Bài giảng Chủ thể kinh doanh - Chương I: Những vấn đề chung về kinh doanh và chủ thể kinh doanh
Chương này sẽ trình bày những vấn đề chung về kinh doanh và
các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện
nay. Các vấn đề về thành lập doanh nghiệp, góp vốn vào doanh
nghiệp, quyền và nghĩa vụ chủ yếu của doanh nghiệp cũng sẽ được
trình bày trong chương này
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Chủ thể kinh doanh - Chương I: Những vấn đề chung về kinh doanh và chủ thể kinh doanh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Chủ thể kinh doanh - Chương I: Những vấn đề chung về kinh doanh và chủ thể kinh doanh
1 CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KINH DOANH VÀ CHỦ THỂ KINH DOANH Tiến sĩ Bùi Xuân Hải Thạc sĩ Hà Thị Thanh Bình Chương này sẽ trình bày những vấn đề chung về kinh doanh và các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay. Các vấn đề về thành lập doanh nghiệp, góp vốn vào doanh nghiệp, quyền và nghĩa vụ chủ yếu của doanh nghiệp cũng sẽ được trình bày trong chương này. I. KINH DOANH VÀ CÁC LOẠI HÌNH CHỦ THỂ KINH DOANH 1. Khái niệm kinh doanh Một trong những khái niệm nền tảng của môn học chủ thể kinh doanh là kinh doanh. Trước đây, kinh doanh và tự do kinh doanh đã không được thừa nhận trong đường lối, chính sách và thực tiễn pháp luật của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, khái niệm kinh doanh đã được ghi nhận trong Luật Công ty 1990, và tiếp tục được khẳng định lại trong Luật Doanh nghiệp 1999 và 2005.1 Quyền tự do kinh doanh của công dân cũng đã được ghi nhận trong Hiến pháp 1992. Ở góc độ đời thường, hành vi kinh doanh thường được hiểu là hành vi mà chủ thể thực hiện nhằm mục đích sinh lợi. Trong luật thực định của Việt Nam, kinh doanh được định nghĩa trong các đạo luật về công ty năm 1990, 1999 và hiện nay là trong Luật Doanh nghiệp 2005. Khoản 2, Điều 4 của Luật Doanh nghiệp qui định: “Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất 2 cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.” Khái niệm kinh doanh này đề cập đến mục đích của hành vi và nơi mà hành vi của chủ thể có thể thực hiện, nó bao trùm tất cả các giai đoạn của hoạt động đầu tư kinh doanh, từ việc bỏ vốn vào đầu tư, đến sản xuất, gia công, chế biến hàng hóa, cung ứng các loại dịch vụ trên thị trường như đại lý, môi giới, ủy thác, dịch vụ giao nhận vv, nhằm tìm kiếm lợi nhuận.2 Nói một cách khác, khái niêm này tập trung vào bản chất của hành vi, mục đích của hành vi chứ không phải kết quả cụ thể mà các bên đạt được trong thực tiễn. Khái niệm về kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp hàm ý ba đặc tính cơ bản: - Hoạt động kinh doanh là hoạt động mang tính nghề nghiệp; - Hoạt động kinh doanh diễn ra trên thị trường; - Hoạt động kinh doanh có mục đích là lợi nhuận; Một khái niệm rất gần với kinh doanh là thương mại. Cụ thể, nếu xem xét trong luật thực định của Việt Nam, có thể so sánh định nghĩa về kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp và định nghĩa về họat động thương mại theo Luật Thương mại 2005 khi mà đạo luật này đã có sự mở rộng khái niệm họat động thương mại rất nhiều so với Luật Thương mại 1997. Theo Khoản 1 Điều 3 của Luật Thương mại 2005, “hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.” Khái niệm kinh doanh cũng gắn liền với quyền tự do kinh doanh với tính cách là một bộ phận cấu thành của phạm trù quyền 3 tự do của công dân. Trong khoa học pháp lý, quyền tự do kinh doanh có thể được hiểu theo nghĩa chủ quan (góc độ quyền chủ thể) và nghĩa khách quan.3 Quyền tự do kinh doanh của công dân tồn tại như một nhu cầu tất yếu của nền kinh tế theo cơ chế thị trường. 