giữa kế 
hoạch và thực tế được mô tả trên đồ thị như hình 10.21. dưới đây: 
Điều tra ngay lập tức 
Xem xét kịp thời 
Bỏ qua 
Bỏ qua 
Xem xét kịp thời 
Điều tra ngay lập tức 
1,4 
1,3 
1,2 
 1,0 
 0,9 
0,8 
0,6 
 109
 Toàn bộ ngân sách 
 Chi phí kế 
 hoạch 
 Chi tiêu thực tế 
Hình 10.21.Đường cong chữ S dùng giám sát chi phí 
*Kiểm soát thực hiện - sơ đồ giá trị thu được 
Kiểm soát thực hiện đối với toàn bộ dựu án và từng công việc giữ vai trò rất 
quan trọng. Để đo lường tình hình thực hiện đối với toàn bộ dự án người ta dùng chỉ 
tiêu giá trị thu được (giá trị hoàn thành quy ước). Khi so sánh chi phí thực tế với kế 
hoạch trong một thời kỳ nhất định thường không xem xét đến khối lượng công việc 
hoàn thành. Chỉ tiêu giá trị thu được (giá trị hoàn thành quy ước) đã khắc phục được 
nhược điểm này. Giá trị hoàn thành quy ước là giá trị “hoàn thành” ước tính của các 
công việc,được tính bằng cách nhân phần trăm hoàn thành ước tính của từng công 
việc với chi phí kế hoạch cho công việc đó. Đây chính là mức chi phí giả thiết đã chi 
tiêu cho phần công việc hoàn thành này. Nó được dùng làm cơ sở để so sánh với 
mức chi phí thực tế. 
Có bốn chỉ tiêu được xác định: 
1. Chênh lệch thời gian = thời gian thực hiện theo tiến độ (KH) - thời gian thực tế 
2. Chênh lệch chi tiêu = Chi phí thực tế -Gía trị hoàn thành 
3. Chênh lệch kế hoạch = Giá trị hoàn thành - Chi phí kế hoạch 
4. Tổng chênh lệch = Chênh lệch chi tiêu + Chênh lệch kế hoạch = Chi phí thực tế - 
Chi phí kế hoạch 
Chú ý: Chênh lệch thời gian mang giá trị âm cho thấy sự chậm trễ của dự án. 
Chênh lệch kế hoạch cũng là một giá trị âm. Chỉ tiêu tổng chênh lệch không xem 
xét đến giá tri thu được. Thực tế các nhà quản lý cấp trên thường quan tâm đến chỉ 
tiêu chênh lệch thời gian,các nhà quản lý tài chính quan tâm nhiều đến chênh lệch 
 110
chi phí (chi phí vượt),các nhà quản lý chung quan tâm đến tổng chênh lệch và các 
nhà quản lý dự án phải quan tâm đến cả bốn chỉ tiêu trên. 
*Các báo cáo tiến độ 
Báo cáo dự án là công cụ quan trọng để giám sát và để các nhà quản lý dự 
án,các bộ và ngành,các nhà tài trợ trao đổi thông tin về dự án. Báo cáo tiến độ có thể 
được thực hiện thường xuyên hoặc đột xuất. Một dự án tiêu biểu, quy mô từ trung 
bình đến lớn cần được báo cáo tiến độ thường xuyên bởi các chuyên gia, nhà quản 
lý dự án và nhóm dự án. Các báo nên dễ hiểu và phải được dựa trên các sự kiện hơn 
là các ý kiến. 
c. Báo cáo giám sát dự án 
Báo cáo giám sát dự án là một tài liệu rất quan trọng phục vụ yêu cầu quản lý 
của giám đốc dự án, các cơ quan giám sát, chủ đầu tư nhà thầu,đại diện cơ quan 
quản lý nhà nước, những người hưởng lợi... Do vậy, nó phải được hiểu như nhau và 
được xem như một công cụ thông tin. Một báo cáo giám sát có thể khác nhau về 
hình thức, mức độ phức tạp giữa các dự án, nhưng về cơ bản, nó bao gồm những nội 
dung chủ yếu sau đây. 
Thứ nhất, phần giới thiệu. Phần này mô tả ngắn gọn rõ ràng dự án. Sự cần thiết 
của dự án,các mục tiêu và nguồn lực phải được làm rõ. Nếu dự án lớn và phức tạp, 
cần có những giải thích cần thiết kèm theo báo cáo. 
