Áp dụng phương pháp Bayes trong nghiên cứu nợ xấu tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
TÓM TẮT
Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định các yếu tố tác động đến nợ xấu của các ngân hàng
thương mại (NHTM) Việt Nam trong giai đoạn 2007 - 2018. Bài nghiên cứu áp dụng cách tiếp cận
theo phương pháp Bayes và thuật toán lấy mâũ Random-walk Metropolis-Hastings để đánh giá tác
động của các yếu tố vi mô và vĩ mô đến nợ xấu của các NHTM. Trong đó, biến phụ thuộc là nợ xấu
được đo lường bằng tỷ lệ tổng nợ xấu trên tổng dư nợ, các biến độc lập thuộc về đặc điểm ngân
hàng là nợ xấu năm trước, khả năng sinh lời, quy mô ngân hàng, dư nợ cho vay, vốn ngân hàng,
các biến vĩ mô là lạm phát, tăng trưởng kinh tế. Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ báo cáo tài
chính của 30 NHTM Việt Nam và Tổng cục Thống kê Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2018. Để tăng
độ tin cậy và tính hiệu quả của mô hình cũng như suy diễn Bayes là hợp lý, kiểm định sự hội tụ của
chuôĩ MCMC được thực hiện. Kết quả nghiên cứu cho thấy nợ xấu năm trước, quy mô ngân hàng,
dư nợ cho vay, vốn ngân hàng, lạm phát là các yếu tố tác động cùng chiều đến nợ xấu của NHTM.
Bên cạnh đó, khả năng sinh lời, tăng trưởng kinh tế là các yếu tố có tác động ngược lại. Trên cơ sở
kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất các hàm ý chính sách cho nhà hoạch định nhằm giúp các ngân
hàng giảm bớt nợ xấu, thúc đẩy các ngân hàng hoạt động lành mạnh, hiệu quả hơn.
Từ khoá: Bayes, ngân hàng thương mại, nợ xấu
Tóm tắt nội dung tài liệu: Áp dụng phương pháp Bayes trong nghiên cứu nợ xấu tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 5(1):1267-1277 Open Access Full Text Article Bài nghiên cứu 1Trường Đại học Công nghệ Tp.HCM 2Văn phòng Ủy ban Nhân dân Tp.HCM Liên hệ PhạmHải Nam, Trường Đại học Công nghệ Tp.HCM Email: ph.nam@hutech.edu.vn Lịch sử Ngày nhận: 7/10/2020 Ngày chấp nhận: 20/01/2021 Ngày đăng: 13/02/2021 DOI : 10.32508/stdjelm.v5i1.704 Bản quyền © ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố mở được phát hành theo các điều khoản của the Creative Commons Attribution 4.0 International license. Áp dụng phương pháp Bayes trong nghiên cứu nợ xấu tại các ngân hàng thươngmại Việt Nam PhạmHải Nam1,*, Nguyễn Ngọc Tân2 Use your smartphone to scan this QR code and download this article TÓM TẮT Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định các yếu tố tác động đến nợ xấu của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam trong giai đoạn 2007 - 2018. Bài nghiên cứu áp dụng cách tiếp cận theo phương pháp Bayes và thuật toán lấy mâũ Random-walk Metropolis-Hastings để đánh giá tác động của các yếu tố vi mô và vĩ mô đến nợ xấu của các NHTM. Trong đó, biến phụ thuộc là nợ xấu được đo lường bằng tỷ lệ tổng nợ xấu trên tổng dư nợ, các biến độc lập thuộc về đặc điểm ngân hàng là nợ xấu năm trước, khả năng sinh lời, quy mô ngân hàng, dư nợ cho vay, vốn ngân hàng, các biến vĩ mô là lạm phát, tăng trưởng kinh tế. Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ báo cáo tài chính của 30 NHTM Việt Nam và Tổng cục Thống kê Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2018. Để tăng độ tin cậy và tính hiệu quả của mô hình cũng như suy diễn Bayes là hợp lý, kiểm định sự hội tụ của chuôĩ MCMC được thực hiện. Kết quả nghiên cứu cho thấy nợ xấu năm trước, quy mô ngân hàng, dư nợ cho vay, vốn ngân hàng, lạm phát là các yếu tố tác động cùng chiều đến nợ xấu của NHTM. Bên cạnh đó, khả năng sinh lời, tăng trưởng kinh tế là các yếu tố có tác động ngược lại. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất các hàm ý chính sách cho nhà hoạch định nhằm giúp các ngân hàng giảm bớt nợ xấu, thúc đẩy các ngân hàng hoạt động lành mạnh, hiệu quả hơn. Từ khoá: Bayes, ngân hàng thương mại, nợ xấu GIỚI THIỆU Hệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển nền kinh tế của các quốc gia. Sự phát triển của ngành ngân hàng luôn đi cùng với sự thịnh vượng của một quốc gia hoặc một khu vực kinh tế cụ thể. Tuy nhiên, bản chất của hoạt động ngân hàng là rủi ro cao với tỷ lệ đòn bẩy tài chính lớn1. Để đo lường rủi ro trong hoạt động ngân hàng, tỷ lệ nợ xấu là chỉ tiêu chủ yếu được sử dụng2. Nợ xấu của các NHTM là vấn đề quan trọng và được các NHTM cũng như cơ quan quản lý nhà nước đặc biệt quan tâm3, đặc biệt là sau khủng hoảng tài chính 2008. Nghiên cứu về ảnh hưởng của nợ xấu đến hoạt động của hệ thống ngân hàng đã được nhiều tác giả thực hiện và phân tích kỹ lươñg. Một số nghiên cứu đánh giá tác động của nợ xấu đến hiệu quả hoạt động của NHTM4–6 hoặc tác động của nợ xấu đến rủi ro thanh khoản7–9. Các nghiên cứu này cho chúng ta thấy một cách rõ ràng tác động của nợ xấu đến hoạt động của ngân hàng, cụ thể là hiệu quả tài chính và thanh khoản của NHTM cũng như sự ổn định trong hoạt động ngân hàng. Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng nợ xấu như là tiêu chí đánh giá rủi ro trong hoạt động ngân hàng, trong đó nợ xấu được đo lường bầng cách lấy nợ xấu chia cho tổng dư nợ2,3,10–12. Tuy nhiên, không giống như các nghiên cứu trước đây sử dựng phương pháp ước lượng truyền thống như FEM, REM, GMM, vốn gây ra nhiều chỉ trích và kết quả gây tranh cãi13,14, tác giả sử dụng cách tiếp cận mới là cách tiếp cận theo phương pháp Bayes. Các kết luận trong thống kê Bayes có độ chính xác cao hơn và ngày càng được sử dụngphổbiến, đặc biệt trong lĩnh vựcYhọc, khoa học xã hội và nhiều ngành khoa học khác15,16. Đây chính là điểmmới của nghiên cứu này so với các nghiên cứu trước đây và là đóng góp quan trọng về mặt phương pháp trong nghiên cứu về nợ xấu của các NHTMViệt Nam. Kết quả của nghiên cứu là cơ sở quan trọng cho ban lãnh đạo các ngân hàng thương mại cũng như cơ quan quản lý nhà nước trong việc xây dựng cũng như ban hành các chính sách và chiến lược, giúp cho các NHTM hoạt động một cách oan toàn và bền vững hơn, trở thành kênh dâñ vốn quan trọng cho nền kinh tế. TỔNGQUAN LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN Tổng quan lý thuyết Theo Berger và DeYoung nợ xấu là nợ quá hạn thanh toán ít nhất 90 ngày hoặc đang trong tình trạng nghi ngờ2. Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng cho rằng, một khoản nợ được xem là không có khả năng hoàn Trích dẫn bài báo này: Nam P H, Tân N N. Áp dụng phương pháp Bayes trong nghiên cứu nợ xấu tại các ngân hàng thươngmại Việt Nam. Sci. Tech. Dev. J. - Eco. LawManag.; 5(1):1267-1277. 1267 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 5(1):1267-1277 trả khi xảy ra một trong hai hoặc cả hai điều kiện sau: ngân hàng thấy người vay không có khả năng trả nợ đầy đủ khi ngân hàng chưa thực hiện hành động gì để nỗ lực thu hồi; người vay đã quá hạn trả nợ quá 90 ngày17. Trong khi đó, theo Quyết định 22/VBHN- NHNN ngày 04 tháng 06 năm 2014 của Thống đốc NHNN Việt Nam, nợ xấu là các khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5, tức những khoản nợ quá hạn từ 90 ngày trở lên 18. Để hiểu rõ hơn ảnh hưởng của nợ xấu đến hoạt động của NHTM, điều quan trọng là cần phải hiểu rõ các yếu tố có thể tác động đến nợ xấu, từ đó có cái nhìn rõ hơn về bức tranh nợ xấu của NHTM và có các biện pháp nhằm kiểm soạt một cách tốt nhất nợ xấu của từng ngân hàng cũng như toàn bộ hệ thống ngân hàng. Các nghiên cứu trước đây về nợ xấu của các ngân hàng thươngmại được nhiều tác giả trong và ngoài nước quan tâm, đặc biệt kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính thế giới. Một số nghiên cứu tập trung vào các yếu tố vĩ mô10,19, các yếu tố vi mô20,21 hoặc cả vimô và vĩmô3,11,12,22,23. Các nghiên cứunày cho chúng ta thấy tình hình nợ xấu của các NHTM tại nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới, đồng thời cung cấp hiểu biết về các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến nợ xấu của các NHTM, giúp ban lãnh đạo ngân hàng và cơ quan quản lý nhà nước hoạch định các chính sách và giải pháp khắc phục tình trạng nợ xấu, từ đó hỗ trợ việc tiếp cận vốn tín dụng của các thành phần trong nền kinh