2. Chủ thể kinh doanh Từ khái niệm về kinh doanh, vấn đề tiếp theo cần xem xét là chủ thể thực hiện hành vi kinh doanh hay hoạt động kinh doanh. Về nguyên tắc, khi muốn thực hiện hoạt động kinh doanh, các chủ thể cần phải chọn lấy một mô hình trong số các mô hình kinh doanh mà pháp luật của quốc gia đó công nhận. Vì thế, có sự tồn tại rất đa dạng các loại hình doanh nghiệp, hay cụ thể hơn, các loại hình công ty trong pháp luật của các quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, chủ thể kinh doanh có thể được hiểu là tất cả các tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi kinh doanh theo qui định của pháp luật. Tuy nhiên, theo nghĩa hẹp hơn của luật thực định thì chủ thể kinh doanh có thể được hiểu gồm các tổ chức, cá nhân kinh doanh đã làm thủ tục theo qui định và được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hay giấy chứng nhận đầu tư.4 Cụ thể bao gồm: 1. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập và hoạt động theo pháp luật về doanh nghiệp, bao gồm Luật Doanh nghiệp 2005 và các văn bản luật chuyên ngành điều chỉnh một số lĩnh vực đặc thù như Luật Chứng khoán, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Luật sư, . 2. Hộ kinh doanh (hay trong thực tế còn được gọi là hộ kinh doanh cá thể, tiểu thương) mà hiện nay được điều chỉnh bởi Nghị định 88/2006/NĐ-CP của Chính phủ. 3. Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp 4 3.1. Khái niệm Doanh nghiệp thực ra là thuật ngữ có nguồn gốc từ lĩnh vực kinh tế học.5 Nó có thể được định nghĩa dưới những góc độ khác nhau thể hiện những cách nhìn đa dạng về doanh nghiệp. Có tác giả cho rằng doanh nghiệp như một cái áo khoác để thực hiện ý tưởng kinh doanh.6 Tuy nhiên, doanh nghiệp và công ty (company hay corporation) là hai khái niệm khác nhau trong khoa học pháp lý cũng như luật thực định của Việt Nam. Trong luật thực định của Việt Nam, khái niệm về doanh nghiệp và các loại hình doanh nghiệp cụ thể (trong đó có các loại công ty) được quy định trong Luật Doanh nghiệp 2005. Theo Điều 4 của Luật Doanh nghiệp 2005 thì “doanh nghiệp” được hiểu là “tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện ổn định các hoạt động kinh doanh.”7 Định nghĩa này đã bao hàm gần như đầy đủ các đặc tính của doanh nghiệp với tư cách là một chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. 3.2. Đặc điểm của doanh nghiệp Từ khái niệm đã nêu trong Luật Doanh nghiệp 2005, doanh nghiệp nói chung có những đặc điểm sau:. a. Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế được thành lập theo quy định của pháp luật và tồn tại dưới một hình thức pháp lý nhất định. Theo Luật Doanh nghiệp hiện hành, tất cả các loại doanh nghiệp không phân biệt hình thức pháp lý hay hình thức sở hữu đều được thành lập thông qua thủ tục đăng ký kinh doanh. Sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp được coi là được hình thành và có năng lực chủ thể để tự mình tiến hành các hoạt động kinh doanh. Khi đăng ký kinh doanh, (các) nhà đầu 5 tư phải lựa chọn những hình thức doanh nghiệp được quy định trong pháp luật hiện hành. Phần phân loại doanh nghiệp theo hình thức pháp lý của chương này sẽ trình bày khái quát về các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam theo luật pháp hiện hành. b. Doanh nghiệp có tên riêng, có trụ sở giao dịch, có tài sản và có sử dụng lao động làm thuê. Tất cả các doanh nghiệp khi thành lập đều phải có tên riêng. Tên của doanh nghiệp phải được viết bằng tiếng Việt, có thể kèm theo chữ số và ký hiệu, phải phát âm được và phải có ít nhất hai thành tố (i) loại hình doanh nghiệp và (ii) tên riêng. Tên doanh nghiệp phải được viết hoặc gắn tại trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp. Tên của doanh nghiệp không thể trùng hay gây nhầm lẫn với tên của doanh nghiệp khác đã đăng ký; không sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục.8 Doanh nghiệp phải có trụ sở chính. Trụ sở chính của doanh nghiệp đặt ở địa phương nào sẽ quyết định nơi mà doanh nghiệp sẽ được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trụ sở của doanh nghiệp đặt ở tỉnh A thì không có nghĩa là doanh nghiệp này không được đến các tỉnh khác để kinh doanh mà quyền kinh doanh của doanh nghiệp được thừa nhận ở trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, không phân biệt nơi đặt trụ sở chính của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải có tài sản và được quyền sử dụng tài sản đó vào hoạt động kinh doanh của mình. Tài sản của doanh nghiệp được hình thành từ vốn góp của các nhà đầu tư, vốn do doanh nghiệp huy động và vốn do doanh nghiệp tạo lập thêm trong quá trình hoạt động kinh doanh. Tài sản của doanh nghiệp là cơ sở, là nguồn vật chất cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì vây, thành lập doanh nghiệp phải có vốn, vốn do các nhà đầu tư 6 góp vào công ty được gọi là vốn điều lệ và số vốn này có thể thay đổi phù hợp với qui định của pháp luật hiện hành. Doanh nghiệp phải tuyển dụng lao động làm thuê. Về mặt pháp lý, doanh nghiệp là một thực thể nhân tạo (artificial entity), được thành lập theo quy định của pháp luật và chỉ có thể thực hiện được hoạt động của mình thông qua những con người cụ thể, chính vì vậy mà việc sử dụng lao động làm thuê trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là lẽ tất nhiên. Ngay cả những người bỏ vốn ra đầu tư thành lập công ty nếu làm việc cho doanh nghiệp cũng được coi là người lao động trong doanh nghịêp. Chẳng hạn ông A góp 35% vốn thành lập công ty TNHH Hoa Mai và ông được bổ nhiệm chức Giám đốc công ty thì ông A cũng được xem là người lao động trong công ty. c. Mục đích hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp là nhằm mục đích kinh doanh- vì mục tiêu lợi nhuận. Đây là một dấu hiệu rất quan trong để phân biệt doanh nghiệp với các tổ chức phi lợi nhuân khác. Mục đích sinh lợi có thể được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm hoạt động nhằm thu lợi nhuận với ý nghĩa kinh tế đơn thuần và cả những hoạt động sinh lợi khác có thể không chỉ là vì lợi ích kinh tế một cách trực tiếp. Song, mục tiêu chủ yếu của tất cả các nhà đầu tư khi thành lập doanh nghiệp là tìm kiếm lợi nhuận. Đây là một thuộc tính không thể tách rời của doanh nghiệp. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, bên cạnh những doanh nghiệp được thành lập với mục đích thuần túy là kinh doanh thu lợi nhuận, cũng có doanh nghiệp được thành lập và hoạt động nhằm mục đích thực hiện các nhiệm vụ công ích, phục vụ lợi ích công cộng chứ không phải chỉ tìm kiếm lợi nhuận. Những doanh nghiệp như thế có thể thấy trong số các công ty nhà nước hoạt động theo Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003. 7 3. 3. Phân loại doanh nghiệp Để hiểu rõ hơn về các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường hiện nay, cần thiết phải xem xét về các loại hình doanh nghiệp theo các căn cứ phân loại khác nhau. Việc phân loại doanh nghiệp có thể căn cứ vào các tiêu chí sau đây: a. Căn cứ vào hình thức pháp lý của doanh nghiệp Căn cứ pháp luật hiện hành thì hình thức pháp lý của các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam gồm: + Công ty trách nhiệm hữu hạn (bao gồm các công ty TNHH một thành viên và công ty TNHH có hai thành viên trở lên) hoạt động theo Luật Doanh nghiệp 2005; + Công ty cổ phần hoạt động theo Luật Doanh nghiệp 2005; + Công ty hợp danh hoạt động theo Luật Doanh nghiệp 2005; + Doanh nghiệp tư nhân hoạt động theo Luật Doanh nghiệp 2005; + Công ty nhà nước hoạt động theo Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003. Tuy nhiên, theo qui định của Luật Doanh nghiệp 2005, các công ty nhà nước đang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003 sẽ phải chuyển đổi thành các mô hình công ty TNHH hay công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp 2005 trước 01/07/2010.9 + Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hoạt