Thứ hai ,trình bày thực trạng của dự án đến thời điểm hiện tại trên một số khía 
cạnh chính sau đây: 
Chi phí. Báo cáo cần làm rõ thực trạng quy mô vốn, nguồn vốn và tình hình sử 
dựng vốn của dự án. Cần so sánh chi phí thực tế với chi phí dự toán thei từng giai 
đoạn đầu tư,theo các móc thời gian quan trọng. Báo cáo tập trung phân tích khoản 
mục chi phí trực tiếp, đồng thời làm rõ tổng chi phí, những khoản chi phí gián tiếp 
của dự án. Các dữ liệu chi tiết cần trình bày trong các bảng phần phụ lục. 
Tiến độ thời gian. Báo cáo chỉ rõ khối lượng công việc đã hoàn thành, phần 
trăm khối lượng đã thực hiện được của những công việc chưa hoàn thành, cho đến 
thời điểm hiện tại, dự tính thời gian còn lại để thực hiện các công việc này. Việc báo 
cáo nên dựa vào các móc thời gian quan trọng đã được xác định trong lịch trình kế 
hoạch. 
 111
Chất lượng. Báo cáo chất lượng cần thiết hay không tùy thuộc vào loại dự án 
được giám sát. Thông thường, báo cáo phải chỉ ra được tình hình thực hiện các chi 
tiêu chất lượng, những tiêu chuẩn chất lượng đã ghi trong hợp đồng. Báo cáo cũng 
làm rõ các phương pháp quản lý chất lượng, hệ thống đảm bảo chất lượng mà dự án 
đang áp dụng. 
Thứ ba, kết luận, kiến nghị chuyên môn. Phần này báo cáo trình bày các kết 
luận, kiến nghị liên quan chính đến kế hoạch tiến độ và ngân sachsm đối với những 
công việc chưa hoàn thành của dự án, thuần túy trên quan điểm chuyên môn. Trong 
những tình huống bất thường, báo cáo chỉ nên đề cập đến những công việc thực tế đã 
hoàn thành, không kiến nghị những giải pháp kỹ thuật đối với các công việc chưa 
hoàn thành, khi chưa điều tra xác định rõ nguyên nhân. 
Thứ tư,kiến nghị giải pháp quản lý. Phần này trình bày các khoản mục ma cán 
bộ giám sát nhận thấy cần phải được quản lý chặt chẽ bởi các nhà quản lý cấp trên. 
Đồng thời, cần giải thích ngắn gọn mối quan hệ giữa những khoản mục này với các 
mục tiêu của dự án. Báo cáo nên giải chích thêm mối quan hệ đánh đổi giữa ba mục 
tiêu thời gian chi phí và hoàn thiện giúp các nha quản lý cấp trên có đủ thông tin để 
quyết định tương lai của dư án. 
Thứ năm, phân tích rủi ro. Phần này, báo cáo phân tích những rủi ro chính và 
những tác động của nó đến các mục tiêu thời gian và chi phí và hoàn thiện của dự 
án. Đồng thời, cần cảnh báo những rủi ro tiềm tàng có thể xảy ra trong tương lai đối 
với những công việc còn lại của dự án. 
Thứ sáu ,trình bày những địểm còn hạn chế và các giả định của báo cáo. Cán 
bộ giám sát là người chịu trách nhiệm về độ chính xác và tính kịp thời của báo cáo, 
nhưng các nhà quản lý cấp trên lại là người chịu trách nhiệm giải thích báo cáo và 
đề ra các quyết định tương lai trên cơ sở báo cáo này. Do đó, các tác giả của bản báo 
cáo cần nêu rõ những điểm còn hạn chế và những giả định khi viết báo cáo. 
7.3.2. Đánh giá dự án 
a. Khái niệm,mục tiêu của đánh giá dự an 
Đánh giá dự án là quá trình xác định, phân tích một cách hệ thống và khách 
quan các kết quả,mức độ hiệu quả và các tác động, mối liên hệ của dự án trên cơ sở 
các mục tiêu của chúng. 
*Mục tiêu của đánh giá dự án: 
 112
- Khẳng định lại Tính cần thiết của dự án, đánh giá các mục tiêu, xác định tính 
khả thi, hiện thực của dự án 
- Đánh giá tính hợp lý hợp pháp của dự án. Xem xét tính đầy đủ, hợp lý, hợp 
pháp của các văn kiện thủ tục liên quan đến dự án. 
