Bài giảng Chủ thể kinh doanh - Chương II: Doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh
1 Doanh nghiệp tư nhân
1.1 Khái niệm và đặc điểm:
1.1.1 Khái niệm:
Ở Việt Nam, sự tồn tại và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân
mới được pháp luật chính thức thừa nhận từ năm 1990, khi Luật
Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty được thông qua. Cũng từ
đó, thuật ngữ “Doanh nghiệp tư nhân” được sử dụng và biết đến
ngày càng nhiều. Tuy nhiên, cho đến hôm nay, trong thực tế vẫn
có những trường hợp hiểu nhầm về nội hàm của khái niệm này.
Phổ biến nhất là tình trạng sử dụng thuật ngữ “Doanh nghiệp tư
nhân” để chỉ một (hoặc các) doanh nghiệp “thuộc thành phần kinh
tế tư nhân”. Và như vậy, những người nhầm lẫn đã dùng thuật ngữ
“Doanh nghiệp tư nhân” như là một đối trọng để phân biệt với
“Doanh nghiệp Nhà nước” – doanh nghiệp thuộc thành phần kinh
tế nhà nước. Dùng thuật ngữ “Doanh nghiệp tư nhân” như là cách
gọi vắn tắt của “Doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân”
là không chính xác.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Chủ thể kinh doanh - Chương II: Doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh
37 CHƯƠNG II DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN VÀ HỘ KINH DOANH Th.s Trần Hòang Nga 1 Doanh nghiệp tư nhân 1.1 Khái niệm và đặc điểm: 1.1.1 Khái niệm: Ở Việt Nam, sự tồn tại và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân mới được pháp luật chính thức thừa nhận từ năm 1990, khi Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty được thông qua. Cũng từ đó, thuật ngữ “Doanh nghiệp tư nhân” được sử dụng và biết đến ngày càng nhiều. Tuy nhiên, cho đến hôm nay, trong thực tế vẫn có những trường hợp hiểu nhầm về nội hàm của khái niệm này. Phổ biến nhất là tình trạng sử dụng thuật ngữ “Doanh nghiệp tư nhân” để chỉ một (hoặc các) doanh nghiệp “thuộc thành phần kinh tế tư nhân”. Và như vậy, những người nhầm lẫn đã dùng thuật ngữ “Doanh nghiệp tư nhân” như là một đối trọng để phân biệt với “Doanh nghiệp Nhà nước” – doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nhà nước. Dùng thuật ngữ “Doanh nghiệp tư nhân” như là cách gọi vắn tắt của “Doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân” là không chính xác. Chúng ta nên sử dụng một thuật ngữ khác phù hợp hơn để chỉ những doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân, đó là “Doanh nghiệp dân doanh”, vì thực ra, từ buổi đầu được qui định ở Luật Doanh nghiệp tư nhân 1990, cho đến Luật Doanh nghiệp 1999 và Luật Doanh nghiệp 2005 hiện hành, Doanh nghiệp tư nhân luôn là một trong những hình thức đặc trưng về tổ chức kinh doanh mà cá nhân muốn đầu tư có thể lựa chọn. Về bản chất, Doanh nghiệp tư nhân được pháp luật về doanh nghiệp ở Việt 38 Nam qui định tương tự như Doanh nghiệp cá nhân (Sole Proprietorship) ở các nước khác.1 Và như vậy, Doanh nghiệp tư nhân chỉ là một loại hình doanh nghiệp đặc thù thuộc thành phần kinh tế tư nhân mà thôi. Theo Khoản 1 Điều 141 Luật Doanh nghiệp 2005, “Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp”. Đây là một khái niệm ngắn gọn giúp chúng ta phân biệt Doanh nghiệp tư nhân với các hình thức tổ chức kinh doanh khác. Các yếu tố cơ bản tạo nên khái niệm này và cũng là những đặc điểm quan trọng nhất, đó là “loại hình”, “chủ sở hữu” và “chế độ trách nhiệm” 2. Đặc điểm: Trên cơ sở khái niệm Doanh nghiệp tư nhân và các qui định khác của Luật Doanh nghiệp 2005, chúng ta có thể rút ra những đặc điểm pháp lý cơ bản của hình thức tổ chức kinh doanh này, bao gồm: i. Loại hình: Đây là một doanh nghiệp Doanh nghiệp tư nhân có đầy đủ các dấu hiệu của một doanh nghiệp như nêu tại Khoản 1 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2005 và tham gia kinh doanh bình đẳng như mọi doanh nghiệp khác trong nền kinh tế thị trường. Với tư cách là một doanh nghiệp, Doanh nghiệp tư nhân được thừa nhận là một đơn vị kinh doanh độc lập , có quyền tự do kinh doanh và chủ động trong mọi hoạt động kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật. Doanh nghiệp tư nhân được hưởng những qui chế pháp lý chung cho các doanh nghiệp tại Việt Nam, mà trong nhiều trường hợp là khác biệt so với các chủ thể kinh doanh không phải doanh nghiệp. 