Ảnh hưởng của ước tính kế toán tài sản cố định hữu hình đến Báo cáo tài chính doanh nghiệp

TÓM TẮT

BCTC thể hiện thực trạng tài chính cũng như kết quả hoạt động kinh doanh

của doanh nghiệp. Việc ra quyết định quản lý phụ thuộc chủ yếu vào thông tin

BCTC được đưa ra vào thời điểm quyết định lập BCTC. Trong khi đó, thông tin tài

chính phụ thuộc nhiều vào các ước tính kế toán. TSCĐ hữu hình chiếm tỷ trọng

đáng kể trong tổng tài sản của doanh nghiệp. Có nhiều phương pháp áp dụng các

ước tính trong kế toánTSCĐ để ghi nhận và đo lường các TSCĐ hữu hình đó, dẫn

đến thực trạng tài chính cũng như kết quả hoạt động kinh doanh của doanh

nghiệp khác nhau. Áp dụng phương pháp phân tích thực nghiệm, thiết kế Bảng

cân đối kế toán và Báo cáo kết quả kinh doanh của một doanh nghiệp, kết quả

nghiên cứu đã khẳng định sự bất ổn của điều kiện tài chính và hiệu quả hoạt

động của một doanh nghiệp là kết quả của các ước tính kế toán TSCĐ hữu

hìnhkhác nhau.

pdf 5 trang phuongnguyen 8620
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng của ước tính kế toán tài sản cố định hữu hình đến Báo cáo tài chính doanh nghiệp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của ước tính kế toán tài sản cố định hữu hình đến Báo cáo tài chính doanh nghiệp