tế. Tại Việt Nam, mặc dù có nhiều nghiên cứu về nợ xấu tại các NHTM cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến nợ xấu như nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Vinh, Phạm Dương Phương Thảo và Nguyễn Linh Đan12,23. Tuy nhiên, các nghiên cứu này đều sử dụng cách tiếp cận theo phương pháp xác suất thống kê truyền thống, vốn gây ra nhiều chỉ trích và kết quả gây tranh cãi13–15,24,25. Vì vậy, cần có phương pháp mới trong nghiên cứu về nợ xấu tại các NHTM, có kết quả đáng tin cậy hơn và hữu ích hơn trong việc đưa ra các giải pháp và kiến nghị, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các NHTM. Phương pháp Bayes ưu việt hơn so với phương pháp tần suất, cụ thể như sau: Thứ nhất, phân tích Bayes là một công cụ phân tích mạnh mẽ để lập mô hình thống kê, giải thích kết quả, và dự đoándữ liệu. Phương phápBayes có thể được sử dụng khi không có phương pháp tần suất chuẩn nào có sẵn hoặc các phương pháp tần suất hiện có không thành công. Thứ hai, tính phổ quát của phương pháp Bayes có thể được xem là lợi thế về mặt phương pháp so với phương pháp tiếp cận tần suất truyền thống. Suy luận Bayes dựa trên một quy tắc xác suất duy nhất, quy tắc Bayes, được áp dụng cho tất cả các mô hình tham số. Điều này làm cho cách tiếp cận Bayes trở nên phổ biến và tạo điều kiện thuận lợi đáng kể cho việc áp dụng và giải thích kết quả. Trong khi đó, cách tiếp cận tần suất dựa trên nhiều phương pháp ước lượng được thiết kế cho các vấn đề và mô hình thống kê cụ thể. Thông thường, các phương pháp suy luận được thiết kế cho một lớp vấn đề không thể được áp dụng cho một lớp mô hình khác. Thứba, trong phân tích Bayes, chúng ta có thể sử dụng thông tin trước đó, cả niềm tin hoặc bằng chứng thực nghiệm, trong mô hình dữ liệu để thu được kết quả cân bằng hơn cho một vấn đề cụ thể. Chẳng hạn như kết hợp thông tin tiên nghiệm có thể giảm thiểu ảnh hưởng của cỡ mẫu nhỏ. Thứ tư, bằng cách sử dụng kiến thức về toàn bộ phân phối hậu nghiệm của các tham số mô hình, suy luận Bayes toàn diện và linh hoạt hơn rất nhiều so với suy luận truyền thống. Thứ năm, suy luận Bayes là chính xác, theo nghĩa là ước tính và dự đoán dựa trên phân phối hậu nghiệm. Các phương pháp Bayes có thể được sử dụng để mô phỏng nhiều mô hình, bao gồm cả những hàm phức tạp với độ chính xác tùy ý. Thứ sáu, suy luận Bayes cung cấp một cách giải thích đơn giản và trực quan hơn về các kết quả dưới dạng xác suất. Ví dụ, các khoảng tin cậy được hiểu là các khoảng mà các tham số thuộc về một xác suất nhất định, không giống như cách diễn giải lấy mẫu lặp lại ít đơn giản hơn của các khoảng tin cậy. Cuối cùng, như đã đề cập ngắn gọn trước đó, độ chính xác ước tính trong phân tích Bayes không bị giới hạn bởi kích thước mẫu — các phương pháp mô phỏng Bayes có thể cung cấp một mức độ chính xác tùy ý và không bị ảnh hưởng bởi các hạn chế như tự tương quan, nội sinh, phương sai sai số thay đổi mà phương pháp tần suất gặp phải. Các nghiên cứu thực nghiệm có liên quan Nghiên cứu của Beaton và cộng sự (2016) được thực hiện nhằm đánh giá các yếu tố tác động đến nợ xấu của các quốc gia khu vực Liên minh tiền tệ Đông Caribbean (ECCU) trong giai đoạn từ năm 1996 đến năm 2015. Bằng phương pháp GMM, kết quả nghiên cứu chỉ ra các ngân hàng có khả năng sinh lời tốt hơn và các ngân hàng ít liên quan đến các lĩnh vực xây dựng và du lịch có xu hướng ít nợ xấu hơn. Bên cạnh đó, các ngân hàng nước ngoài có tỷ lệ nợ xấu thấp hơn các ngân hàng trong nước nhò khả năng kiểm soát nợ xấu tốt hơn và lợi thế nhờ quy mô. Ngoài ra, tỷ lệ nợ xấu và tốc độ tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ ngược chiều22. Dimitrios và cộng sự thực hiện nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới nợ xấu của các NHTM khu vực Châu 1268 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 5(1):1267-1277 Âu trong giai đoạn 1990 – 2015. Sử dụng phương pháp GMM, nghiên cứu cho thấy các yếu tố nội tại ngân hàng là tỷ lệ cho vay trên tổng tiền gửi, ROA, ROE tác động đến