39 i. Chủ sở hữu: Doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân bỏ vốn ra thành lập và làm chủ Doanh nghiệp tư nhân là loại hình doanh nghiệp một chủ. Giống như Công ty nhà nước và Công ty TNHH một thành viên, Doanh nghiệp tư nhân do một chủ thể đứng ra thành lập. Chủ thể này dùng tài sản của mình đầu tư vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, không có sự liên kết và chia sẻ với bất cứ ai khác. Trong Doanh nghiệp tư nhân không có sự hùn vốn, không có sự liên kết của nhiều thành viên. Là người duy nhất đầu tư vốn thành lập nên chủ Doanh nghiệp tư nhân cũng là người duy nhất có quyền định đoạt các vấn đề tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cần phân biệt tính tổ chức liên kết hợp tác dưới giác độ chủ sở hữu với tính tổ chức trong nội bộ doanh nghiệp. Dù một chủ, Doanh nghiệp tư nhân vẫn là đơn vị kinh doanh mang tính chất một tổ chức, trong đó có người quản lý điều hành, có người lao động làm công, v.v.. Chính vì vậy Doanh nghiệp tư nhân vẫn thỏa mãn dấu hiệu cơ bản đầu tiên của một doanh nghiệp nói chung: bản thân Doanh nghiệp tư nhân là “một tổ chức kinh tế”. Tuy nhiên, khác với Công ty nhà nước do cơ quan nhà nước thành lập, Công ty TNHH một thành viên do một tổ chức hoặc một cá nhân thành lập làm chủ, trong Doanh nghiệp tư nhân, chủ sở hữu chỉ có thể là một cá nhân. Cá nhân này vừa là chủ sở hữu, vừa là người sử dụng tài sản đồng thời cũng là người quản lý hoạt động của doanh nghiệp. Đối tượng có quyền thành lập Doanh nghiệp tư nhân là mọi cá nhân Việt Nam và cá nhân nước ngoài trừ những trường hợp qui định tại tiết b, c, d, đ, e và g, khoản 2 điều 13 Luật Doanh nghiệp 2005. Giữa Doanh nghiệp tư nhân và cá nhân người chủ sở hữu có mối quan hệ lệ thuộc và gắn bó rất chặt chẽ. Doanh nghiệp tư nhân chỉ có duy nhất một cá nhân cụ thể là chủ sở hữu, nếu có sự thay đổi từ cá nhân này sang cá nhân khác thì Doanh nghiệp tư nhân đó về 40 bản chất phải chấm dứt sự tồn tại, như trong trường hợp bán Doanh nghiệp tư nhân, người mua doanh nghiệp phải đăng ký kinh doanh lại. Nếu có sự thay đổi về số lượng chủ sở hữu thì Doanh nghiệp tư nhân đó cũng phải chấm dứt sự tồn tại. Cá nhân chủ Doanh nghiệp tư nhân mà chết, mất tích hoặc rơi vào các trường hợp bị cấm thành lập quản lý doanh nghiệp (không còn chủ sở hữu đủ điều kiện) thì Doanh nghiệp tư nhân phải giải thể. Trường hợp chủ Doanh nghiệp tư nhân chết, người thừa kế (nếu có) chỉ được hưởng thừa kế về tài sản chứ không được thừa kế tư cách chủ sở hữu Doanh nghiệp tư nhân. Nếu chỉ có một người thừa kế và người này muốn tiếp tục duy trì khai thác khối tài sản trong doanh nghiệp bằng hoạt động kinh doanh dưới hình thức Doanh nghiệp tư nhân thì phải làm thủ tục đăng ký kinh doanh lại. Nếu số lượng chủ sở hữu tăng lên hơn một, thì phải làm thủ tục chuyển đổi Doanh nghiệp tư nhân sang hình thức Công ty TNHH 2 thành viên trở lên.2 Ngược lại, một cá nhân chỉ được thành lập một doanh nghiệp tư nhân.3 Theo quan điểm truyền thống về loại hình Doanh nghiệp tư nhân thì không có sự phân biệt về quyền, quyền lợi và nghĩa vụ giữa cá nhân người chủ và doanh nghiệp. Doanh nghiệp tư nhân là đại diện trực tiếp không thể tách rời cho cá nhân chủ sở hữu với tư cách một chủ thể kinh doanh. Do đó, ở bất cứ thời điểm nào, mỗi cá nhân chỉ có thể làm chủ một Doanh nghiệp tư nhân. Khi nào Doanh nghiệp tư nhân đó chưa chấm dứt sự tồn tại về mặt pháp lý thì cá nhân không thể đăng ký làm chủ một Doanh nghiệp tư nhân khác. i. Chế độ trách nhiệm: Doanh nghiệp tư nhân có chế độ trách nhiệm vô hạn Hay nói theo cách của Khoản 1 Điều 