Ảnh hưởng của ước tính kế toán tài sản cố định hữu hình đến Báo cáo tài chính doanh nghiệp
 ECONOMICS-SOCIETY 
Số 46.2018 ● Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 3
ẢNH HƯỞNG CỦA ƯỚC TÍNH KẾ TOÁN TÀI SẢN CỐ ĐỊNH 
HỮU HÌNH ĐẾN BÁO CÁO TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 
THE EFFECTS OF ACCOUNTING ESTIMATES OF TANGIBLE FIXED ASSETS 
ON ENTERPRISE FINANCIAL STATEMENTS 
Giáp Đăng Kha1*
TÓM TẮT 
BCTC thể hiện thực trạng tài chính cũng như kết quả hoạt động kinh doanh 
của doanh nghiệp. Việc ra quyết định quản lý phụ thuộc chủ yếu vào thông tin 
BCTC được đưa ra vào thời điểm quyết định lập BCTC. Trong khi đó, thông tin tài 
chính phụ thuộc nhiều vào các ước tính kế toán. TSCĐ hữu hình chiếm tỷ trọng 
đáng kể trong tổng tài sản của doanh nghiệp. Có nhiều phương pháp áp dụng các 
ước tính trong kế toánTSCĐ để ghi nhận và đo lường các TSCĐ hữu hình đó, dẫn 
đến thực trạng tài chính cũng như kết quả hoạt động kinh doanh của doanh 
nghiệp khác nhau. Áp dụng phương pháp phân tích thực nghiệm, thiết kế Bảng 
cân đối kế toán và Báo cáo kết quả kinh doanh của một doanh nghiệp, kết quả 
nghiên cứu đã khẳng định sự bất ổn của điều kiện tài chính và hiệu quả hoạt 
động của một doanh nghiệp là kết quả của các ước tính kế toán TSCĐ hữu 
hìnhkhác nhau. 
Từ khóa: Ước tính kế toán; BCTC; TSCĐ hữu hình 
ABSTRACT 
Financial statements show the financial status as well as business results of 
the business. Management decision-making depends mainly on the financial 
information disclosed at the time of making the financial statement. Meanwhile, 
financial information is heavily dependent on accounting estimates. Tangible 
fixed assets account for a significant proportion of the total assets of the 
enterprise. There are many methods of applying estimates in fixed asset 
accounting to record and measure tangible fixed assets, resulting in different 
financial status and business performance. Applying the empirical analysis, 
designing the balance sheet and basing on the business performance report of 
an enterprise, the research shows that the uncertainty of the financial condition 
and the performance of a firm result from different accounting estimates for 
tangible fixed assets. 
Keywords: accounting estimates; financial statements; tangible fixed assets 
1Khoa Kế toán-Kiểm toán, Đại học Công nghiệp Hà Nội 
*E-mail: giapdkha@gmail.com 
Ngày nhận bài: 11/01/2018 
Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 27/03/2018 
Ngày chấp nhận đăng: 15/06/2018 
CHỮ VIẾT TẮT 
BCTC: Báo cáo tài chính 
TSCĐ: Tài sản cố định 
1. GIỚI THIỆU 
 Nhiều quyết định hoạt động kinh doanh phải dựa trên 
chất lượng thông tin, do đó, thông tin kế toán khách quan và 
đáng tin cậy là điều kiện tiên quyết để ra quyết định đúng 
đắn. BCTC mô tả tình hình tài chính và hiệu quả kinh doanh 
của một doanh nghiệp, là nguồn thông tin chủ yếu cho quá 
trình ra quyết định. Các khoản mục được trình bày trong 
BCTC phải được ghi nhận theo các chuẩn mực BCTC quốc tế 
(IFRS) hoặc quốc gia. Nguyên tắc kế toán đánh giá các tài sản 
theo giá gốc hoặc giá trị hợp lý. Tuy nhiên, tùy thuộc vào 
phương pháp đánh giá, một tài sản ít nhiều là một đối tượng 
của các ước tính. Ngay cả Ban Chuẩn mực kế toán quốc tế 
(IASB) là tổ chức soạn thảo các chuẩn mực BCTC quốc tế, 
thừa nhận rằng "Với một phạm vi rộng, BCTC là dựa trên các 
ước tính, xét đoán và mô hình hơn là mô tả chính xác" (IFRS 
Foundation, 2015). Thực hiện các ước tính hàm ý một mức 
độ chủ quan nhất định. Hai ước tính khác nhau cho một tài 
sản có thể dẫn đến thông tin kế toán khác nhau. Do đó, thực 
trạng tài chính và hiệu quả của một doanh nghiệp sẽ thay 
đổi, có thể ảnh hưởng đến quyết định kinh doanh của người 
sử dụng BCTC. Thực tế là nhiều doanh nghiệp kiểm toán đã 