tỷ lệ nợ xấu. Các yếu tố vĩ mô ảnh hưởng đến nợ xấu là tăng trưởng GDP, tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ thuế thu nhập cá nhân trên GDP, chu kỳ kinh tế26. Jakubík & Reininger thu thập dữ liệu của toàn bộ các ngân hàng khu vực CESEE (bao gồm các nước Bul- garia, Croatia, Cộng hòa Czech , Hungary, Ba Lan, Romania, Nga, Slovakia và Ukraine) từ năm 1993 đến năm 2012 để đánh giá xem các yếu tố ảnh hưởng đến nợ xấu và chiều hướng ảnh hưởng của các ngân hàng này. Dựa trên phương pháp GMM, các tác giả tìm thấy bằng chứng cho thấy tốc độ tăng trưởng kinh tế là yếu tố chính và có mối quan hệ ngược chiều đến tỷ lệ nợ xấu của các NHTM. Đồng thời, các yếu tố khác có ảnh hưởng đến nợ xấu là chỉ số giá chứng khoán, tăng trưởng tín dụng trong quá khứ, tỷ giá hối đoái, tỷ lệ nợ ngoại tệ trên tổng dư nọ quốc gia 19. Backer và cộng sự nghiên cứu các yếu tố vĩ mô tác động đến nợ xấu của các NHTM tại Bỉ từ năm từ quý 1 năm 1995 đến quý 2 năm 2015. Các tác giả sử dụng mô hình Tobit và chứngminh được sự phân bổ tài sản và nợ của các hộ gia đình cho thấy một số rủi ro do một tỷ lệ đáng kể các hộ gia đình chi một phần lớn thu nhập của họ để trả nợ và một phần dư nợ không được đảm bảo trả nợ bằng tài sản tài chính. Trên cơ sở nền tảng này, bài báo nhằm mục đích giải thích sự thay đổi trong rủi ro tín dụng (thế chấp) theo cả các yếu tố mang tính cơ cấu và kinh tế vĩ mô như chu kỳ kinh doanh và các khoản vay hoặc đặc điểm của ngân hàng. Các phát hiện cho thấy mối liên hệ rõ ràng giữa các công cụ chính sách an toàn vĩ mô - chẳng hạn như tỷ số khả năng trả nợ (DSTI) - và xác suất vỡ nợ (PD). Kết quả kinh tế lượng xác nhận rằng cả biến cơ cấu và kinh tế vĩ mô giải thích sự thay đổi của tỷ lệ vỡ nợ đối với các khoản vay thế chấp. Cuối cùng, có tác động phản hồi của nợ xấu đối với điều kiện kinh tế vĩ mô ở các quốc gia có tỷ lệ nợ xấu cao. Mặc dù quy trình xóa nợ và giảm chi phí lãi suất của khu vực tư nhân phi tài chính có thể giúp giảm tỷ lệ nợ xấu, nhưng các cải cách cơ cấu bổ sung ở những quốc gia đó có thể là cần thiết 10. Ćurak và cộng sự thực hiện nghiên cứu nhằm tìm hiểu các yếu tố tác động đến nợ xấu của 69 ngân hàng thương mại tại 10 quốc gia khu vực Đông Nam châu Âu từ năm 2003 đến năm 2010. Các tác giả sử dụng phương pháp ước lượng GMM và phát hiện được nợ xấu chịu sự tác động của các yếu tố đặc điểm ngân hàng và các yếu tố vĩ mô. Cụ thể, các yếu tố bao gồm quymôngânhàng, hiệu quả tài chính, khả năng thanh toán, tăng trưởng kinh tế, lạm phát, lãi suất3. Kjosevski và cộng sự nghiên cứu tác động của các yếu tố vi mô và vĩ mô đến nợ xấu của các NHTM tại Cộng hòa Macedonia. Với mâũ dữ liệu được thu thập trong giai đoạn 2003 – 2014 và phương pháp ARDL, kết quả cho thấy khả năng sinh lời, tăng trưởng tín dụng, tăng trưởng GDP có tác động ngược chiều đến nợ xấu. Trong khi đó, thanh khoản ngân hàng, tỷ lệ thất nghiệp tác động cùng chiều đến nợ xấu27. Makri và Tsagkanos nghiên cứu các yếu tố tác động đến nợ xấu của các NHTM khu vực Châu Âu từ năm 2000 đến năm 2008. Nghiên cứu sử dụng phương pháp GMM và chứng minh được nợ xấu chịu sự tác động bởi các yếu tố bao gồmhệ số an toàn vốn (CAR), tỷ lệ nợ xấu năm trước, ROE, nợ công, tỷ lệ thất nghiệp, tăng trưởng GDP11. Nghiên cứu các NHTM tại Việt Nam, bằng phương pháp FGLS, Nguyễn Thị Như Quỳnh và cộng sự tìm thấy bằng chứng cho thấy, tại mức ý nghĩa thống kê 1%, tốc độ tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng tín dụng của ngân hàng và tỷ lệ thất nghiệp tác động ngược chiều với tỷ lệ nợ xấu. Đồng thời, tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ nợ xấu năm trước tương quan thuận chiều với tỷ lệ nợ xấu hiện tại. ngoài ra, các tác giả chưa tìm thấy bằng chứng cho thấy mối quan hệ giữa yếu tố quy mô và khả năng sinh lời của ngân hàng với tỷ lệ nợ xấu28. NguyễnThị Hồng Vinh sử dụng phương pháp GMM sai phân và GMM hệ thống nhằm nghiên cứu các yếu tố tác động đến nợ xấu của các NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2007 – 2014. Tác giả tìm thấy bằng chứng cho thấy khả năng sinh lời, nợ xấu của quá khứ, quymô ngân hàng, tăng trưởng tín dụng, tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, khi sử dụng phương pháp GMM hệ thống, tác giả chứng minh được vốn chủ sở hữu và và lạm phát tác động có ý nghĩa đến nợ xấu của các NHTM23. Một nghiên cứu khác ở các NHTM Việt Nam của Phạm Dương Phương Thảo và Nguyễn Linh Đan về nợ xấu. Sử dụng bộ dữ liệu thứ cấp của 27 NHTM Việt Nam từ năm 2005 đến năm 2016 và phương pháp hồi quyGMM, các tác giả cho thấy cómối liên hệ giữa các yếu tố đặc điểmngân hàng và kinh tế vĩmô đến nợ xấu. Cụ thể, tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng ở năm trước và tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng hiện tại có mối quan hệ cùng chiều. Đồng thời, chi phí trích lập dự phòng rủi ro tín dụng càng cao, chi phí hoạt động càng cao, lợi nhuận của ngân hàng có mối quan hệ nghịch chiều đến tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng. Kết quả của nghiên cứu này cũng cho thấy các biến số kinh t ... ầu tư trở nên sôi động hơn và khách hàng vay vốn có khả năng trả nợ dễ dàng hơn. Kết quả nghiên cứu tương đồng với nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Vinh, Phạm Dương Phương Thảo và Nguyễn Linh Đan, Nguyễn Thị Như Quỳnh và cộng sự, Makri và Tsagkanos, Kjosevski và cộng sự, Ćurak và cộng sự, Jakubík và Reininger3,11,12,19,23,27,28. KẾT LUÂN VÀ HÀMÝ CHÍNH SÁCH Kết luận Bài nghiên cứu được thực hiện nhằm tìm hiểu các yếu tố tác độngđếnnợ xấu của cácNHTMViệtNam trong giai đoạn 2007 – 2018. Bằng phương pháp Bayes, kết quả nghiên cứu chỉ ra các yếu tố có tác động cùng chiều đến nợ xấu là nợ xấu năm trước, quy mô ngân hàng, dư nợ cho vay, vốn ngân hàng, lạm phát. Ngược lại, các yếu tố khả năng sinh lời, tăng trưởng kinh tế có tương quan nghịch với nợ xấu của ngân hàng. Hàm ý chính sách Nghiên cứu này cung cấp thông tin hữu ích cho lãnh đạo ngân hàng cũng như cơ quan quản lý nhà nước trong việc đề ra chính sách và chiến lược nhằm giúp cho các NHTM có thể giảm nợ xấu, hoạt động một cách an toàn và lành mạnh hơn, cụ thể như sau: Thứnhất, nợ xấu năm trước làm tăng nợ xấu nămhiện tại. Vì vậy, các ngân hàng cần tăng cường công tác thu hồi nợ quá hạn, đặc biệt nợ nhóm 3, 4, 5. Đồng thời, xem xét gia hạn nợ, giãn nợ cho các trường hợp bất khả kháng như thiên tai, dịch bệnh, tham gia tích cực vào thị trườngmua bánnợnhằmgiảmbớt nợ xấu trên bảng cân đối kế toán, tăng khả năng tiếp cận tín dụng cho các đối tượng trong nền kinh tế. Thứ hai, quy mô ngân hàng tăng làm tăng nợ xấu, chứng tỏ các ngân hàng mở rộng quy mô nhưng không chú trọng phát triển chất lượng đội ngũ nhân sự tăng tương ứng. Tăng quy mô ngân hàng là điều tất yếu, không thể đảo ngược. Trong chiến lược phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 của Thủ tướng Chính phủ đặt mục tiêu đến cuối năm 2020 có từ 1 đến 2 ngân hàng nằm trong nhóm 100 ngân hàng khu vực Châu Á có tổng tài sản lớn nhất, đến năm 2025 có 2 đến 3 ngân hàng42. Do đó, khi các ngân hàng mở rộng quy mô thì đặc biệt cần coi trọng đến việc phát triển năng lực lãnh đạo, phát triển nguồn nhân lực có số lượng và năng lực tương xứng. Thứ ba, việc cho vay quá mức có thể dâñ đến nợ xấu gia tăng. Vì vậy, các ngân hàng cần thận trọng hơn khi thẩm định và phê duyệt cho vay, hạn chế cho vay đối với các lĩnh vực rủi ro cao như chứng khoán, bất động sản, tập trung cho vay đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh, hạn chế việc sử dụng vốn huy động ngắn hạn cho vay trung dài hạn. Ngoài ra, cần giảm dần tỷ trọng cho vay trung dài hạn trong tống cho vay, đảm bảo an toàn hơn cho ngân hàng khi nền kinh tế có biến động lớn. Thứ tư,mặc dù vốn ngân hàng tăng làm tăng nợ xấu. Các ngân hàng vâñ cần phải tăng vốn nhằm tăng sức mạnh nội tại, đủ khả năng chống chọi với các cú sốc của nền kinh tế. Tuy nhiên, việc tăng vốn không nên ồ ạt, có sự tính toán kỹ lươñg. Quan trọng hơn, các ngân hàng cần sử dụng vốn có hiệu quả nhằm đảm bảo hiệu