- Đánh giá giữa kỳ là nhằm làm rõ thực trạng diễn biến của dự án, những điểm 
mạnh, yếu, những sai lệch, mức độ rủi ro của dự án trên cơ sở đó có biện pháp quản 
lý phù hợp, xem xét tính khoa học, hợp lý của các phương pháp được áp dụng trong 
việc xây dựng và triển khai dự án 
Phân loại đánh giá dự an. 
Căn cứ theo không gian có thể phân loại đánh giá dự án thành đánh giá nội bộ 
và đánh giá bên ngoài. Đánh giá nội bộ là loại đánh giá dự án được thực hiện bởi 
tính tổ chức đang thực hiện dự án với mục đích chủ yếu là cung cấp các thông tin 
cần thiết về dự án, làm cơ sở để ra các quyết định điều chỉnh, bổ sung kịp thời phục 
vụ cho công tác quản lý dự án. Đánh giá bên ngoài là hình thức tổ chức đánh giá dự 
án được thực hiện bởi những người, cơ quan bên ngoài, ví dụ, các nhà tài trợ, cơ 
quan chính phủ có thẩm quyền, với mục tiêu chủ yếu là cung cấp những thông tin 
cần thiết về dự án cho họ và các cơ quan có liên quan đến dự án khác. 
Căn cứ theo thời gian hay chu kỳ thực hiện dự án, có thể chia thành ba loại 
đánh giá chủ yếu: Đánh giá giữa kỳ, đánh giá kết thúc và đánh giá sau dự án. Đánh 
giá giữa kỳ( hay đánh giá trong giai đoạn thực hiện ). Đánh giá dự án trong quá 
trình thực hiện là nhằm: 
- Xác định phạm vi, các kết quả của dự án đến thời điểm đánh giá, dựa trên cơ 
sở những mục tiêu ban đầu. 
- Phân tích tiến độ thực hiện công việc cho đến thời điểm đánh giá 
- Giúp các nhà quản lý dự án đưa ra những quyết định liên quan đến việc điều 
chỉnh mục tiêu, cơ chế kiểm soát tài chính, kế hoạch. 
- Phản hồi nhanh cho các nhà quản lý về những khó khăn, những tình huống 
bất thường để có sự điều chỉnh chi phí và nguồn lực kịp thời. 
- Là căn cứ để đề ra những quyết định về việc tiếp tục hay từ bỏ dự án,đánh giá 
lại các mục tiêu và thiết kế dự án. 
Đánh giá kết thúc dự án. Loại đánh giá này thường được thực hiện khi dự án 
đã hoàn tất. Mục tiêu của đánh giá kết thúc dự án là: 
- Xác định mức độ đạt được các mục tiêu dự án 
 113
- Phân tích các kết quả của dự án. Đánh giá những tác động có thể có của các 
kết quả. 
- Rút ra bài học, đề xuất các hoạt động tiếp theo hoặc triển khai những pha sau 
trong tương lai. 
- Đánh giá sau dự án ( còn gọi là đánh giá tác động của dự án ). Đánh giá sau 
dự án được tiến hành khi dự án đã hoàn thành được một thời gian. Mục tiêu của 
đánh giá sau dự án là: 
- Xác định các kết quả và mức độ ảnh hưởng lâu dài của dự án đến đời sống 
kinh tế, chính trị, xã hội của những người hưởng lợi từ dự án cũng như những đối 
tượng khác. 
- Rút ra các bài học kinh nghiệm, đề xuất khả năng triển khai các pha sau của 
dự án hoặc những dự án mới 
Đánh giá giữa kỳ thường được tiến hành đối với những dự án lớn, phức tạp và 
thuộc loại đánh giá nội bộ. Hai loại đánh giá kết thúc và đánh giá sau dự án là cơ sở 
để xem xét lại các chính sách, quyết định có tính chiến lược của các cấp cấp có liên 
quan. Chúng thường là lạo đánh giá bên ngoài, được thực hiện bởi các nhà tài trợ. 
b. Các bước tiến hành đánh giá dự án 
Bước 1: Ra quyết định đánh giá dự án. Ai quyết định đánh giá dự án tùy thuộc 
đó là loại đánh giá nội bộ hay bên ngoài. Quyết định đánh giá dự án phải được đưa 
vào kế hoạch ngay từ khi lập (thiết kế) dự án và chỉ rõ sẽ sử dụng phương pháp đánh 
giá nào (đánh giá giữa kỳ, đánh kết thúc hay đánh giá tác động). Những nguyên 
nhân và sự cần thiết của việc đánh giá dự án phải được làm rõ, ví dụ, đánh giá để 
điều chỉnh một số quyết định của nhà tài trợ, để giải quyết những khó khăn vướng 
mắc nảy sinh... 