động theo Luật Hợp tác xã 2005. Mặc dù có quan điểm cho rằng, hợp tác xã không phải là một loại hình doanh nghiệp, nhưng để phục vụ cho mục đích của 8 môn học này, chúng tôi vẫn nhìn nhận hợp tác xã như một loại hình doanh nghiệp. + Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo Luật Đầu tư nước ngoài trước đây chưa đăng ký lại hay chuyển đổi theo qui định.10 Cũng cần phân biệt các doanh nghiệp này với khái niêm “doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài” theo Luật Đầu tư 2005.11 Doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài không đăng ký hoặc chưa đăng ký lại theo Nghị định số 101/2006/NĐ-CP của Chính phủ thì chỉ được quyền hoạt động kinh doanh trong phạm vi ngành, nghề và thời hạn được ghi trong giấy phép đầu tư; không được mở rộng phạm vi kinh doanh sang ngành, nghề khác. Song, việc tổ chức quản lý nội bộ và hoạt động của doanh nghiệp thực hiện theo quy định của Điều lệ doanh nghiệp; trường hợp Điều lệ không quy định thì áp dụng theo các quy định tương ứng của Luật Doanh nghiệp 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Cuộc cải cách pháp luật doanh nghiệp và đầu tư năm 2005, với sự ra đời của Luật Doanh nghiệp 2005 – đạo luật cơ bản nhất điều chỉnh các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam, đã thực hiện việc phân loại các doanh nghiệp theo hình thức pháp lý mà không dựa vào hình thức sở hữu như trước đây. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực đặc thù thì còn chịu sự điều chỉnh bởi các đạo luật chuyên ngành khác chẳng hạn như Luật Các tổ chức tín dụng; Luật Chứng khoán; Luật Kinh doanh bảo hiểm; Luật Luật sư vv. b. Căn cứ vào chế độ trách nhiệm Căn cứ vào chế độ trách nhiệm thì có thể phân loại các doanh nghiệp thành các doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm vô hạn và các doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm hữu hạn. 9 + Doanh nghiêp có chế độ trách nhiệm vô hạn Doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm vô hạn gồm doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh. Thực chất chế độ trách nhiệm vô hạn của hai loại doanh nghiệp này chính là chế độ trách nhiệm vô hạn của chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân và của thành viên hợp danh công ty hợp danh. Chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân và thành viên hợp danh sẽ chịu trách nhiệm tới cùng về mọi nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp mà không giới hạn ở phần tài sản mà chủ doanh nghiệp, các thành viên hợp danh (gọi chung là nhà đầu tư) đã bỏ vào đầu tư kinh doanh tại doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh. Điều này có nghĩa là nếu tài sản của doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh không đủ để thực hiện các nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp khi các doanh nghiệp này phải áp dụng thủ tục thanh lý trong thủ tục phá sản, chủ sở hữu doanh nghiệp và các thành viên hợp danh phải sử dụng cả tài sản riêng không đầu tư vào doanh nghiệp để thanh toán cho các khoản nợ của doanh nghiệp. + Doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm hữu hạn Các doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm hữu hạn cụ thể gồm: công ty trách nhiện hữu hạn, công ty cổ phần, công ty nhà nước, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài không tiến hành đăng ký lại theo Nghi định 101/2006/NĐ-CP. Chế độ trách nhiệm hữu hạn của các loại doanh nghiêp trên thực chất là chế độ trách nhiệm hữu hạn của các nhà đầu tư - thành viên/chủ sở hữu công ty. Ví dụ, chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, các thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên chỉ phải chịu trách nhiệm về các nghĩa 10 vụ của công ty trong phạm vi phần vốn cam kết góp vào công ty. Công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần sẽ phải chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của công ty bằng tài sản của công ty và cho đến hết tài sản của công ty. c. Căn cứ vào tư cách pháp nhân của doanh ngh ... ụng tên cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân, tên của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội hoặc các tổ chức khác thì phải được sự đồng ý của các cơ quan, đơn vị hoặc tổ chức đó. Doanh nghiệp không được sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc để đặt tên cho doanh nghiệp. Nghị định 88/2006/NĐ-CP về Đăng ký kinh doanh dành 4 điều từ điều 10 đến điều 13 để giải thích cụ thể những quy định về tên doanh nghiệp và các vấn đề có liên quan đến tên doanh nghiệp như các điều cấm trong việc đặt tên doanh nghiệp, giải thích cụ thể các trường hợp tên trùng và tên gây nhầm lẫn cũng như các vấn đề khác về việc đặt tên doanh nghiệp; 27 3. Có trụ sở chính theo quy định tại khoản 1 Điều 35 của Luật DN. Trụ sở chính của doanh nghiệp là địa điểm liên lạc, giao dịch của doanh nghiệp, phải ở trên lãnh thổ Việt Nam, có địa chỉ được xác định. Doanh nghiệp phải thông báo thời gian mở cửa tại trụ sở chính với cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. 4. Có hồ sơ đăng ký kinh doanh hợp lệ theo quy định của pháp luật; 5. Nộp đủ lệ phí đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Mức lệ phí đang ký kinh doanh cụ thể do Chính phủ quy định. Theo quy định tại Nghị định 88/2006/NĐ-CP về Đăng ký kinh doanh, ngành nghề ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh được ghi theo Hệ thống ngành nghề kinh tế quốc dân. Đối với những ngành, nghề kinh doanh không có trong hệ thống ngành kinh tế quốc dân nhưng được quy định tại các văn bản pháp luật khác thì ngành nghề ghi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh được ghi theo ngành, nghề quy định tại các văn bản pháp luật đó. Theo Thông tư liên tịch số 02/2007/TTLT-BTC-BCA ngày 27 tháng 2 năm 2007 hướng dẫn cơ chế phối hợp giữa các cơ quan giải quyết đăng ký kinh doanh, đăng ký thuế và cấp giấy phép khắc dấu đối với doanh nghiệp thành lập, hoạt động theo Luật doanh nghiệp , doanh nghiệp có thể đăng ký kinh doanh, đăng ký mã số thuế và xin giấy phép cấp dấu tại một đầu mối là Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Trong trường hợp đăng ký thành lập mới, trong thời gian tối đa 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Sở Kế hoạch Đầu tư trả kết quả giải quyết các thủ tục hành chính cho doanh nghiệp. Nếu có yêu cầu, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có thể 28 được nhận giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trước khi nhận kết quả giải quyết các thủ tục đăng ký thuế, giấy phép cấp dấu. 4.4. Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và giá trị pháp lý của giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh được coi như là giấy khai sinh của doanh nghiệp. Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp có thể tiến hành hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp chỉ được tiến hành các hoạt động kinh doanh như được quy định trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Cũng cần lưu ý thêm rằng, như đã phân tích ở trên trong phần các ngành nghề kinh doanh có điều kiện, đối với một số ngành nghề kinh doanh có điều kiện, ngoài Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp kinh doanh các ngành nghề đó phải đáp ứng các điều kiện khác theo quy định của pháp luật chuyên ngành. Các điều kiện khác đó có thể phải thỏa mãn trước khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hay sau khi đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh nhưng để được kinh doanh và trong quá trình kinh doanh ngành, nghề đó, doanh nghiệp phải thỏa mãn các điều kiện theo quy định riêng biệt của các văn bản pháp luật đặc thù. Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh phải có các nội dung quy định tại Điều 25 Luật Doanh nghiệp 2005, được ghi trên cơ sở các thông tin trong hồ sơ đăng ký kinh doanh do người thành lập doanh nghiệp tự khai và tự chịu trách nhiệm. Mẫu giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh được áp dụng thống nhất trong phạm vi toàn quốc. Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh do Phòng Đăng ký kinh doanh cấp tỉnh cấp có hiệu lực trong phạm vi toàn quốc. Doanh nghiệp có quyền hoạt động kinh doanh kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Đối với những ngành nghề kinh 29 doanh có điều kiện thì doanh nghiệp được quyền kinh doanh ngành nghề đó kể từ ngày được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh hoặc có đủ điều kiện kinh doanh theo quy định. Cung cấp thông tin và công bố nội dung đăng ký kinh doanh Trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cơ quan đăng ký kinh doanh thông báo nội dung giấy chứng nhận đó cho cơ quan thuế, cơ quan thống kê, cơ quan quản lý ngành kinh tế kỹ thuật cùng cấp, UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính. Doanh nghiệp có trách nhiệm công bố nội dung đăng ký kinh doanh bằng việc đăng trên mạng thông tin doanh nghiệp của cơ quan đăng ký kinh doanh hoặc một trong các loại tờ báo viết hoặc báo điện tử trong 3 số liên tiếp về các nội dung chủ yếu sau trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh:20 - Tên doanh nghiệp - Địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện (nếu có). - Ngành nghề kinh doanh; - Vốn điều lệ của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh; số cổ phần và giá trị vốn cổ phần đã góp và số cổ phần được quyền phát hành đối với công ty cổ phần; vốn đầu tư ban đầu đối với doanh nghiệp tư nhân; vốn pháp định đối với doanh nghiệp kinh doanh ngành, nghề đòi hỏi phải có vốn pháp định; 30 - Họ, tên, địa chỉ, quốc tịch, số Giấy chứng minh nhân dân, hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác, số quyết định thành lập hoặc số đăng ký kinh doanh của chủ sở hữu, của thành viên hoặc cổ đông sáng lập; - Tên và địa chỉ của người đại diện theo pháp luật của Doanh nghiệp; - Nơi đăng ký kinh doanh. 4.5. Thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh Khi thay đổi tên, địa chỉ trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện (nếu có), mục tiêu và ngành nghề kinh doanh, vốn điều lệ hoặc số cổ phần được quyền chào bán, vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp (đối với doanh nghiệp tư nhân), thay đổi người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, thay đổi thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh, thay đổi cổ đông sáng lập đối với công ty cổ phần, thay đổi thành viên đối với công ty TNHH từ hai thành viên trở lên và các vấn đề khác trong nội dung hồ sơ đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp phải đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh chậm nhất 10 ngày làm việc kể từ ngày quyết định thay đổi. Trường hợp có thay đổi nội dung giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp được cấp lại giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, trường hợp có sự thay đổi khác, doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận thay đổi đăng ký kinh doanh. Khi thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh, cơ quan đăng ký kinh doanh phải thông báo nội dung những thay đổi đó cho các cơ quan có liên quan tương tự như khi cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp có nghĩa vụ công bố những nội dung thay đổi đăng ký kinh doanh trong thời hạn và theo phương thức quy định như đối với việc đăng ký kinh doanh lần đầu. 31 Các doanh nghiệp được thành lập trên cơ sở chia, tách, hợp nhất, sáp nhập và chuyển đổi cũng sẽ phải lập hồ sơ để đăng ký kinh doanh. Hồ sơ đăng ký kinh doanh được quy định tại điều 17 Nghị