đưa ra các ước tính kế toán trái ngược với các ước tính của 
khách hàng (KPMG, 2015) và xác nhận rằng ước tính kế toán 
là một vấn đề quan trọng hàng đầu trong nghề kế 
toán. Ngoài ra, Ủy ban chứng khoán (SEC) các nước cũng 
nhấn mạnh tầm quan trọng của công bố thông tin về các 
ước tính kế toán quan trọng (KPMG, 2015). 
TSCĐ hữu hình thường chiếm tỷ trọng lớn trong nhiều 
doanh nghiệp. Do đó, có nhiều cách áp dụng các ước tính 
kế toán để ghi nhận và đo lường chúng. Để xem xét các vấn 
đề nêu trên, mục tiêu chính của nghiên cứu này nhằm làm 
rõ khuôn khổ các ước tính kế toán theo IFRS, tìm ra phạm vi 
cốt yếu cho các quyết định quản lý về TSCĐ hữu hình, thiết 
kế và áp dụng mô hình kiểm định thực nghiệm ảnh hưởng 
của các ước tính kế toán TSCĐ hữu hình đối với BCTC. Từ 
đó, chỉ ra những lĩnh vực nhạy cảm nhất của ước tính kế 
toán về TSCĐ hữu hình, đồng thời nhấn mạnh tầm quan 
trọng của công bố thông tin về ước tính kế toán cho phân 
tích BCTC của doanh nghiệp. 
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT 
IFRS là một khuôn khổ ước tính kế toán 
Lập các ước tính kế toán là một quá trình phức tạp, bao 
gồm việc thu thập tất cả các thông tin cần thiết về chủ đề, 
hiểu biết các ước tính kế toán khác nhau theo các chuẩn 
mực kế toán và luật pháp quốc gia, thừa nhận các kết quả 
đó và xác định yêu cầu đánh giá lại các ước tính đó trong 
tương lai. Ước tính kế toán được đánh giá theo các quan 
điểm khác nhau. Trước tiên, người xây dựng chuẩn mực xét 
về ước tính kế toán khi phát triển các chuẩn mực kế toán họ 
đã “tạo ra các chuẩn mực cho phép đánh giá trong một 
khuôn khổ dựa trên các nguyên tắc” (ICAS, 2012). Tiếp theo 
 XÃ HỘI 
 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ● Số 46.2018 4
KINH TẾ
là đánh giá kế toán mà ban quản trị lập các ước tính kế toán 
trong khi các kế toán ghi lại các sự kiện kinh doanh có các 
ước tính trên cơ sở bằng chứng kế toán. Kiểm toán viên 
cũng có những quan điểm riêng về ước tính kế toán, họ 
thường đánh giá các ước tính kế toán của khách hàng khi 
thực hiện kiểm toán BCTC và đưa ra ý kiến kiểm toán. Cuối 
cùng, nhà quản lý và người sử dụng BCTC thì quan tâm đến 
thông tin về các ước tính kế toán được áp dụng như thế 
nào. Viện Kế toán công chứng của Scotland (ICAS, 2006) 
cho rằng sự tin tưởng giữa người xây dựng chuẩn mực, 
người lập báo cáo, kiểm toán viên, nhà quản lý và người sử 
dụng BCTC đó là làm sao để cho ban quản trị doanh nghiệp 
trình bày các ước tính kế toán phản ánh trung thực nhất 
các giao dịch trong kinh doanh. 
Trong mọi trường hợp, các chuẩn mực kế toán luôn 
chứa đựng một phần quan trọng về các ước tính kế 
toán. Khi Chuẩn mực BCTC quốc tế là các chuẩn mực kế 
toán toàn cầu với hơn 140 nước và vùng lãnh thổ áp dụng 
thì nhiều chuẩn mực kế toán quốc gia cũng đã hội tụ với 
IFRS, nghiên cứu này xem IFRS là khung pháp lý quan trọng 
nhất cho các ước tính kế toán. Khung khái niệm cho 
BCTC (IASB, 2010) như là một phần của IFRS, “thiết lập các 
khái niệm nền tảng của những ước tính đó, các xét đoán và 
các mô hình. Các khái niệm này là mục tiêu mà Ban quản trị 
và những người lập BCTC hướng tới”. Khung IFRS hiểu được 
sự thích hợp và trình bày trung thực là những đặc tính chất 
lượng cơ bản để có ích cho người sử dụng BCTC. Theo 
khung này, thông tin tài chính thích hợp có thể bị ảnh 
hưởng bởi mức độ đo lường không chắc chắn phát sinh khi 
một tài sản hoặc nợ không thể đo lường trực tiếp, thay vào 
đó là phải ước tính. 
Theo IASB (2010), “một ước tính có thể cung cấp thông 
tin thích hợp, ngay cả khi ước tính đó là phụ thuộc nhiều 
vào độ tin cậy của việc đo lường. Tuy nhiên, nếu độ tin cậy 
của việc đo lường đó là thấp thì ước tính đó sẽ ít thích hợp 
hơn so với nếu độ tin cậy của việc đo lường đó là cao. Việc 
