Bài giảng Chủ thể kinh doanh - Chương II: Doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh

1 Doanh nghiệp tư nhân

1.1 Khái niệm và đặc điểm:

1.1.1 Khái niệm:

Ở Việt Nam, sự tồn tại và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân

mới được pháp luật chính thức thừa nhận từ năm 1990, khi Luật

Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty được thông qua. Cũng từ

đó, thuật ngữ “Doanh nghiệp tư nhân” được sử dụng và biết đến

ngày càng nhiều. Tuy nhiên, cho đến hôm nay, trong thực tế vẫn

có những trường hợp hiểu nhầm về nội hàm của khái niệm này.

Phổ biến nhất là tình trạng sử dụng thuật ngữ “Doanh nghiệp tư

nhân” để chỉ một (hoặc các) doanh nghiệp “thuộc thành phần kinh

tế tư nhân”. Và như vậy, những người nhầm lẫn đã dùng thuật ngữ

“Doanh nghiệp tư nhân” như là một đối trọng để phân biệt với

“Doanh nghiệp Nhà nước” – doanh nghiệp thuộc thành phần kinh

tế nhà nước. Dùng thuật ngữ “Doanh nghiệp tư nhân” như là cách

gọi vắn tắt của “Doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân”

là không chính xác.

pdf 21 trang phuongnguyen 4560
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Chủ thể kinh doanh - Chương II: Doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Chủ thể kinh doanh - Chương II: Doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh

Bài giảng Chủ thể kinh doanh - Chương II: Doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh
 37 
CHƯƠNG II 
DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN VÀ HỘ KINH DOANH 
Th.s Trần Hòang Nga 
1 Doanh nghiệp tư nhân 
1.1 Khái niệm và đặc điểm: 
1.1.1 Khái niệm: 
Ở Việt Nam, sự tồn tại và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân 
mới được pháp luật chính thức thừa nhận từ năm 1990, khi Luật 
Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty được thông qua. Cũng từ 
đó, thuật ngữ “Doanh nghiệp tư nhân” được sử dụng và biết đến 
ngày càng nhiều. Tuy nhiên, cho đến hôm nay, trong thực tế vẫn 
có những trường hợp hiểu nhầm về nội hàm của khái niệm này. 
Phổ biến nhất là tình trạng sử dụng thuật ngữ “Doanh nghiệp tư 
nhân” để chỉ một (hoặc các) doanh nghiệp “thuộc thành phần kinh 
tế tư nhân”. Và như vậy, những người nhầm lẫn đã dùng thuật ngữ 
“Doanh nghiệp tư nhân” như là một đối trọng để phân biệt với 
“Doanh nghiệp Nhà nước” – doanh nghiệp thuộc thành phần kinh 
tế nhà nước. Dùng thuật ngữ “Doanh nghiệp tư nhân” như là cách 
gọi vắn tắt của “Doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân” 
là không chính xác. Chúng ta nên sử dụng một thuật ngữ khác phù 
hợp hơn để chỉ những doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư 
nhân, đó là “Doanh nghiệp dân doanh”, vì thực ra, từ buổi đầu 
được qui định ở Luật Doanh nghiệp tư nhân 1990, cho đến Luật 
Doanh nghiệp 1999 và Luật Doanh nghiệp 2005 hiện hành, Doanh 
nghiệp tư nhân luôn là một trong những hình thức đặc trưng về tổ 
chức kinh doanh mà cá nhân muốn đầu tư có thể lựa chọn. Về bản 
chất, Doanh nghiệp tư nhân được pháp luật về doanh nghiệp ở Việt 
 38 
Nam qui định tương tự như Doanh nghiệp cá nhân (Sole 
Proprietorship) ở các nước khác.1 Và như vậy, Doanh nghiệp tư 
nhân chỉ là một loại hình doanh nghiệp đặc thù thuộc thành phần 
kinh tế tư nhân mà thôi. 
Theo Khoản 1 Điều 141 Luật Doanh nghiệp 2005, “Doanh nghiệp 
tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách 
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh 
nghiệp”. Đây là một khái niệm ngắn gọn giúp chúng ta phân biệt 
Doanh nghiệp tư nhân với các hình thức tổ chức kinh doanh khác. 
Các yếu tố cơ bản tạo nên khái niệm này và cũng là những đặc 
điểm quan trọng nhất, đó là “loại hình”, “chủ sở hữu” và “chế độ 
trách nhiệm” 
2. Đặc điểm: 
Trên cơ sở khái niệm Doanh nghiệp tư nhân và các qui định khác 
của Luật Doanh nghiệp 2005, chúng ta có thể rút ra những đặc 
điểm pháp lý cơ bản của hình thức tổ chức kinh doanh này, bao 
gồm: 
i. Loại hình: Đây là một doanh nghiệp 
Doanh nghiệp tư nhân có đầy đủ các dấu hiệu của một doanh 
nghiệp như nêu tại Khoản 1 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2005 và 
tham gia kinh doanh bình đẳng như mọi doanh nghiệp khác trong 
nền kinh tế thị trường. Với tư cách là một doanh nghiệp, Doanh 
nghiệp tư nhân được thừa nhận là một đơn vị kinh doanh độc lập , 
có quyền tự do kinh doanh và chủ động trong mọi hoạt động kinh 
doanh trong khuôn khổ pháp luật. Doanh nghiệp tư nhân được 
hưởng những qui chế pháp lý chung cho các doanh nghiệp tại Việt 
Nam, mà trong nhiều trường hợp là khác biệt so với các chủ thể 
kinh doanh không phải doanh nghiệp. 
 39 
i. Chủ sở hữu: Doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân bỏ vốn 
ra thành lập và làm chủ 
Doanh nghiệp tư nhân là loại hình doanh nghiệp một chủ. Giống 
như Công ty nhà nước và Công ty TNHH một thành viên, Doanh 
nghiệp tư nhân do một chủ thể đứng ra thành lập. Chủ thể này 
dùng tài sản của mình đầu tư vào hoạt động kinh doanh của doanh 
nghiệp, không có sự liên kết và chia sẻ với bất cứ ai khác. Trong 
Doanh nghiệp tư nhân không có sự hùn vốn, không có sự liên kết 
của nhiều thành viên. Là người duy nhất đầu tư vốn thành lập nên 
chủ Doanh nghiệp tư nhân cũng là người duy nhất có quyền định 
đoạt các vấn đề tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh của doanh 
nghiệp. Cần phân biệt tính tổ chức liên kết hợp tác dưới giác độ 
chủ sở hữu với tính tổ chức trong nội bộ doanh nghiệp. Dù một 
chủ, Doanh nghiệp tư nhân vẫn là đơn vị kinh doanh mang tính 
chất một tổ chức, trong đó có người quản lý điều hành, có người 
lao động làm công, v.v.. Chính vì vậy Doanh nghiệp tư nhân vẫn 
thỏa mãn dấu hiệu cơ bản đầu tiên của một doanh nghiệp nói 
chung: bản thân Doanh nghiệp tư nhân là “một tổ chức kinh tế”. 