quả của đồng vốn tăng thêm. Để làm được điều đó, các ngân hàng cần nâng cao năng lực quản trị vốn trong ngân hàng, nghiên cứu và đưa ra cách thức đánh giá về vốn chủ sở hữu và tài sản rủi ro, qua đó hoạnh định vốn chính xác và khoa học, đồng thời đánh giá chính xác về hiệu quả sử dụng vốn. Thứnăm, đối vớiNHNN, cần thúc đẩy thị trườngmua bán nợ phát triển một cách thực chất, có hiệu quả. Điều đó không những giúp các ngân hàng làm sạch bảng cân đối kế toán mà còn tạo điều kiện lưu thông vốn trong nền kinh tế tốt hơn, hỗ trợ việc tiếp cận vốn của người dân và doanh nghiệp. Ngoài ra, cần giám sát chặt chẽ các ngân hàng có tốc độ tăng trưởng tín dụng cao hoặc có dấu hiệu cho vay quá mức, đôn đốc các ngân hàng trong việc đáp ứng tiêu chuẩn an toàn vốn Basel II. DANHMỤC TỪ VIẾT TẮT FEM - Fixed Effects Model (Mô hình tác động cố định) GMM - Generalized Method of Moments (Mô hình hồi quy moment tổng Quát) GDP - Gross Domestic Product (Tổng sản phẩm quốc nội) MCMC - Markov Chain Monte Carlo 1274 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 5(1):1267-1277 NHNN - Ngân hàng Nhà nước NHTM - Ngân hàng thương mại REM - Random Effects Model (Mô hình tác động ngâũ nhiên) ROE - Return on Equity (Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu) TUYÊN BỐ XUNGĐỘT Nhóm tác giả xin cam đoan rằng không có bất kì xung đột lợi ích nào trong công bố bài báo. ĐÓNGGÓP CỦA TÁC GIẢ Tác giả PhạmHải Nam: Tổng hợp lý thuyết, phân tích số liệu, đề xuất giải pháp. Tác giả Nguyễn Ngọc Tân: Viết phần tóm tắt, giới thiệu, thu thập số liệu, thảo luận các bảng. TÀI LIỆU THAMKHẢO 1. Emilios A. Bank leverage ratios and financial stability: Amicro- and macroprudential perspective, Working Paper, No. 849, Levy Economics Institute of Bard College, Annandale-on- Hudson, NY. 2015;. 2. Berger A, DeYoung R. Problem Loans and Cost Efficiency in Commercial Banks. Journal of Banking and Finance. 1997;21:849–870. Available from: https://doi.org/10.1016/ S0378-4266(97)00003-4. 3. ĆurakM, Pepur S, Poposki K. Determinants of non-performing loans - evidence from Southeastern European banking sys- tems. Banks and Bank Systems. 2013;8(1):45–53. 4. Ekinci R, Poyraz G. The Effect of Credit Risk on Financial Per- formance of Deposit Banks In Turkey. Proceedings of World Conference on Technology, Innovation and Entrepreneur- ship: Elsevier. 2018;Available from: https://doi.org/10.1016/j. procs.2019.09.139. 5. Nguyen THV. The impact of non-performing loans on bank profitability and lending behavior: Evidence from Vietnam. Journal of Economic Development. 2017;24(3):27–44. Avail- able from: https://doi.org/10.24311/jed/2017.24.3.06. 6. Zhang J, Jiang C, Qu B, Wang P. Market concentration, risk-taking, and bank performance: evidence from emerg- ing economies. International Review of Financial Anaiysis. 2013;30:149–157. Available from: https://doi.org/10.1016/j. irfa.2013.07.016. 7. Hasanović E, Latić T. The determinants of excess liquidity in the banking sector of Bosnia and Herzegovina (No. 11-2017). Graduate Institute of International and Development Studies Working Paper. 2017;. 8. Negash DW, Veni P. Determinants of liquidity risk in se- lected commercial banks in Ethiopia. International Journal of Advanced Research in Management and Social Sciences. 2019;8(4):108–124. 9. Hồng VT. Các yếu tố ảnh hưởng đến thanh khoản của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Tạp chí phát triển & Hội nhập. 2015;23(33):32–49;. 10. Backer BD, Caju PD, EmirisM, VanNieuwenhuyzeC.Macroeco- nomic determinants of non-performing loans, Economic Re- view, National Bank of Belgium. 2015;3:47–65. 11. Makri V, Tsagkanos A, Bellas A. Determinants of Non- Performing Loans: The Case of Eurozone. Panoeconomi- cus. 2014;2:193–206. Available from: https://doi.org/10.2298/ PAN1402193M. 12. Thảo PDP, Đan NL. Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam. Tạp chí Chính Sách & Thị trường Tài chính- Tiền tệ. 2018;194:1–10;. 