đo lường không đáng tin cậy phát sinh khi một tài sản hoặc 
một khoản nợ không thể đo lường trực tiếp đượcmà phải 
thay bằng cách ước tính”. Ngoài ra, IASB còn đưa ra một ví 
dụ cụ thể về một ước tính có thể được trình bày trung thực 
cho trường hợp đơn vị báo cáo kế toán đã áp dụng một 
quy trình và mô tả thích hợp ước tính và giải thích bất kỳ sự 
không chắc chắn có ảnh hưởng đáng kể đến ước tính đó. 
Ban quản trị vẫn tin rằng nếu ước tính đó không hợp lý, 
thông tin cung cấp cũng sẽ không hữu ích. Do đó, để được 
trình bày trung thực thì các ước tính kế toán nên được mô 
tả đầy đủ tính chất và mức độ không chắc chắn cần phải 
được minh họa, công bố trong thuyết minh BCTC. Ngoài 
các đặc tính chất lượng của thông tin, Khung này cũng đưa 
ra một số nguyên tắc kế toán về ước tính. IASB đã định 
nghĩa sự thận trọng là việc thực hiện cẩn trọng khi xét đoán 
trong điều kiện không chắc chắn để đảm bảo rằng tài sản 
hoặc thu nhập không bị phóng đại và công nợ hoặc chi phí 
không bị che giấu (IASB, 2015). Theo IASB, những sai sót 
như vậy có thể dẫn đến sự phóng đại thu nhập hoặc giấu 
bớt chi phí cho giai đoạn sau. 
Khái niệm ước tính trong việc thực hiện nguyên tắc thận 
trọng có thể là tiêu chí để phân loại kế toán thành trường 
phái kế toán bảo thủ và trường phái kế toán trung lập 
(Cooper, 2015). Trường phái kế toán bảo thủ ủng hộ sự 
thận trọng trong BCTC. Ngược lại, trường phái kế toán 
trung lập coi BCTC nên đại diện cho kết quả của doanh 
nghiệp một cách trung lập và ủng hộ việc trình bày BCTC 
theo khuynh hướng trung lập, không thiên về sự thận 
trọng. Tương tự như vậy, nguyên tắc dựa vào bản chất hơn 
hình thức yêu cầu phải ước tính kế toán. Bởi vì, đôi khi bản 
chất các nghiệp vụ kinh tế phát sinh không nằm ở hình 
thức pháp lý của nó mà cần được ước tính để phản ánh 
trung thực thực tế xảy ra. 
Ngoài khung của IASB, IFRS còn đưa ra các nguyên tắc 
bổ sung cho các loại ước tính khác nhau liên quan đến việc 
ghi nhận và đo lường một số tài sản và nợ phải trả. Tuy 
nhiên, Viện Kế toán công chứng của Scotland - ICAS (2012), 
cho rằng các chuẩn mực dựa trên nguyên tắc đó có thể 
giúp trình bày trung thực bản chất của các nghiệp vụ kinh 
tế nhưng đòi hỏi phải sử dụng tốt xét đoán chuyên 
môn. Brown và cộng sự (1993), cho rằng “Các chuẩn mực kế 
toán chỉ đưa ra các hướng dẫn cơ bản nên đòi hỏi các kế 
toán viên cần thiết phải áp dụng xét đoán chuyên 
môn”. Điều này hàm ý rằng các chuẩn mực nghề nghiệp 
không thể cung cấp một hướng dẫn đầy đủ cho người 
chuẩn bị hoặc cho người sử dụng BCTC và nhấn mạnh, cho 
dù là như vậy nhưng các ước tính cũng cho phép người đọc 
hiểu được những gì được trình bày trên BCTC. Các hướng 
dẫn hiện nay về ước tính không chỉ là đặc trưng của kế toán 
mà nó còn ảnh hưởng đến thông tin kế toán. Các yếu tố có 
thể tác động đến các ước tính kế toán như là kinh nghiệm, 
kiến thức, đào tạo, văn hoá và kể cả sự sẵn sàng chấp nhận 
rủi ro hoặc hành động mà doanh nghiệp có thể thực hiện 
trong tương lai. 
Phân tích thực nghiệm ảnh hưởng của ước tính kế 
toán TSCĐ hữu hình trên BCTC 
Chuẩn mực IAS 16 (Bất động sản, nhà xưởng và thiết bị-
TSCĐ hữu hình) xác định các nguyên tắc xử lý kế toán của 
TSCĐ hữu hình. Chuẩn mực này liên quan đến chuẩn mực 
kế toán quốc tế IAS 36 (Sự suy giảm giá trị tài sản) chuẩn 
mực này bổ sung thêm cho xử lý TSCĐ hữu hình. Có thể 
chia các vấn đề quan trọng của ước tính kế toán theo IAS 
16 thành hai mục lớn: phân loại các ước tính và các ước tính 
liên quan đến việc đo lường giá phí của TSCĐ hữu 
hình. Việc phân loại và ghi nhận ước tính về tài sản hữu 
hình phổ biến nhất hiện nay theo IFRS Foundation (2015), 
đó là: đánh giá xem doanh nghiệp có kiểm soát nguồn lực 
hay không, phân loại tài sản có tính chất tương tự, phân 