141 là “cá nhân (chủ Doanh nghiệp tư nhân) tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp”, trong đó có cả những tài sản mà người này đầu tư và kinh doanh trong doanh nghiệp và những tài sản không đưa vào kinh doanh. Khi hoạt động của doanh 41 nghiệp làm phát sinh các khoản nợ thì chủ doanh nghiệp có trách nhiệm lấy tài sản của mình, không phân biệt là tài sản doanh nghiệp hay tái sản khác trong khối tài sản riêng của mình , để trả cho các chủ nợ. Truyền thống pháp lý về Doanh nghiệp tư nhân luôn qui định cho doanh nghiệp này chế độ trách nhiệm vô hạn, do trong doanh nghiệp không có sự tách bạch giữa tài sản đầu tư kinh doanh và tài sản khác của chủ doanh nghiệp. Tùy thuộc vào nhu cầu hoặc ý chí của cá nhân chủ doanh nghiệp, người này có thể lấy tài sản của mình đầu tư thêm phục vụ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hoặc ngược lại rút tài sản trong doanh nghiệp để tiêu dùng, sinh hoạt hay đầu tư vào nơi khác. Khi lựa chọn kinh doanh dưới hình thức Doanh nghiệp tư nhân có nghĩa là nhà đầu tư chọn mô hình mà quyền tự quyết của chủ sở hữu được thừa nhận tối đa. Pháp luật không yêu cầu chủ Doanh nghiệp tư nhân phải chuyển quyền sở hữu đối với tài sản đầu tư vào kinh doanh cho doanh nghiệp mà chỉ cần đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về số vốn mình đầu tư. Bất cứ lúc nào trong quá trình doanh nghiệp tồn tại, chủ Doanh nghiệp tư nhân có quyền tăng hoặc giảm vốn đầu tư, chỉ phải đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh trong trường hợp giảm vốn xuống dưới mức đã đăng ký.4 Chủ doanh nghiệp cũng có toàn quyền quyết định về việc sử dụng lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp.5 Do đó không ai khác ngoài chủ Doanh nghiệp tư nhân có thể kiểm soát việc dịch chuyển qua lại giữa hai bộ phận trong khối tài sản của mình. Điều này tiềm ẩn một nguy cơ đe dọa lợi ích xã hội và các đối tác của doanh nghiệp nếu không có cơ chế thích hợp về vấn đề chịu rủi ro. Do đó, pháp luật đã xác lập chế độ trách nhiệm vô hạn như là một bảo đảm cơ bản cho xã hội. Cá nhân lựa chọn hình thức Doanh nghiệp tư nhân cũng đồng thời phải chấp nhận gánh chịu toàn bộ các rủi ro xảy đến cho doanh nghiệp, theo đó nếu như tài sản mà người đó đầu tư vào doanh nghiệp không đủ trả nợ thì người đó phải dùng tài sản khác còn lại của mình để trả nợ. Mô hình Doanh nghiệp tư nhân trao quyền rộng rãi cho cá nhân chủ doanh nghiệp, đồng thời thiết lập cơ chế ràng buộc trách nhiệm tài sản ở mức tối đa. Qui định như 42 vậy vừa đảm bảo quyền lợi của chủ doanh nghiệp vừa đảm bảo an toàn cho lợi ích xã hội. Nếu chủ Doanh nghiệp tư nhân không muốn chịu trách nhiệm vô hạn về hoạt động của doanh nghiệp thì có thể chuyển đổi Doanh nghiệp tư nhân đó thành Công ty TNHH 1 thành viên.6 Tuy nhiên, ngược lại, khi chuyển sang mô hình Công ty TNHH 1 thành viên để được hưởng chế độ trách nhiệm hữu hạn, dù vẫn chỉ do một cá nhân làm chủ, cơ cấu quản lý và chế độ tài chính được pháp luật qui định chặt chẽ hơn, thẩm quyền quyết định của cá nhân chủ sở hữu công ty bị hạn chế so với chủ Doanh nghiệp tư nhân.7 i. Tư cách pháp lý: Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân Đối chiếu với qui định về pháp nhân tại điều 84 Bộ luật Dân sự, Doanh nghiệp tư nhân không thỏa mãn hai trong bốn dấu hiệu của một pháp nhân. Đó là “có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó”, và “nhân danh chính mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập”. Như ở phần trên đã phân tích, mặc dù Doanh nghiệp tư nhân là một tổ chức kinh tế nhưng doanh nghiệp không có tài sản độc lập với tài sản của cá nhân chủ sở hữu doanh nghiệp và Doanh nghiệp tư nhân cũng không tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh. Tài sản của doanh nghiệp là tài sản của chủ doanh nghiệp. Chủ doanh nghiệp chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bằng toàn bộ khối tài sản riêng của mình. Tư cách của Doanh