định 88/2006/NĐ-CP. III. QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA DOANH NGHIỆP Tất cả các doanh nghiệp khi đã đăng ký kinh doanh hoặc khi đã được phép hoạt động có những quyền và nghĩa vụ chung mặc dù các loại hình doanh nghiệp khác nhau có một số quyền và nghĩa vụ riêng phụ thuộc vào tính chất của mỗi loại hình doanh nghiệp và các doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực khác nhau có những quyền và nghĩa vụ khác nhau. Ví dụ như: chỉ có công ty cổ phần mới được quyền phát hành cổ phần hoặc chỉ công ty có đăng ký kinh doanh cung cấp dịch vụ du lịch lữ hành mới được cung cấp dịch vụ này. Các quyền và nghĩa vụ riêng của các loại hình doanh nghiệp khác nhau sẽ được trình bày ở phần sau: phần các loại hình doanh nghiệp cụ thể. Các quyền và nghĩa vụ riêng của các doanh nghiệp kinh doanh các ngành nghề lĩnh vực khác nhau sẽ được quy định cụ thể trong các văn bản quản lý chuyên ngành áp dụng cho những ngành, những lĩnh vực cụ thể đó. Ngoài ra, các doanh nghiệp hoạt động trong những lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư còn được hưởng những ưu đãi nhất định được quy định trong Luật Đầu tư 2005 và các văn bản hướng dẫn. Trong phần này, chỉ trình bày những quyền và nghĩa vụ chung mà pháp luật quy định cho tất cả các lọai hình doanh nghiệp được quy định trong Luật Doanh nghiệp 2005. 1. Quyền của doanh nghiệp Các quyền chung của các doanh nghiệp được quy định chủ yếu tại điều 8 Luật Doanh nghiệp 2005. 32 - Tự chủ kinh doanh; chủ động lựa chọn ngành, nghề, địa bàn, hình thức kinh doanh, đầu tư; chủ động mở rộng quy mô và ngành, nghề kinh doanh; được Nhà nước khuyến khích, ưu đãi và tạo điều kiện thuận lợi tham gia sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích. Doanh nghiệp có thể đặt một hoặc nhiều văn phòng đại diện, chi nhánh tại một địa phương theo địa giới hành chính. - Lựa chọn hình thức, phương thức huy động, phân bổ và sử dụng vốn. - Chủ động tìm kiếm thị trường, khách hàng và ký kết hợp đồng. - Kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu. - Tuyển dụng, thuê và sử dụng lao động theo yêu cầu kinh doanh. - Chủ động ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại để nâng cao hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh. - Tự chủ quyết định các công việc kinh doanh và quan hệ nội bộ. - Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của doanh nghiệp. - Từ chối mọi yêu cầu cung cấp các nguồn lực không được pháp luật quy định. - Khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo. - Trực tiếp hoặc thông qua người đại diện tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật. 33 - Các quyền khác theo quy định của pháp luật. Ví dụ quyền tạm ngừng kinh doanh quy định tại điều 156 Luật Doanh nghiệp 2005. Khi tạm ngừng kinh doanh phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan thuế chậm nhất 15 ngày trước ngày tạm ngừng và trước ngày tiếp tục kinh doanh. 2. Nghĩa vụ của doanh nghiệp Các nghĩa vụ chung của các doanh nghiệp được quy định chủ yếu tại điều 9 Luật Doanh nghiệp 2005, cụ thể như sau: - Hoạt động kinh doanh theo đúng ngành, nghề đã ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; bảo đảm điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật khi kinh doanh ngành, nghề kinh doanh có điều kiện. - Tổ chức công tác kế toán, lập và nộp báo cáo tài chính trung thực, chính xác, đúng thời hạn theo quy định của pháp luật về kế toán. - Đăng ký mã số thuế, kê khai thuế, nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật. - Bảo đảm quyền, lợi ích của người lao động theo quy định của pháp luật về lao động; thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm khác cho người lao động theo quy định của pháp luật về bảo hiểm. - Bảo đảm và chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hoá, dịch vụ theo tiêu chuẩn đã đăng