13. Anh LH, Kreinovich V, Thach NN. Econometrics for Financial Applications. Cham: Springer. 2018;Available from: https:// doi.org/10.1007/978-3-319-73150-6. 14. Briggs WM, Nguyen TH. Clarifying ASA’s view on P-values in hypothesis testing. Asian Journal of Economics and Banking. 2019;3(2):1–16. 15. TuấnNV. Giới thiệu phương pháp Bayes. Tạp chí Thời sự Y học. 2011;63:26–34. 16. Schoot R, Depaoli S. Bayesian analysis: Where to start and what to report. The European Health Psychologist. 2014;16(2):75–84. 17. Basel Committee on Banking Supervision. Sound credit risk assessment andvaluation for loans. Bank for International Set- tlements. Basel, Switzerland. 2006;. 18. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Quyết định 22/VBHN-NHNN ngày 04 tháng 06 năm 2014 của Thống đốc NHNN Việt Nam ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng. Hà Nội. 2014;. 19. Jakubík P, Reininger T. Determinants of Nonperforming Loans in Central, Eastern and Southeastern Europe, Focus on Euro- pean Economic Integration. 2013;(3):48–66. 20. Khan MA, Siddique A, Sarwar Z. Determinants of non- performing loans in the banking sector in developing state. Asian Journal of Accounting Research. 2020;5(1):135–145. Available from: https://doi.org/10.1108/AJAR-10-2019-0080. 21. Nguyen TMH. Non-Performing Loans: Affecting Factor for the Sustainability of Vietnam Commercial Banks. Journal of Eco- nomics andDevelopment. 2015;17(1):93–106. Available from: https://doi.org/10.33301/2015.17.01.06. 22. Beaton K, Myrvoda A, Thompson S. Non-Performing Loans in the ECCU: Determinants and Macroeconomic Impact. IMF Working Papers. 2016;Available from: https://doi.org/10.5089/ 9781475555714.001. 23. Vinh NTH. Yếu tố tác động đến nợ xấu các ngân hàng thương mại Việt Nam. Tạp chí Phát triển kinh tế. 2015;26(11):80–98;. 24. Kreinovich V, Thach NN, Trung ND, Thanh DV. Beyond Tradi- tional Probabilistic Methods in Economics. Cham: Springer. 2019;Available from: https://doi.org/10.1007/978-3-030- 04200-4. 25. Nguyen NT. How to Explain when the ES is Lower than One? A Bayesian nonlinear mixed-effects approach. Journal of Risk and Financial Management. 2020;13(2):1–17. Available from: https://doi.org/10.3390/jrfm13020021. 26. Dimitrios A, Helen L, Mike T. Determinants of non-performing loans: Evidence from Euro-area countries. Finance Research Letters. 2016;18:116–119. Available from: https://doi.org/10. 1016/j.frl.2016.04.008. 27. Kjosevski J, Petkovski M, Naumovska E. Bankspecific and macroeconomic determinants of non-performing loans in the Republic of Macedonia: Comparative analysis of enterprise and household NPLs. Economic Research-Ekonomska Istraži- vanja. 2019;32(1):1185–1203. Available from: https://doi.org/ 10.1080/1331677X.2019.1627894. 28. Quỳnh NTN, Đình Luân L, Mai LTH. Các nhân tố tác động đến nợ xấu tại các ngân hàng thương mại Việt Nam. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh. 2018;63(6):133–143. 29. Klein N. Non-performing Loans in CESEE: Determinants and Impact on Macroeconomic Performance. IMF Working Pa- per. 2013;p. 01–27. Available from: https://doi.org/10.5089/ 9781484318522.001. 30. Salas V, Saurina J. Credit Risk in Two Institutional Regimes: Spanish Commercial and Savings Banks. Journal of Financial Services Research. 2002;22:203–224. Available from: https:// doi.org/10.1023/A:1019781109676. 31. Jimenez G, Saurina J. Credit cycles, credit risk, and prudential regulation. Banco de Espana. 2005;. 32. KeetonW,Morris C.WhyDoBanks’ Loan LossesDiffer? Federal Reserve Bank of Kansas City, Economic Review. 1987;p. 3–21. 33. Hoang TTH, Doan TH, Bui DT. Factors affecting bad debt in the Vietnam commercial banks. Journal of Economics and Busi- ness. 2020;3(2):650–660. Available from: https://doi.org/10. 31014/aior.1992.03.02.228. 1275 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 5(1):1267-1277 34. Tổng cục Thống kê. Báo cáo số liệu thống kê thường niên. [truy cập ngày 09/06/2020]. 2007 - 2018;Available from: https: //www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/. 