nghiệp tư nhân gắn liền và lệ thuộc tư cách của chủ doanh nghiệp. Chủ Doanh nghiệp tư nhân là người kinh doanh trực tiếp nhân danh doanh nghiệp. Người ta khó có thể tách rời tư cách của doanh nghiệp và chủ doanh nghiệp trong các quan hệ kinh doanh. Chủ Doanh nghiệp tư nhân là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.8 Ngoài ra, trong các quan hệ khác như quan hệ tố tụng, chủ doanh nghiệp cũng là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trước tòa án hoặc trọng tài trong các tranh chấp 43 liên quan đến doanh nghiệp.9 Như vậy, rõ ràng là Doanh nghiệp tư nhân không tự nhân danh chính mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập được, mà lệ thuộc vào tư cách của cá nhân chủ doanh nghiệp. Đây là biểu hiện quan trọng nhất cho ta thấy Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân, bởi vì pháp nhân là tổ chức mà được thừa nhận có tư cách tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập như cá nhân. i. Khả năng huy động vốn: Doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào10 Như vậy, có thể nói, các kênh huy động vốn rộng rãi trong công chúng đã được ngăn lại, không cho Doanh nghiệp tư nhân sử dụng. Khả năng huy động vốn của Doanh nghiệp tư nhân vì thế rất hạn hẹp. Tài sản trong Doanh nghiệp tư nhân là một bộ phận trong khối tài sản của chủ doanh nghiệp. Các khoản nợ phát sinh từ hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp tư nhân cũng chính là nợ của chủ doanh nghiệp. Do đó, khi hoạt động kinh doanh phát sinh nhu cầu tăng vốn, chỉ có phương thức duy nhất là chủ doanh nghiệp đầu tư thêm. Chủ doanh nghiệp tư nhân có thể lấy những tài sản khác của mình để đầu tư, hoặc nhân danh cá nhân mình huy động vốn cho doanh nghiệp. Bản chất lệ thuộc của Doanh nghiệp tư nhân đối với chủ doanh nghiệp triệt tiêu khả năng tự huy động vốn của nó. Vì vậy, Luật Doanh nghiệp 2005 qui định Doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào. 1. Quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu doanh nghiệp Quyền và nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp thể hiện rõ nét mối quan hệ giữa chủ doanh nghiệp và doanh nghiệp. Trong Doanh nghiệp tư nhân, tư cách của doanh nghiệp gắn chặt với tư cách của chủ doanh nghiệp. Hay nói cách khác, Doanh nghiệp tư nhân chính là hình thức tồn tại của một cá nhân kinh doanh dưới hình thức một doanh nghiệp. Vì thế chủ doanh nghiệp có toàn quyền định đoạt 44 đối với doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh và tổ chức quản lý. Những quyền cơ bản của chủ sở hữu mà ở loại hình doanh nghiệp nào pháp luật cũng trao cho tương tự nhau thì với chủ Doanh nghiệp tư nhân những quyền này mang tính tuyệt đối hơn và không phải chia sẻ với ai. Cụ thể là: 2.1. Quyền quản lý và điều hành doanh nghiệp: (Điều 143 Luật Doanh nghiệp 2005) Chủ Doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định cơ cấu tổ chức quản lý doanh nghiệp. Chủ Doanh nghiệp tư nhân có thể trực tiếp hoặc thuê người khác để quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh. Trong trường hợp không tự mình đảm đương được tất cả công việc quản lý, chủ doanh nghiệp có thể thuê giám đốc điều hành và thậm chí cả ban giám đốc điều hành. Tuy nhiên trong mọi trường hợp, chủ Doanh nghiệp tư nhân vẫn là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Giám đốc được thuê chỉ là người đại diện theo ủy quyền của chủ doanh nghiệp. Vì vậy khi có thuê giám đốc, chủ doanh nghiệp phải báo với cơ quan đăng ký kinh doanh và vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 2.2. Quyền và nghĩa vụ đối với tài chính doanh nghiệp: (Điều 142 và Khoản 1 Điều 143 Luật Doanh nghiệp 2005) Trong Doanh nghiệp tư nhân, vấn đề tách bạch tài sản không được đặt ra. Vì vậy tài sản được sử dụng vào hoạt động kinh doanh của chủ doanh nghiệp tư nhân không phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu cho doanh nghiệp. Nguồn vốn hoạt động