Tuy nhiên, khác với Công ty nhà nước do cơ quan nhà nước thành 
lập, Công ty TNHH một thành viên do một tổ chức hoặc một cá 
nhân thành lập làm chủ, trong Doanh nghiệp tư nhân, chủ sở hữu 
chỉ có thể là một cá nhân. Cá nhân này vừa là chủ sở hữu, vừa là 
người sử dụng tài sản đồng thời cũng là người quản lý hoạt động 
của doanh nghiệp. Đối tượng có quyền thành lập Doanh nghiệp tư 
nhân là mọi cá nhân Việt Nam và cá nhân nước ngoài trừ những 
trường hợp qui định tại tiết b, c, d, đ, e và g, khoản 2 điều 13 Luật 
Doanh nghiệp 2005. 
Giữa Doanh nghiệp tư nhân và cá nhân người chủ sở hữu có mối 
quan hệ lệ thuộc và gắn bó rất chặt chẽ. Doanh nghiệp tư nhân chỉ 
có duy nhất một cá nhân cụ thể là chủ sở hữu, nếu có sự thay đổi 
từ cá nhân này sang cá nhân khác thì Doanh nghiệp tư nhân đó về 
 40 
bản chất phải chấm dứt sự tồn tại, như trong trường hợp bán 
Doanh nghiệp tư nhân, người mua doanh nghiệp phải đăng ký kinh 
doanh lại. Nếu có sự thay đổi về số lượng chủ sở hữu thì Doanh 
nghiệp tư nhân đó cũng phải chấm dứt sự tồn tại. Cá nhân chủ 
Doanh nghiệp tư nhân mà chết, mất tích hoặc rơi vào các trường 
hợp bị cấm thành lập quản lý doanh nghiệp (không còn chủ sở hữu 
đủ điều kiện) thì Doanh nghiệp tư nhân phải giải thể. Trường hợp 
chủ Doanh nghiệp tư nhân chết, người thừa kế (nếu có) chỉ được 
hưởng thừa kế về tài sản chứ không được thừa kế tư cách chủ sở 
hữu Doanh nghiệp tư nhân. Nếu chỉ có một người thừa kế và người 
này muốn tiếp tục duy trì khai thác khối tài sản trong doanh nghiệp 
bằng hoạt động kinh doanh dưới hình thức Doanh nghiệp tư nhân 
thì phải làm thủ tục đăng ký kinh doanh lại. Nếu số lượng chủ sở 
hữu tăng lên hơn một, thì phải làm thủ tục chuyển đổi Doanh 
nghiệp tư nhân sang hình thức Công ty TNHH 2 thành viên trở 
lên.2 Ngược lại, một cá nhân chỉ được thành lập một doanh nghiệp 
tư nhân.3 Theo quan điểm truyền thống về loại hình Doanh nghiệp 
tư nhân thì không có sự phân biệt về quyền, quyền lợi và nghĩa vụ 
giữa cá nhân người chủ và doanh nghiệp. Doanh nghiệp tư nhân là 
đại diện trực tiếp không thể tách rời cho cá nhân chủ sở hữu với tư 
cách một chủ thể kinh doanh. Do đó, ở bất cứ thời điểm nào, mỗi 
cá nhân chỉ có thể làm chủ một Doanh nghiệp tư nhân. Khi nào 
Doanh nghiệp tư nhân đó chưa chấm dứt sự tồn tại về mặt pháp lý 
thì cá nhân không thể đăng ký làm chủ một Doanh nghiệp tư nhân 
khác. 
i. Chế độ trách nhiệm: Doanh nghiệp tư nhân có chế độ trách 
nhiệm vô hạn 
Hay nói theo cách của Khoản 1 Điều 141 là “cá nhân (chủ Doanh 
nghiệp tư nhân) tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình 
về mọi hoạt động của doanh nghiệp”, trong đó có cả những tài sản 
mà người này đầu tư và kinh doanh trong doanh nghiệp và những 
tài sản không đưa vào kinh doanh. Khi hoạt động của doanh 
 41 
nghiệp làm phát sinh các khoản nợ thì chủ doanh nghiệp có trách 
nhiệm lấy tài sản của mình, không phân biệt là tài sản doanh 
nghiệp hay tái sản khác trong khối tài sản riêng của mình , để trả 
cho các chủ nợ. Truyền thống pháp lý về Doanh nghiệp tư nhân 
luôn qui định cho doanh nghiệp này chế độ trách nhiệm vô hạn, do 
trong doanh nghiệp không có sự tách bạch giữa tài sản đầu tư kinh 
doanh và tài sản khác của chủ doanh nghiệp. Tùy thuộc vào nhu 
cầu hoặc ý chí của cá nhân chủ doanh nghiệp, người này có thể lấy 
tài sản của mình đầu tư thêm phục vụ hoạt động kinh doanh của 
doanh nghiệp hoặc ngược lại rút tài sản trong doanh nghiệp để tiêu 
dùng, sinh hoạt hay đầu tư vào nơi khác. Khi lựa chọn kinh doanh 
dưới hình thức Doanh nghiệp tư nhân có nghĩa là nhà đầu tư chọn 
mô hình mà quyền tự quyết của chủ sở hữu được thừa nhận tối đa. 
Pháp luật không yêu cầu chủ Doanh nghiệp tư nhân phải chuyển 
quyền sở hữu đối với tài sản đầu tư vào kinh doanh cho doanh 
nghiệp mà chỉ cần đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền 
về số vốn mình đầu tư. Bất cứ lúc nào trong quá trình doanh 
nghiệp tồn tại, chủ Doanh nghiệp tư nhân có quyền tăng hoặc giảm 
vốn đầu tư, chỉ phải đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh trong 
trường hợp giảm vốn xuống dưới mức đã đăng ký.4 Chủ doanh 
nghiệp cũng có toàn quyền quyết định về việc sử dụng lợi nhuận 
sau thuế của doanh nghiệp.5 Do đó không ai khác ngoài chủ Doanh 
nghiệp tư nhân có thể kiểm soát việc dịch chuyển qua lại giữa hai 
bộ phận trong khối tài sản của mình. Điều này tiềm ẩn một nguy 
cơ đe dọa lợi ích xã hội và các đối tác của doanh nghiệp nếu không 