ký hoặc công bố. - Thực hiện chế độ thống kê theo quy định của pháp luật về thống kê; định kỳ báo cáo đầy đủ các thông tin về doanh nghiệp, tình hình tài chính của doanh nghiệp với cơ quan nhà nước có 34 thẩm quyền theo mẫu quy định; khi phát hiện các thông tin đã kê khai hoặc báo cáo thiếu chính xác, chưa đầy đủ thì phải kịp thời sửa đổi, bổ sung các thông tin đó. - Tuân thủ quy định của pháp luật về quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường, bảo vệ di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh; - Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, điều 10 Luật Doanh nghiệp 2005 còn đưa ra những quy định thêm về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp có sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích ngoài những quyền và nghĩa vụ chung quy định tại điều 8 và 9 Luật Doanh nghiệp 2005 như sau: - Được hạch toán và bù đắp chi phí theo giá thực hiện thầu hoặc thu phí sử dụng dịch vụ theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; - Được bảo đảm thời hạn sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ thích hợp để thu hồi vốn đầu tư và có lãi hợp lý; - Sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ đủ số lượng, đúng chất lượng và thời hạn đã cam kết theo giá hoặc phí do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định; - Đảm bảo các điều kiện công bằng và thuận lợi như nhau cho mọi đối tượng khách hàng; - Chịu trách nhiệm trước pháp luật và khách hàng về số lượng, chất lượng, điều kiện cung ứng và giá, phí sản phẩm, dịch vụ cung ứng. 35 Việc quy định thêm những quyền và nghĩa vụ như trên khi các doanh nghiệp tham gia sản xuất, cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công ích là phù hợp với các nguyên tắc mới về xây dựng các quy phạm điều chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp về nguyên tắc chung sẽ bình đẳng trước pháp luật. Việc ưu tiên, ưu đãi đối với các doanh nghiệp sẽ không căn cứ vào hình thức sở hữu mà sẽ căn cứ vào lĩnh vực hoạt động cụ thể của doanh nghiệp phù hợp với chiến lược và mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước trong từng giai đoạn. __________________________ 1 Xem Điều 3 Luật Công ty 1990, Điều 3 Luật Doanh nghiệp 1999. 2 Xem them Bùi Ngọc Cường (2004), Một số vần đề về quyền tự do kinh doanh trong pháp luật kinh tế hiện hành ở Việt Nam, NXB CTQG , tr. 11-14. 3 Xem thêm Bùi Ngọc Cường (2004), sách đã dẫn, tr 19-21. 4 Theo Luật Đầu tư 2005 thì giấy chứng nhân đầu tư sẽ có giá trị như giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. 5 Xem Phạm Duy Nghĩa (2004), Chuyên khảo Luật Kinh tế, NXB ĐHQG Hà Nội, tr. 249. 6 Phạm Duy Nghĩa (2004), sách đã dẫn, tr. 250. 7 Khoản 1, Điều 4, Luật DN 2005. 8 Xem Điều 10 đến 13 của Nghị định 88/2006. 9 Điều 166 Luật DN 2005. 10 Theo Luật Đầu tư nước ngoài 1996 (và các sửa đổi, bổ sung), các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài bao gồm: doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Về việc chuyển đổi, đăng ký lại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, xem Nghị định số 36 101/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ quy định về việc đăng ký lại, chuyển đổi và đăng ký đổi Giấy chứng nhận đầu tư của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư 2005; điều 170 Luật DN 2005. 11 Xem khái niệm “doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài” tại Khoản 6, điều 3, Luật Đầu tư 2005. 12 Khoản 2, Điều 9. 13 Khoản 2, Điều 9 Nghị định 139/2007/NĐ-CP ngày 5/9/2007. 14 Điều 10 Nghị định 139/2007/NĐ-CP ngày 5/9/2007. 15 Điều 25, Luật Đầu tư 2005. 16 Điều 4 Luật DN 2005. 17 Xem thêm Điều 5, Nghị định 139/2007. 18 Xem thêm Điều 6, Nghị định 139/2007. 19 Khoản 4, Điều 29 Luật Đầu tư 2005. 20 Điều 28, Luật DN 2005.
File đính kèm:
- bai_giang_chu_the_kinh_doanh_chuong_1_nhung_van_de_chung_ve.pdf