Bước 2. Chuẩn các điều khoản hợp đồng (TOR) cho hoạt động đánh giá dự án. 
Bản mô tả các điều khoản hợp đồng phải làm rõ mục đích và phạm vi của đánh giá 
dự án, mô tả ngắn gọn nội dung cơ bản của dự án được đánh giá, những điều khoản 
về phương pháp tiến hành đánh giá. TOR cần nêu rõ những kỹ năng, trình độ 
chuyên môn và những yêu cầu khác mà các chuyên gia tư vấn đánh giá các ứng viên 
cần phải có. TOR cũng cần đưa ra quy trình thủ tục lựa chọn tư vấn đảm bảo việc 
đánh giá được khách quan, chính xác. Cần lưu ý, việc dự thảo các điều khoản hợp 
đồng có thể khó khăn do mau thuẫn lợi ích. Do đó, có thể tổ chức họp kín giữa 
nhóm dự án, nhà tài trợ và đại diện những người hưởng lợi từ dự án...để bàn bạc thảo 
luận các điều khoản hợp đồng. 
 114
Bước3.Lựa chọn và ký hợp đồng với nhóm đánh giá dự án. Việc lựa chọn một 
chuyên gia hay nhóm tư vấn đánh giá điều tiến hành trên cơ sở những tiêu chuẩn đã 
xác định rõ trong bản mô tả điều khoản hợp đồng. Những tiêu chuẩn này phải bao 
gồm đủ những yêu cầu về chuyên môn, kỹ thuật, tiêu chuẩn nhân sự...Để chọn được 
những ứng viên phù hợp nhất với yêu cầu đánh giá dự án, dựa trên tiêu chuẩn của 
bản điều khoản hợp đồng, cần đề nghị các ứng viên cung cấp những thông tin cân 
thiết về năng lực chuyên môn, kinh nghiệm về lĩnh vực đánh giá dự án... 
Bước 4. Lập kế hoạch và chuẩn bị công việc. Sau khi được chọn, bước tiếp theo 
mà nhóm đánh giá phải làm là chuẩn bị một kế hoạch thời gian cũng như làm việc 
chi tiết và phân chia nhiệm vụ giữa các thành viên trong nhóm. Đồng thời , nhóm 
cũng sẵn sàng bắt tay ngay vào việc, trước tiên là tiến hành nghiên cứu các tài liệu 
nếu có thể. 
Bước 5.Tiến hành đánh giá dự án. Trong giai đoạn thực thi nhiệm vụ đánh giá 
dự án , tất cả các tài liệu quan trọng, liên quan đến dự án cần được thu thập, tổng 
họp và phân tích. Trong quá trình thu thập thông tin, nhóm đánh giá rất cần sự giúp 
đỡ, cộn tác tích cực của ban quản lý dự án như việc sẵn sàng trả lời phỏng vấn trực 
tiếp, điền các bộ câu hoircuar điều tra viên, tham dự các buổi báo cáo với các nhân 
viên đánh giá dự án... 
Bước 6. Chuẩn bị báo cáo. Sau khi các tài liệu được tổng hợp, phân tích nhóm 
đánh giá cần viết thành một bản báo cá. Báo cáo nêu rõ những kết luận, kiến nghị 
của nhóm. Đồng thời, báo cáo dành cho một trang nhất định trình bày phương pháp 
tiến hành đánh giá và nếu có thể, trình bày những khó khăn nảy sinh và cách khắc 
phục của nhóm. 
Bước 7. Sửa chữa, viết báo cáo cuối cùng và nộp sản phẩm. Báo cáo được đệ 
trình cho các bên liên quan như nhà tài trợ , ban quản lý dự án, đại diện những người 
hưởng lợi, đại diện cơ quan chính phủ để xin ý kiến. Có thể tổ chức một hội nghị để 
thảo luận. ý kiến đánh giá, nhận xét báo cáo của các bên tham gia. Sau đó, nhóm 
đánh giá dự án tiến hành sửa chữa, bổ sung, viết báo cáo cuối cùng và giao nộp sản 
phẩm. 

File đính kèm:

  • pdfbai_giang_lap_va_quan_ly_du_an.pdf