của doanh nghiệp do chủ doanh nghiệp đầu tư và tự đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh. 45 Chủ doanh nghiệp có nghĩa vụ đăng ký chính xác số vốn đầu tư, trong đó nêu rõ số vốn bằng tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng và các loại tài sản khác; đối với vốn bằng tài sản khác còn phải ghi rõ loại tài sản, số lượng và giá trị còn lại của mỗi loại tài sản. Toàn bộ vốn và tài sản trong doanh nghiệp, kể cả vốn vay và tài sản thuê do chủ doanh nghiệp tự quyết định việc sử dụng vào hoạt động kinh doanh nhưng phải ... háp lý. Doanh nghiệp tư nhân khi bị bán là bị tách rời khỏi tư cách cá nhân người chủ sở hữu, tách rời khỏi khối tài sản đảm bảo trách nhiệm cho hoạt động của nó. Vì vậy thực chất từ thời điểm bán thì Doanh nghiệp tư nhân đó chấm dứt sự tồn tại. Người mua doanh nghiệp có thể dùng khối tài sản này để mở rộng hoạt động kinh doanh 48 hiện có của mình, ví dụ như dùng cơ sở vật chất nhân lực đó lập thành một chi nhánh mới của công ty, hoặc đăng ký kinh doanh dưới hình thức công ty. Kể cả trong trường hợp người mua doanh nghiệp là một cá nhân và tiến hành đăng ký kinh doanh lại dưới hình thức Doanh nghiệp tư nhân với tên doanh nghiệp và toàn bộ cơ sở vật chất nhân lực giữ nguyên như cũ, thì doanh nghiệp vừa được đăng ký kinh doanh này cũng là một Doanh nghiệp tư nhân khác, vì các thuộc tính cơ bản của nó như cá nhân chủ sở hữu và khối tài sản riêng của chủ để đảm bảo trách nhiệm cho doanh nghiệp là hoàn toàn khác. Pháp luật yêu cầu chậm nhất là 15 ngày trước ngày chuyển giao doanh nghiệp cho người mua, chủ doanh nghiệp phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan đăng ký kinh doanh. Thông báo phải nêu rõ tên, trụ sở của doanh nghiệp; tên, địa chỉ của người mua; tổng số nợ chưa thanh toán của doanh nghiệp; tên, địa chỉ, số nợ và thời hạn thanh toán cho từng chủ nợ; hợp đồng lao động và các hợp đồng khác đã ký mà chưa thực hiện xong và cách thức giải quyết các hợp đồng đó. Người bán, người mua doanh nghiệp phải tuân thủ các qui định của pháp luật lao động đối với người lao động trong doanh nghiệp II. Hộ kinh doanh Trong thành phần kinh tế ngoài quốc doanh (dân doanh), các cá nhân, hộ gia đình kinh doanh với qui mô nhỏ như cửa hàng, sạp chợ, quán ăn, dịch vụ sửa, rửa xe, cắt tóc, may mặc chiếm số lượng lớn, tạo công ăn việc làm và đóng góp đáng kể cho tăng trưởng kinh tế đất nước. Mô hình kinh doanh này rất giản đơn, trước đây được điều chỉnh bởi Nghị định số 66/HĐBT ngày 2/3/1992, sau đó Nghị định này hết hiệu lực và lần lượt được thay thế bởi các Nghị định số 02/2000/NĐ-CP và Nghị định 109/2004/NĐ-CP. Ngày 1/7/2006, khi Luật Doanh nghiệp 2005 bắt đầu có hiệu lực cũng là lúc Nghị định 109/2004 chấm dứt hiệu 49 lực. Hiện nay Hộ kinh doanh được điều chỉnh bởi Nghị định số 88/2006/NĐ-CP ngày 29/8/2006. 1. Khái niệm và đặc điểm 1. Khái niệm: Khoản 1 Điều 36 Nghị định 88/2006 định nghĩa: “Hộ kinh doanh do một cá nhân là công dân Việt Nam hoặc một nhóm người hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng không quá mười lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh.” Từ tên gọi và định nghĩa, khái quát nhất chúng ta có thể nhận thấy đây là một chủ thể kinh doanh, nói cách khác đây là một đơn vị được thành lập và đăng ký kinh doanh theo qui định của pháp luật nhằm tiến hành hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, đối với những đơn vị kinh doanh có những qui định, chính sách riêng như hộ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, làm muối hoặc những hoạt động mang hình thức kinh doanh nhưng thực chất vốn đầu tư nhỏ lẻ, chủ yếu lấy công làm lời hoặc mang tính lưu động không cố định như những người bán hàng rong, quà vặt, buôn chuyến, kinh doanh lưu động, làm dịch vụ có thu nhập thấp thì không phải đăng ký kinh doanh, không được coi là Hộ kinh doanh, trừ trường hợp kinh doanh các ngành, nghề có điều kiện thì phải đăng ký