có cơ chế thích hợp về vấn đề chịu rủi ro. Do đó, pháp luật đã xác 
lập chế độ trách nhiệm vô hạn như là một bảo đảm cơ bản cho xã 
hội. Cá nhân lựa chọn hình thức Doanh nghiệp tư nhân cũng đồng 
thời phải chấp nhận gánh chịu toàn bộ các rủi ro xảy đến cho 
doanh nghiệp, theo đó nếu như tài sản mà người đó đầu tư vào 
doanh nghiệp không đủ trả nợ thì người đó phải dùng tài sản khác 
còn lại của mình để trả nợ. Mô hình Doanh nghiệp tư nhân trao 
quyền rộng rãi cho cá nhân chủ doanh nghiệp, đồng thời thiết lập 
cơ chế ràng buộc trách nhiệm tài sản ở mức tối đa. Qui định như 
 42 
vậy vừa đảm bảo quyền lợi của chủ doanh nghiệp vừa đảm bảo an 
toàn cho lợi ích xã hội. Nếu chủ Doanh nghiệp tư nhân không 
muốn chịu trách nhiệm vô hạn về hoạt động của doanh nghiệp thì 
có thể chuyển đổi Doanh nghiệp tư nhân đó thành Công ty TNHH 
1 thành viên.6 Tuy nhiên, ngược lại, khi chuyển sang mô hình 
Công ty TNHH 1 thành viên để được hưởng chế độ trách nhiệm 
hữu hạn, dù vẫn chỉ do một cá nhân làm chủ, cơ cấu quản lý và chế 
độ tài chính được pháp luật qui định chặt chẽ hơn, thẩm quyền 
quyết định của cá nhân chủ sở hữu công ty bị hạn chế so với chủ 
Doanh nghiệp tư nhân.7 
i. Tư cách pháp lý: Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách 
pháp nhân 
Đối chiếu với qui định về pháp nhân tại điều 84 Bộ luật Dân sự, 
Doanh nghiệp tư nhân không thỏa mãn hai trong bốn dấu hiệu của 
một pháp nhân. Đó là “có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác 
và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó”, và “nhân danh chính mình 
tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập”. Như ở phần trên 
đã phân tích, mặc dù Doanh nghiệp tư nhân là một tổ chức kinh tế 
nhưng doanh nghiệp không có tài sản độc lập với tài sản của cá 
nhân chủ sở hữu doanh nghiệp và Doanh nghiệp tư nhân cũng 
không tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh. Tài sản của 
doanh nghiệp là tài sản của chủ doanh nghiệp. Chủ doanh nghiệp 
chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bằng 
toàn bộ khối tài sản riêng của mình. Tư cách của Doanh nghiệp tư 
nhân gắn liền và lệ thuộc tư cách của chủ doanh nghiệp. Chủ 
Doanh nghiệp tư nhân là người kinh doanh trực tiếp nhân danh 
doanh nghiệp. Người ta khó có thể tách rời tư cách của doanh 
nghiệp và chủ doanh nghiệp trong các quan hệ kinh doanh. Chủ 
Doanh nghiệp tư nhân là đại diện theo pháp luật của doanh 
nghiệp.8 Ngoài ra, trong các quan hệ khác như quan hệ tố tụng, chủ 
doanh nghiệp cũng là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi 
nghĩa vụ liên quan trước tòa án hoặc trọng tài trong các tranh chấp 
 43 
liên quan đến doanh nghiệp.9 Như vậy, rõ ràng là Doanh nghiệp tư 
nhân không tự nhân danh chính mình tham gia các quan hệ pháp 
luật một cách độc lập được, mà lệ thuộc vào tư cách của cá nhân 
chủ doanh nghiệp. Đây là biểu hiện quan trọng nhất cho ta thấy 
Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân, bởi vì pháp 
nhân là tổ chức mà được thừa nhận có tư cách tham gia vào các 
quan hệ pháp luật một cách độc lập như cá nhân. 
i. Khả năng huy động vốn: Doanh nghiệp tư nhân không 
được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào10 
Như vậy, có thể nói, các kênh huy động vốn rộng rãi trong công 
chúng đã được ngăn lại, không cho Doanh nghiệp tư nhân sử dụng. 
Khả năng huy động vốn của Doanh nghiệp tư nhân vì thế rất hạn 
hẹp. Tài sản trong Doanh nghiệp tư nhân là một bộ phận trong 
khối tài sản của chủ doanh nghiệp. Các khoản nợ phát sinh từ hoạt 
động kinh doanh của Doanh nghiệp tư nhân cũng chính là nợ của 
chủ doanh nghiệp. Do đó, khi hoạt động kinh doanh phát sinh nhu 
cầu tăng vốn, chỉ có phương thức duy nhất là chủ doanh nghiệp 
đầu tư thêm. Chủ doanh nghiệp tư nhân có thể lấy những tài sản 
khác của mình để đầu tư, hoặc nhân danh cá nhân mình huy động 
vốn cho doanh nghiệp. Bản chất lệ thuộc của Doanh nghiệp tư 
nhân đối với chủ doanh nghiệp triệt tiêu khả năng tự huy động vốn 
của nó. Vì vậy, Luật Doanh nghiệp 2005 qui định Doanh nghiệp tư 
nhân không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào. 
1. Quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu doanh nghiệp 
Quyền và nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp thể hiện rõ nét mối quan 
hệ giữa chủ doanh nghiệp và doanh nghiệp. Trong Doanh nghiệp 
tư nhân, tư cách của doanh nghiệp gắn chặt với tư cách của chủ 