35. Hung TN. Toward Improved Models for Decision Making in Economics. Asian Journal of Economics and Banking. 2019;3(1):1–19. 36. Bolstad M, Curran M. Introduction to Bayesian statistics. 3rd ed. New Jersey: JohnWiley & Sons. 2016;Available from: https: //doi.org/10.1002/9781118593165. 37. Gelman A, Carlin JB, Stern HS, Dunson DB, Vehtari A, Rubin DB. Bayesian Data Analysis. 3rd ed. Boca Raton, FL: Chap- man & Hall/CRC. 2014;Available from: https://doi.org/10.1201/ b16018. 38. MetropolisN, RosenbluthAW,RosenbluthMN, Teller AH, Teller E. Equation of state calculations by fast computing machines. Journal of Chemical Physics. 1953;21:1087–1092. Available from: https://doi.org/10.1063/1.1699114. 39. Hastings WK. Monte Carlo sampling methods using Markov chains and their applications. Biometrika. 1970;57:97–109. Available from: https://doi.org/10.1093/biomet/57.1.97. 40. Gelfand AE, Hills SE, Racine-Poon A, Smith AFM. Illustration of Bayesian inference in normal data models using Gibbs sampling. Journal of the American Statistical Association. 1990;85:972–985. Available from: https://doi.org/10.1080/ 01621459.1990.10474968. 41. Roberts GO, Rosenthal JS. Optimal scaling for various Metropolis-Hastings algorithms;. 42. Chínhphủ.Quyết định về việc phêduyệt Chiến lượcphát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Hà Nội. 2018;. 1276 Science & Technology Development Journal – Economics - Law and Management, 5(1):1267-1277 Open Access Full Text Article Research Article 1Ho Chi Minh City University of Technology 2Office of People’s Committee of Ho Chi Minh City Correspondence PhamHai Nam, Ho Chi Minh City University of Technology Email: ph.nam@hutech.edu.vn History Received: 7/10/2020 Accepted: 20/01/2021 Published: 13/02/2021 DOI : 10.32508/stdjelm.v5i1.704 Copyright © VNU-HCM Press. This is an open- access article distributed under the terms of the Creative Commons Attribution 4.0 International license. Applying Bayesianmethod to investigate determinants of non performing loans of banks in Vietnam PhamHai Nam1,*, Nguyen Ngoc Tan2 Use your smartphone to scan this QR code and download this article ABSTRACT This study was conducted to determine the factors affecting non-performing loans of commercial banks in Vietnam for the period 2007 - 2018. The study applies the Bayesian approach and the Random-walk Metropolis-Hastings algorithm to evaluate the impact of micro and macro factors on non-performing loans of commercial banks. The dependent variable is non-performing loans, which is measured by the ratio of non-performing loans divided by total outstanding loans; the independent variables in terms of bank characteristics are non-performing loans of the previous year, profitability, bank size, bak loans, and bank capital; the macro variables are inflation and GDP growth. Research datawas collected fromfinancial statements of 30 Vietnamese commercial banks and the General Statistics Office of Vietnam from 2007 to 2018. To increase the reliability and effi- ciency of the model as well as reasonable Bayes inference, a convergence test of the MCMC chain was performed. The result of this study shows that non-performing loans of the previous year, bank size, bank loan, bank capital, and inflation have positive impacts on bank non-performing loans. In addition, bank profitability andGDPgrowth rate are factors that have the opposite effects. Based on the research results, the author proposes policy implications for the decision-makers to help banks reduce non-performing loans and promote banks to operate effectively and more efficiently. Key words: Bayesian, commercial bank, non performing loans Cite this article : Nam P H, Tan N N. Applying Bayesian method to investigate determinants of non performing loans of banks in Vietnam. Sci. Tech. Dev. J. - Eco. Law Manag.; 5(1):1267-1277. 1277
File đính kèm:
- ap_dung_phuong_phap_bayes_trong_nghien_cuu_no_xau_tai_cac_ng.pdf