kinh doanh để nhà nước thống kê và quản lý. Đối với vấn đề thu nhập như thế nào được coi là “thu nhập thấp” để không phải đăng ký kinh doanh, Nghị định 88/2006/NĐ-CP không đưa ra một chuẩn cố định áp dụng trong phạm vi toàn quốc, mà “mức thu nhập thấp làm chuẩn do UBND cấp tỉnh qui định áp dụng trên phạm vi địa phương và không được vượt quá mức khởi điểm chịu thuế thu nhập cá nhân đối với người có thu nhập cao theo qui định của pháp luật về thuế.”11 50 2. Đặc điểm: i. Loại hình: Là chủ thể kinh doanh không được coi là doanh nghiệp Theo tinh thần của Luật Doanh nghiệp 2005, Hộ kinh doanh là đơn vị kinh doanh có qui mô nhỏ. Mặc dù Hộ kinh doanh cũng có đăng ký kinh doanh nhưng hoạt động theo qui định của Chính phủ, không chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp. Chỉ khi qui mô của Hộ kinh doanh đạt đến chuẩn do Luật Doanh nghiệp qui định, thì lúc đó Hộ kinh doanh phải đăng ký thành doanh nghiệp và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.12 Ngoài ra, một dấu hiệu chỉ rõ Hộ kinh doanh không phải là doanh nghiệp được thể hiện ở qui định Hộ kinh doanh không có con dấu. Trong khi đó, tất cả doanh nghiệp đều có con dấu được khắc và đăng ký theo đúng qui định pháp luật tại Công an Tỉnh nơi doanh nghiệp đặt trụ sở.13 i. Chủ sở hữu: Chủ Hộ kinh doanh là một cá nhân là công dân Việt Nam, một nhóm người hoặc một hộ gia đình Có ba đối tượng được quyền thành lập Hộ kinh doanh, tạo thành ba loại Hộ kinh doanh, đó là: • Hộ kinh doanh do cá nhân làm chủ; • Hộ kinh doanh do nhóm người làm chủ; và • Hộ kinh doanh do hộ gia đình làm chủ Như vậy, Hộ kinh doanh có thể có một chủ (một cá nhân hoặc một hộ gia đình) hoặc nhiều chủ (một nhóm người hợp tác làm chủ). Cũng giống như qui định đối với Doanh nghiệp tư nhân, Nghị định 88/2006 xác định rằng mỗi cá nhân, mỗi hộ gia đình chỉ được đăng ký kinh doanh một Hộ kinh doanh trong phạm vi toàn quốc.14 Thêm vào đó, Nghị định 139/2007/NĐ-CP qui định mỗi cá nhân 51 chỉ được đăng ký thành lập một Doanh nghiệp tư nhân hoặc một Hộ kinh doanh hoặc làm thành viên hợp danh của công ty hợp danh, trừ trường hợp các thành viên hợp danh còn lại có thỏa thuận khác.15 i. Chế độ trách nhiệm: Hộ kinh doanh có chế độ trách nhiệm vô hạn Dù chủ Hộ kinh doanh là một cá nhân, một nhóm người hay một hộ gia đình thì họ đều phải “chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về hoạt động kinh doanh”. Nếu là nhóm người hoặc hộ gia đình làm chủ thì tất cả thành viên của nhóm hay thành viên trong hộ phải liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về hoạt động của Hộ kinh doanh. Điều này có nghĩa là khi số nợ trong kinh doanh lớn hơn tài sản đưa vào kinh doanh chung thì mọi thành viên đều có trách nhiệm lấy cả những tài sản riêng của mình để trả nợ. i. Tư cách pháp lý: Hộ kinh doanh không có tư cách pháp nhân Cũng giống như Doanh nghiệp tư nhân, Hộ kinh doanh là một chủ thể kinh doanh không có tài sản độc lập, không có sự tách bạch về sở hữu. Thực chất trong mô hình Hộ kinh doanh, cá nhân chủ hộ hoặc các cá nhân thành viên của hộ tiến hành hoạt động kinh doanh và chịu trách nhiệm về các rủi ro trong kinh doanh một cách cá nhân (hoặc liên đới giữa các cá nhân) và trực tiếp. Dù Nghị định 88/2006/NĐ-CP không có qui định nói về vấn đề này, nhưng thực tế Hộ kinh doanh không thể nhân danh chính mình tham gia vào các quan hệ pháp luật. Cá nhân chủ hộ hoặc người đại diện hộ gia đình hay nhóm người có quyền nhân danh hộ trong các quan hệ với cơ quan quản lý nhà nước, và là nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các quan hệ tố tụng liên quan đến Hộ kinh doanh. Vì vậy, Hộ kinh doanh không có tư cách pháp nhân. 52 i. Qui mô kinh doanh: Hộ kinh doanh có qui mô kinh doanh nhỏ Pháp luật Việt Nam dùng qui mô làm tiêu chí để phân biệt Hộ kinh doanh và Doanh nghiệp. Trước đây theo Nghị định 66/NĐ/HĐBT, tiêu chí để xác định qui mô kinh doanh là vốn pháp định. Nếu