doanh nghiệp. Hay nói cách khác, Doanh nghiệp tư nhân chính là 
hình thức tồn tại của một cá nhân kinh doanh dưới hình thức một 
doanh nghiệp. Vì thế chủ doanh nghiệp có toàn quyền định đoạt 
 44 
đối với doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh và tổ chức quản 
lý. Những quyền cơ bản của chủ sở hữu mà ở loại hình doanh 
nghiệp nào pháp luật cũng trao cho tương tự nhau thì với chủ 
Doanh nghiệp tư nhân những quyền này mang tính tuyệt đối hơn 
và không phải chia sẻ với ai. Cụ thể là: 
2.1. Quyền quản lý và điều hành doanh nghiệp: (Điều 143 Luật 
Doanh nghiệp 2005) 
Chủ Doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định cơ cấu tổ 
chức quản lý doanh nghiệp. 
Chủ Doanh nghiệp tư nhân có thể trực tiếp hoặc thuê người khác 
để quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh. Trong trường hợp 
không tự mình đảm đương được tất cả công việc quản lý, chủ 
doanh nghiệp có thể thuê giám đốc điều hành và thậm chí cả ban 
giám đốc điều hành. Tuy nhiên trong mọi trường hợp, chủ Doanh 
nghiệp tư nhân vẫn là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. 
Giám đốc được thuê chỉ là người đại diện theo ủy quyền của chủ 
doanh nghiệp. Vì vậy khi có thuê giám đốc, chủ doanh nghiệp phải 
báo với cơ quan đăng ký kinh doanh và vẫn phải chịu trách nhiệm 
về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 
2.2. Quyền và nghĩa vụ đối với tài chính doanh nghiệp: (Điều 142 
và Khoản 1 Điều 143 Luật Doanh nghiệp 2005) 
Trong Doanh nghiệp tư nhân, vấn đề tách bạch tài sản không được 
đặt ra. Vì vậy tài sản được sử dụng vào hoạt động kinh doanh của 
chủ doanh nghiệp tư nhân không phải làm thủ tục chuyển quyền sở 
hữu cho doanh nghiệp. Nguồn vốn hoạt động của doanh nghiệp do 
chủ doanh nghiệp đầu tư và tự đăng ký với cơ quan đăng ký kinh 
doanh. 
 45 
Chủ doanh nghiệp có nghĩa vụ đăng ký chính xác số vốn đầu tư, 
trong đó nêu rõ số vốn bằng tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển 
đổi, vàng và các loại tài sản khác; đối với vốn bằng tài sản khác 
còn phải ghi rõ loại tài sản, số lượng và giá trị còn lại của mỗi loại 
tài sản. 
Toàn bộ vốn và tài sản trong doanh nghiệp, kể cả vốn vay và tài 
sản thuê do chủ doanh nghiệp tự quyết định việc sử dụng vào hoạt 
động kinh doanh nhưng phải ... háp lý. Doanh 
nghiệp tư nhân khi bị bán là bị tách rời khỏi tư cách cá nhân người 
chủ sở hữu, tách rời khỏi khối tài sản đảm bảo trách nhiệm cho 
hoạt động của nó. Vì vậy thực chất từ thời điểm bán thì Doanh 
nghiệp tư nhân đó chấm dứt sự tồn tại. Người mua doanh nghiệp 
có thể dùng khối tài sản này để mở rộng hoạt động kinh doanh 
 48 
hiện có của mình, ví dụ như dùng cơ sở vật chất nhân lực đó lập 
thành một chi nhánh mới của công ty, hoặc đăng ký kinh doanh 
dưới hình thức công ty. Kể cả trong trường hợp người mua doanh 
nghiệp là một cá nhân và tiến hành đăng ký kinh doanh lại dưới 
hình thức Doanh nghiệp tư nhân với tên doanh nghiệp và toàn bộ 
cơ sở vật chất nhân lực giữ nguyên như cũ, thì doanh nghiệp vừa 
được đăng ký kinh doanh này cũng là một Doanh nghiệp tư nhân 
khác, vì các thuộc tính cơ bản của nó như cá nhân chủ sở hữu và 
khối tài sản riêng của chủ để đảm bảo trách nhiệm cho doanh 
nghiệp là hoàn toàn khác. 
Pháp luật yêu cầu chậm nhất là 15 ngày trước ngày chuyển giao 
doanh nghiệp cho người mua, chủ doanh nghiệp phải thông báo 
bằng văn bản cho cơ quan đăng ký kinh doanh. Thông báo phải 
nêu rõ tên, trụ sở của doanh nghiệp; tên, địa chỉ của người mua; 
tổng số nợ chưa thanh toán của doanh nghiệp; tên, địa chỉ, số nợ và 
thời hạn thanh toán cho từng chủ nợ; hợp đồng lao động và các 
hợp đồng khác đã ký mà chưa thực hiện xong và cách thức giải 
quyết các hợp đồng đó. Người bán, người mua doanh nghiệp phải 
tuân thủ các qui định của pháp luật lao động đối với người lao 
động trong doanh nghiệp 
II. Hộ kinh doanh 
Trong thành phần kinh tế ngoài quốc doanh (dân doanh), các cá 
nhân, hộ gia đình kinh doanh với qui mô nhỏ như cửa hàng, sạp 
chợ, quán ăn, dịch vụ sửa, rửa xe, cắt tóc, may mặc chiếm số 
lượng lớn, tạo công ăn việc làm và đóng góp đáng kể cho tăng 
trưởng kinh tế đất nước. Mô hình kinh doanh này rất giản đơn, 
trước đây được điều chỉnh bởi Nghị định số 66/HĐBT ngày 
2/3/1992, sau đó Nghị định này hết hiệu lực và lần lượt được thay 
thế bởi các Nghị định số 02/2000/NĐ-CP và Nghị định 
109/2004/NĐ-CP. Ngày 1/7/2006, khi Luật Doanh nghiệp 2005 
bắt đầu có hiệu lực cũng là lúc Nghị định 109/2004 chấm dứt hiệu 
 49 
lực. Hiện nay Hộ kinh doanh được điều chỉnh bởi Nghị định số 
88/2006/NĐ-CP ngày 29/8/2006. 
1. Khái niệm và đặc điểm 
1. Khái niệm: 
Khoản 1 Điều 36 Nghị định 88/2006 định nghĩa: “Hộ kinh doanh 
do một cá nhân là công dân Việt Nam hoặc một nhóm người hoặc 
một hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa 
điểm, sử dụng không quá mười lao động, không có con dấu và 
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động 
kinh doanh.” 
Từ tên gọi và định nghĩa, khái quát nhất chúng ta có thể nhận thấy 
đây là một chủ thể kinh doanh, nói cách khác đây là một đơn vị 
được thành lập và đăng ký kinh doanh theo qui định của pháp luật 
nhằm tiến hành hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, đối với những 
đơn vị kinh doanh có những qui định, chính sách riêng như hộ sản 
xuất nông, lâm, ngư nghiệp, làm muối hoặc những hoạt động mang 
hình thức kinh doanh nhưng thực chất vốn đầu tư nhỏ lẻ, chủ yếu 
lấy công làm lời hoặc mang tính lưu động không cố định như 
những người bán hàng rong, quà vặt, buôn chuyến, kinh doanh lưu 
động, làm dịch vụ có thu nhập thấp thì không phải đăng ký kinh 
doanh, không được coi là Hộ kinh doanh, trừ trường hợp kinh 
doanh các ngành, nghề có điều kiện thì phải đăng ký kinh doanh 
để nhà nước thống kê và quản lý. Đối với vấn đề thu nhập như thế 
nào được coi là “thu nhập thấp” để không phải đăng ký kinh 
doanh, Nghị định 88/2006/NĐ-CP không đưa ra một chuẩn cố 
định áp dụng trong phạm vi toàn quốc, mà “mức thu nhập thấp làm 
chuẩn do UBND cấp tỉnh qui định áp dụng trên phạm vi địa 
phương và không được vượt quá mức khởi điểm chịu thuế thu 
nhập cá nhân đối với người có thu nhập cao theo qui định của pháp 
luật về thuế.”11 
 50 
2. Đặc điểm: 
i. Loại hình: Là chủ thể kinh doanh không được coi là doanh 
nghiệp 
Theo tinh thần của Luật Doanh nghiệp 2005, Hộ kinh doanh là đơn 
vị kinh doanh có qui mô nhỏ. Mặc dù Hộ kinh doanh cũng có đăng 
ký kinh doanh nhưng hoạt động theo qui định của Chính phủ, 
không chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp. Chỉ khi qui mô 
của Hộ kinh doanh đạt đến chuẩn do Luật Doanh nghiệp qui định, 
thì lúc đó Hộ kinh doanh phải đăng ký thành doanh nghiệp và hoạt 
động theo Luật Doanh nghiệp.12 Ngoài ra, một dấu hiệu chỉ rõ Hộ 
kinh doanh không phải là doanh nghiệp được thể hiện ở qui định 
Hộ kinh doanh không có con dấu. Trong khi đó, tất cả doanh 
nghiệp đều có con dấu được khắc và đăng ký theo đúng qui định 
pháp luật tại Công an Tỉnh nơi doanh nghiệp đặt trụ sở.13 
i. Chủ sở hữu: Chủ Hộ kinh doanh là một cá nhân là công 
dân Việt Nam, một nhóm người hoặc một hộ gia đình 
Có ba đối tượng được quyền thành lập Hộ kinh doanh, tạo thành 
ba loại Hộ kinh doanh, đó là: 
• Hộ kinh doanh do cá nhân làm chủ; 
• Hộ kinh doanh do nhóm người làm chủ; và 
• Hộ kinh doanh do hộ gia đình làm chủ 
Như vậy, Hộ kinh doanh có thể có một chủ (một cá nhân hoặc một 
hộ gia đình) hoặc nhiều chủ (một nhóm người hợp tác làm chủ). 
Cũng giống như qui định đối với Doanh nghiệp tư nhân, Nghị định 
88/2006 xác định rằng mỗi cá nhân, mỗi hộ gia đình chỉ được đăng 
ký kinh doanh một Hộ kinh doanh trong phạm vi toàn quốc.14 
Thêm vào đó, Nghị định 139/2007/NĐ-CP qui định mỗi cá nhân 
 51 
chỉ được đăng ký thành lập một Doanh nghiệp tư nhân hoặc một 
Hộ kinh doanh hoặc làm thành viên hợp danh của công ty hợp 
danh, trừ trường hợp các thành viên hợp danh còn lại có thỏa thuận 
khác.15 
i. Chế độ trách nhiệm: Hộ kinh doanh có chế độ trách nhiệm 
vô hạn 
Dù chủ Hộ kinh doanh là một cá nhân, một nhóm người hay một 
hộ gia đình thì họ đều phải “chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản 
của mình về hoạt động kinh doanh”. Nếu là nhóm người hoặc hộ 
gia đình làm chủ thì tất cả thành viên của nhóm hay thành viên 
trong hộ phải liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về hoạt động của 
Hộ kinh doanh. Điều này có nghĩa là khi số nợ trong kinh doanh 
lớn hơn tài sản đưa vào kinh doanh chung thì mọi thành viên đều 
có trách nhiệm lấy cả những tài sản riêng của mình để trả nợ. 
i. Tư cách pháp lý: Hộ kinh doanh không có tư cách pháp 
nhân 
Cũng giống như Doanh nghiệp tư nhân, Hộ kinh doanh là một chủ 
thể kinh doanh không có tài sản độc lập, không có sự tách bạch về 
sở hữu. Thực chất trong mô hình Hộ kinh doanh, cá nhân chủ hộ 
hoặc các cá nhân thành viên của hộ tiến hành hoạt động kinh 