chủ thể kinh doanh với vốn dưới mức vốn pháp định thì không được coi là doanh nghiệp. Từ khi có Luật Doanh nghiệp 1999, tiêu chí vốn pháp định đã được bỏ đi. Thay vào đó là số địa điểm kinh doanh và số lượng lao động. Nếu Hộ kinh doanh có sử dụng thường xuyên hơn 10 lao động phải đăng ký kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp.16 Hộ kinh doanh chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm. Như vậy, nếu qui mô hoạt động của Hộ kinh doanh tăng lên đến mức có nhu cầu mở thêm địa điểm kinh doanh, thì chủ sở hữu của Hộ kinh doanh đó cũng phải đăng ký kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp vì pháp luật không giới hạn số lượng địa điểm kinh doanh mà một doanh nghiệp có thể có. 2. Đăng ký kinh doanh: 1. Quyền đăng ký kinh doanh Có ba đối tượng có quyền đăng ký kinh doanh dưới hình thức Hộ kinh doanh: cá nhân, nhóm người và hộ gia đình. Đối với cá nhân, phải đảm bảo các điều kiện sau đây: i. Là công dân Việt Nam; ii. Thành niên (đủ 18 tuổi); và iii. Có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Pháp luật không đặt ra điều kiện đối với hộ gia đình và nhóm người kinh doanh. Tuy nhiên, hộ gia đình và nhóm người muốn đăng ký kinh doanh thì phải cử người đại diện của hộ hoặc nhóm 53 người thực hiện thủ tục, và cá nhân người này cũng phải thỏa mãn các điều kiện như đối với cá nhân nêu trên để đăng ký kinh doanh. Một cá nhân hoặc một hộ gia đình chỉ được đăng ký một Hộ kinh doanh trong phạm vi toàn quốc. 2. Cơ quan đăng ký kinh doanh: Cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho Hộ kinh doanh là cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện tại nơi đặt địa điểm kinh doanh.17 Cơ quan này có thể là Phòng đăng ký kinh doanh trực thuộc UBND cấp huyện, hoặc ở những địa phương chưa lập được Phòng đăng ký kinh doanh riêng, thì đó có thể là Phòng Tài chính – Kế hoạch hoặc Phòng Kinh tế. 3. Hồ sơ đăng ký kinh doanh: Gồm các loại giấy tờ sau: i. Giấy đề nghị đăng ký kinh doanh; ii. Bản sao Giấy chứng minh nhân dân của cá nhân hoặc người đại diện hộ gia đình iii. Đối với những ngành nghề phải có chứng chỉ hành nghề, phải có bản sao hợp lệ chứng chỉ hành nghề của cá nhân hoặc đại diện hộ gia đình iv. Đối với những ngành, nghề phải có vốn pháp định thì phải có bản sao hợp lệ văn bản xác nhận vốn pháp định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền 4. Trình tự, thủ tục đăng ký kinh doanh: i. Bước 1: Nộp hồ sơ đăng ký kinh doanh 54 Cá nhân hoặc người đại diện nhóm người, hộ gia đình nộp hồ sơ đăng ký kinh doanh và lệ phí đăng ký kinh doanh cho cơ quan đăng ký kinh doanh. Người nộp hồ sơ sẽ được trao giấy biên nhận về việc nộp hồ sơ. i. Bước 2: Xem xét cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh Trong thời hạn năm ngày làm việc kể từ ngày nhận đơn, cơ quan đăng ký kinh doanh cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho Hộ kinh doanh nếu xét thấy đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây:18 a. Ngành, nghề kinh doanh không thuộc danh mục ngành, nghề cấm kinh doanh; b. Tên Hộ kinh doanh dự định đăng ký phù hợp qui định, cụ thể là tên phải bao gồm 2 thành tố: loại hình “Hộ kinh doanh” và tên riêng. Tên riêng phải viết được bằng tiếng Việt, có thể kèm theo chữ số và ký hiệu, phát âm được. Tên riêng không có từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc. Tên riêng của Hộ kinh doanh không được trùng với tên riêng của Hộ kinh doanh đã đăng ký trong phạm vi huyện.19 c. Nộp đủ lệ phí đăng ký kinh doanh theo qui định. Trường hợp hồ sơ không hợp lệ, trong thời hạn năm ngày làm việc kể từ ngày nhận hồ sơ, cơ quan đăng ký kinh doanh phải thông báo rõ nội dung cần sửa đổi, bổ sung bằng văn bản cho người thành lập Hộ kinh doanh. Nếu hết thời hạn này mà không nhận được Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc thông báo yêu cầu sửa đổi, bổ sung hồ sơ đăng ký kinh doanh thì người đăng ký Hộ kinh doanh