doanh và chịu trách nhiệm về các rủi ro trong kinh doanh một cách 
cá nhân (hoặc liên đới giữa các cá nhân) và trực tiếp. Dù Nghị định 
88/2006/NĐ-CP không có qui định nói về vấn đề này, nhưng thực 
tế Hộ kinh doanh không thể nhân danh chính mình tham gia vào 
các quan hệ pháp luật. Cá nhân chủ hộ hoặc người đại diện hộ gia 
đình hay nhóm người có quyền nhân danh hộ trong các quan hệ 
với cơ quan quản lý nhà nước, và là nguyên đơn, bị đơn, người có 
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các quan hệ tố tụng liên quan 
đến Hộ kinh doanh. Vì vậy, Hộ kinh doanh không có tư cách pháp 
nhân. 
 52 
i. Qui mô kinh doanh: Hộ kinh doanh có qui mô kinh doanh 
nhỏ 
Pháp luật Việt Nam dùng qui mô làm tiêu chí để phân biệt Hộ kinh 
doanh và Doanh nghiệp. Trước đây theo Nghị định 66/NĐ/HĐBT, 
tiêu chí để xác định qui mô kinh doanh là vốn pháp định. Nếu chủ 
thể kinh doanh với vốn dưới mức vốn pháp định thì không được 
coi là doanh nghiệp. Từ khi có Luật Doanh nghiệp 1999, tiêu chí 
vốn pháp định đã được bỏ đi. Thay vào đó là số địa điểm kinh 
doanh và số lượng lao động. Nếu Hộ kinh doanh có sử dụng 
thường xuyên hơn 10 lao động phải đăng ký kinh doanh dưới hình 
thức doanh nghiệp.16 Hộ kinh doanh chỉ được đăng ký kinh doanh 
tại một địa điểm. Như vậy, nếu qui mô hoạt động của Hộ kinh 
doanh tăng lên đến mức có nhu cầu mở thêm địa điểm kinh doanh, 
thì chủ sở hữu của Hộ kinh doanh đó cũng phải đăng ký kinh 
doanh dưới hình thức doanh nghiệp vì pháp luật không giới hạn số 
lượng địa điểm kinh doanh mà một doanh nghiệp có thể có. 
2. Đăng ký kinh doanh: 
1. Quyền đăng ký kinh doanh 
Có ba đối tượng có quyền đăng ký kinh doanh dưới hình thức Hộ 
kinh doanh: cá nhân, nhóm người và hộ gia đình. 
Đối với cá nhân, phải đảm bảo các điều kiện sau đây: 
i. Là công dân Việt Nam; 
ii. Thành niên (đủ 18 tuổi); và 
iii. Có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự đầy đủ. 
Pháp luật không đặt ra điều kiện đối với hộ gia đình và nhóm 
người kinh doanh. Tuy nhiên, hộ gia đình và nhóm người muốn 
đăng ký kinh doanh thì phải cử người đại diện của hộ hoặc nhóm 
 53 
người thực hiện thủ tục, và cá nhân người này cũng phải thỏa mãn 
các điều kiện như đối với cá nhân nêu trên để đăng ký kinh doanh. 
Một cá nhân hoặc một hộ gia đình chỉ được đăng ký một Hộ kinh 
doanh trong phạm vi toàn quốc. 
2. Cơ quan đăng ký kinh doanh: 
Cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh 
cho Hộ kinh doanh là cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện tại 
nơi đặt địa điểm kinh doanh.17 Cơ quan này có thể là Phòng đăng 
ký kinh doanh trực thuộc UBND cấp huyện, hoặc ở những địa 
phương chưa lập được Phòng đăng ký kinh doanh riêng, thì đó có 
thể là Phòng Tài chính – Kế hoạch hoặc Phòng Kinh tế. 
3. Hồ sơ đăng ký kinh doanh: 
Gồm các loại giấy tờ sau: 
i. Giấy đề nghị đăng ký kinh doanh; 
ii. Bản sao Giấy chứng minh nhân dân của cá nhân hoặc 
người đại diện hộ gia đình 
iii. Đối với những ngành nghề phải có chứng chỉ hành nghề, 
phải có bản sao hợp lệ chứng chỉ hành nghề của cá nhân 
hoặc đại diện hộ gia đình 
iv. Đối với những ngành, nghề phải có vốn pháp định thì phải 
có bản sao hợp lệ văn bản xác nhận vốn pháp định của cơ 
quan, tổ chức có thẩm quyền 
4. Trình tự, thủ tục đăng ký kinh doanh: 
i. Bước 1: Nộp hồ sơ đăng ký kinh doanh 
 54 
Cá nhân hoặc người đại diện nhóm người, hộ gia đình nộp hồ sơ 
đăng ký kinh doanh và lệ phí đăng ký kinh doanh cho cơ quan 
đăng ký kinh doanh. Người nộp hồ sơ sẽ được trao giấy biên nhận 
về việc nộp hồ sơ. 
i. Bước 2: Xem xét cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh 
Trong thời hạn năm ngày làm việc kể từ ngày nhận đơn, cơ quan 
đăng ký kinh doanh cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho 
Hộ kinh doanh nếu xét thấy đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau 
đây:18 
a. Ngành, nghề kinh doanh không thuộc danh mục ngành, 
nghề cấm kinh doanh; 
b. Tên Hộ kinh doanh dự định đăng ký phù hợp qui định, cụ 
thể là tên phải bao gồm 2 thành tố: loại hình “Hộ kinh 
doanh” và tên riêng. Tên riêng phải viết được bằng tiếng 
Việt, có thể kèm theo chữ số và ký hiệu, phát âm được. Tên 
riêng không có từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch 
sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc. 
Tên riêng của Hộ kinh doanh không được trùng với tên 
riêng của Hộ kinh doanh đã đăng ký trong phạm vi 
huyện.19 
c. Nộp đủ lệ phí đăng ký kinh doanh theo qui định. 
Trường hợp hồ sơ không hợp lệ, trong thời hạn năm ngày làm việc 
kể từ ngày nhận hồ sơ, cơ quan đăng ký kinh doanh phải thông báo 
rõ nội dung cần sửa đổi, bổ sung bằng văn bản cho người thành lập 
Hộ kinh doanh. Nếu hết thời hạn này mà không nhận được Giấy 
chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc thông báo yêu cầu sửa đổi, 
bổ sung hồ sơ đăng ký kinh doanh thì người đăng ký Hộ kinh 
doanh có quyền khiếu nại theo qui định của pháp luật về khiếu nại, 
tố cáo.20 
 55 
Hộ kinh doanh có quyền tiến hành hoạt động kinh doanh sau khi 
được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, trừ trường hợp 
kinh doanh các ngành, nghề kinh doanh phải có điều kiện. Nếu 
kinh doanh ngành, nghề kinh doanh có điều kiện thì Hộ phải có 
xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã thỏa mãn các 
điều kiện đó mới được tiến hành kinh doanh.21 
1. Thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh, tạm 
ngừng và chấm dứt hoạt động kinh doanh 
1. Thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh 
Khi thay đổi nội dung kinh doanh đã đăng ký, ví dụ như thay đổi 
ngành nghề kinh doanh, thì Hộ kinh doanh thông báo nội dung 
thay đổi với cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện nơi đã đăng ký 
kinh doanh.22 
Riêng đối với việc thay đổi địa điểm kinh doanh, nếu chuyển sang 
địa điểm kinh doanh mới vẫn nằm trong phạm vi huyện đã đăng ký 
kinh doanh thì chỉ cần thông báo, nếu chuyển địa điểm kinh doanh 
sang huyện khác thì phải nộp lại Giấy chứng nhận đăng ký kinh 
doanh cho cơ quan đã cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh23 
và đăng ký kinh doanh tại nơi đặt địa điểm mới. 
2. Tạm ngừng hoạt động kinh doanh 
Khi tạm ngừng kinh doanh từ 30 ngày trở lên, Hộ kinh doanh phải 
thông báo với cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan thuế trực 
tiếp quản lý. Thời gian tạm ngừng kinh doanh không được quá một 
năm.24 
3. Chấm dứt hoạt động kinh doanh 
 56 
Hoạt động kinh doanh của Hộ kinh doanh có thể bị chấm dứt bởi 
quyết định của chủ hộ hoặc chấm dứt vì bị thu hồi Giấy chứng 
nhận đăng ký kinh doanh. Hộ kinh doanh bị thu hồi Giấy chứng 
nhận đăng ký kinh doanh trong các trường hợp sau:25 
i. Không tiến hành hoạt động kinh doanh trong thời hạn 6 
tháng, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh 
doanh; 
ii. Ngừng hoạt động kinh doanh quá 6 tháng liện tục mà 
không thông báo với cơ quan đăng ký kinh doanh cấp 
huyện nơi đăng ký kinh doanh; 
iii. Chuyển địa điểm kinh doanh sang quận, huyện khác; 
iv. Kinh doanh ngành, nghề bị cấm. 
Khi chấm dứt hoạt động kinh doanh, Hộ kinh doanh phải nộp lại 
bản gốc Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho cơ quan đăng 
ký kinh doanh cấp huyện nơi đã đăng ký đồng thời thanh toán đầy 
đủ các khoản nợ, gồm cả nợ thuế và nghĩa vụ tài chính chưa thực 
hiện.26 
_____________________________________ 
1 Đánh giá tổng kết Luật Công ty, Luật Doanh nghiệp tư nhân và Nghị định 
66/HĐBT, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương – Bộ Kế hoạch và Đầu 
tư, năm 1999, trang 112 
2 Xem Điều 24 Nghị định 139/2007/NĐ-CP ngày 5/9/2007 
3 Khoản 3 Điều 141 Luật Doanh nghiệp 2005 
4 Xem Điều 142 Luật Doanh nghiệp 2005 
5 Xem Điều 143 Luật Doanh nghiệp 2005 
6 Xem Điều 24 Nghị Định 139/2007/NĐ-CP 
7 Xem bài Công ty TNHH 1 thành viên 
8 Khoản 4 Điều 143 Luật Doanh nghiệp 2005 
9 Khoản 3 Điều 143 Luật Doanh nghiệp 2005 
10 Khoản 2 Điều 141 Luật Doanh nghiệp 2005 
11 Khoản 2 Điều 36 Nghị định 88/2006/NĐ-CP 
12 Xem Khoản 4 Điều 170 Luật Doanh nghiệp 2005 
 57 
13 Xem Điều 36 Luật Doanh nghiệp và Nghị định số 58/2001/NĐ-CP ngày 
24/8/2001 về quản lý và sử dụng con dấu 
14 Khoản 2 Điều 37 Nghị định 88/2006/NĐ-CP 
15 Khoản 2 Điều 9 Nghị định 139/2007/NĐ-CP 
16 Khoản 4 Điều 170 Luật Doanh nghiệp 2005 và Khoản 3 Điều 36 Nghị định 
88/2006/NĐ-CP 
17 Khoản 1 Điều 38 Nghị định 88/2006/NĐ-CP 
18 Xem Khoản 3 Điều 38 Nghị định 88/2006/NĐ-CP 
19 Điều 42 Nghị định 88/2006/NĐ-CP 
20 Khoản 4 Điều 38 Nghị định 88/2006/NĐ-CP 
21 Điều 39 Nghị định 88/2006/NĐ-CP 
22 Khoản 1 Điều 41 Nghị định 88/2006/NĐ-CP 
23 Khoản 3 Điều 47 Nghị định 88/2006/NĐ-CP 
24 Khoản 2 Điều 41 Nghị định 88/2006/NĐ-CP 
25 Xem Điều 47 Nghị định 88/2006/NĐ-CP 
26 Khoản 3 Điều 41 Nghị định 88/2006/NĐ-CP 

File đính kèm:

  • pdfbai_giang_chu_the_kinh_doanh_chuong_ii_doanh_nghiep_tu_nhan.pdf