có quyền khiếu nại theo qui định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.20 55 Hộ kinh doanh có quyền tiến hành hoạt động kinh doanh sau khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, trừ trường hợp kinh doanh các ngành, nghề kinh doanh phải có điều kiện. Nếu kinh doanh ngành, nghề kinh doanh có điều kiện thì Hộ phải có xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã thỏa mãn các điều kiện đó mới được tiến hành kinh doanh.21 1. Thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh, tạm ngừng và chấm dứt hoạt động kinh doanh 1. Thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh Khi thay đổi nội dung kinh doanh đã đăng ký, ví dụ như thay đổi ngành nghề kinh doanh, thì Hộ kinh doanh thông báo nội dung thay đổi với cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện nơi đã đăng ký kinh doanh.22 Riêng đối với việc thay đổi địa điểm kinh doanh, nếu chuyển sang địa điểm kinh doanh mới vẫn nằm trong phạm vi huyện đã đăng ký kinh doanh thì chỉ cần thông báo, nếu chuyển địa điểm kinh doanh sang huyện khác thì phải nộp lại Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho cơ quan đã cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh23 và đăng ký kinh doanh tại nơi đặt địa điểm mới. 2. Tạm ngừng hoạt động kinh doanh Khi tạm ngừng kinh doanh từ 30 ngày trở lên, Hộ kinh doanh phải thông báo với cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan thuế trực tiếp quản lý. Thời gian tạm ngừng kinh doanh không được quá một năm.24 3. Chấm dứt hoạt động kinh doanh 56 Hoạt động kinh doanh của Hộ kinh doanh có thể bị chấm dứt bởi quyết định của chủ hộ hoặc chấm dứt vì bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Hộ kinh doanh bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trong các trường hợp sau:25 i. Không tiến hành hoạt động kinh doanh trong thời hạn 6 tháng, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; ii. Ngừng hoạt động kinh doanh quá 6 tháng liện tục mà không thông báo với cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện nơi đăng ký kinh doanh; iii. Chuyển địa điểm kinh doanh sang quận, huyện khác; iv. Kinh doanh ngành, nghề bị cấm. Khi chấm dứt hoạt động kinh doanh, Hộ kinh doanh phải nộp lại bản gốc Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện nơi đã đăng ký đồng thời thanh toán đầy đủ các khoản nợ, gồm cả nợ thuế và nghĩa vụ tài chính chưa thực hiện.26 _____________________________________ 1 Đánh giá tổng kết Luật Công ty, Luật Doanh nghiệp tư nhân và Nghị định 66/HĐBT, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương – Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 1999, trang 112 2 Xem Điều 24 Nghị định 139/2007/NĐ-CP ngày 5/9/2007 3 Khoản 3 Điều 141 Luật Doanh nghiệp 2005 4 Xem Điều 142 Luật Doanh nghiệp 2005 5 Xem Điều 143 Luật Doanh nghiệp 2005 6 Xem Điều 24 Nghị Định 139/2007/NĐ-CP 7 Xem bài Công ty TNHH 1 thành viên 8 Khoản 4 Điều 143 Luật Doanh nghiệp 2005 9 Khoản 3 Điều 143 Luật Doanh nghiệp 2005 10 Khoản 2 Điều 141 Luật Doanh nghiệp 2005 11 Khoản 2 Điều 36 Nghị định 88/2006/NĐ-CP 12 Xem Khoản 4 Điều 170 Luật Doanh nghiệp 2005 57 13 Xem Điều 36 Luật Doanh nghiệp và Nghị định số 58/2001/NĐ-CP ngày 24/8/2001 về quản lý và sử dụng con dấu 14 Khoản 2 Điều 37 Nghị định 88/2006/NĐ-CP 15 Khoản 2 Điều 9 Nghị định 139/2007/NĐ-CP 16 Khoản 4 Điều 170 Luật Doanh nghiệp 2005 và Khoản 3 Điều 36 Nghị định 88/2006/NĐ-CP 17 Khoản 1 Điều 38 Nghị định 88/2006/NĐ-CP 18 Xem Khoản 3 Điều 38 Nghị định 88/2006/NĐ-CP 19 Điều 42 Nghị định 88/2006/NĐ-CP 20 Khoản 4 Điều 38 Nghị định 88/2006/NĐ-CP 21 Điều 39 Nghị định 88/2006/NĐ-CP 22 Khoản 1 Điều 41 Nghị định 88/2006/NĐ-CP 23 Khoản 3 Điều 47 Nghị định 88/2006/NĐ-CP 24 Khoản 2 Điều 41 Nghị định 88/2006/NĐ-CP 25 Xem Điều 47 Nghị định 88/2006/NĐ-CP 26 Khoản 3 Điều 41 Nghị định 88/2006/NĐ-CP
File đính kèm:
- bai_giang_chu_the_kinh_doanh_chuong_ii_doanh_nghiep_tu_nhan.pdf