biệt bất động sản đầu tư với bất động sản phục vụ hoạt 
động kinh doanh và bất động sản giữ để bán trong quá 
trình kinh doanh thông thường. 
Doanh nghiệp có thể có các ước tính quan trọng liên 
quan đến việc đo lường giá phí của một TSCĐ hữu hình, 
như: ước lượng thời gian sử dụng hữu ích, ước lượng giá trị 
thu hồi, đo lường giá trị hợp lý hoặc chi phí nâng cấp tính 
vào nguyên giá TSCĐ hữu hình. 
 ECONOMICS-SOCIETY 
Số 46.2018 ● Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 5
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Để xác định tác động của các ước tính kế toán đến Bảng 
cân đối kế toán và Báo cáo kết quả kinh doanh cần xác định 
mô hình cơ sở, các giả định và hạn chế của các mô hình 
được tạo ra. Phương pháp được sử dụng trong phân tích 
thực nghiệm bao gồm: thiết kế Bảng cân đối kế toán (bảng 
1) và Báo cáo kết quả kinh doanh (bảng 2) của một doanh 
nghiệp, trong đó, phần TSCĐ hữu hình chiếm tỷ lệ đáng kể 
(53,33% trên tổng tài sản). 
Bảng 1. Bảng cân đối kế toán 
Đơn vị tính: 1.000.000 đồng 
Chỉ tiêu Mô hình cơ sở 
A. Tài sản ngắn hạn 
B. Tài sản dài hạn 
I. TSCĐ hữu hình 
1. Nhà xưởng 
2. Thiết bị 
II. TSCĐ vô hình 
1. Quyền sử dụng đất 
2. Phần mềm 
400 
1.100 
800 
500 
300 
300 
200 
100 
Tổng tài sản 1.500 
C. Nợ phải trả 
I. Nợ ngắn hạn 
II. Nợ dài hạn 
D. Vốn chủ sở hữu 
I. Vốn góp 
II. Lợi nhuận 
820 
350 
470 
680 
600 
80 
 Tổng nguồn vốn 1.500 
Bảng 2. Báo cáo kết quả kinh doanh 
Đơn vị tính: 1.000.000 đồng 
Chỉ tiêu Mô hình cơ sở 
1. Doanh thu thuần 
2. Giá vốn 
3. Chi phí lãi vay 
4. Chi phí bán hàng, quản lý doanh nghiệp 
5. Lợi nhuận trước thuế 
6. Thuế thu nhập doanh nghiệp (20%) 
7. Lợi nhuận sau thuế 
1.000 
750 
90 
60 
100 
20 
80 
Các công cụ phân tích BCTC được sử dụng để định 
lượng tác động của các ước tính kế toán trên tình hình tài 
chính và hiệu quả kinh doanh. Mục đích của nghiên cứu là 
xác định ảnh hưởng của các ước tính khác nhau đến toàn 
bộ tình hình tài chính và hiệu quả kinh doanh của doanh 
nghiệp. Theo đó, lợi nhuận trên tổng số tài sản (ROA) được 
chọn là tỷ lệ quan trọng nhất. Tỷ lệ ROA theo công thức của 
Du Pont được phân tích làm hai thành phần chính là tỷ suất 
lợi nhuận và tỷ lệ doanh thu/tài sản (vòng quay tài sản). 
Phương pháp này tách tỷ suất sinh lợi theo các thành phần 
cấu thành chúng. Tỷ suất lợi nhuận, vòng quay tài sản và lợi 
nhuận trên tài sản thường được xem xét lại với nhau do tỷ 
suất lợi nhuận và vòng quay tài sản ảnh hưởng trực tiếp 
đến lợi nhuận trên tài sản (Gibson, 2013). Hơn nữa, vòng 
quay tài sản được coi là tỷ số tài chính để đánh giá cả tình 
hình tài chính và hiệu quả kinh doanh (Zager và cộng sự, 2008). 
Các tỷ lệ được lựa chọn để đo lường tình hình tài chính 
là tỷ lệ khả năng thanh toán hiện hành, tỷ lệ vốn chủ sở hữu 
và khả năng thanh toán lãi vay. Tỷ lệ khả năng thanh toán 
hiện hànhxác định khả năng trả nợ ngắn hạn của doanh 
nghiệp (Gibson, 2013). Các khoản nợ của doanh nghiệp, 
trên bảng cân đối kế toán được nhìn nhận thông qua tỷ lệ 
vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản. Tỷ lệ này cho biết tỷ lệ 
phần trăm tài sản được tài trợ bởi các chủ sở hữu (Zager và 
cộng sự, 2008). Tỷ lệ khả năng thanh toán lãi vay cho biết 
khả năng thanh toán nợ dài hạn khi đánh giá Báo cáo kết 
quả kinh doanh của doanh nghiệp (Gibson, 2013). 
Trên cơ sở đó, tác giả đã tổng hợp và xây dựng mô hình 
nghiên cứu với các biến số và tỷ lệ được lựa chọn để đánh 
giá tình hình tài chính và hiệu quả kinh doanh của doanh 
nghiệp (bảng 3). 
4. KẾT QUẢ 
Vận dụng mô hình về ước tính kế toán áp dụng đối 
với TSCĐ hữu hình 
Để đánh giá tác động của ước tính kế toán TSCĐ hữu 
hình đến tình hình tài chính và kết quả hoạt động kinh 
doanh, tác giả lựa chọn thay đổi ước tính kế toán về thời 
gian sử dụng hữu ích của TSCĐ hữu hình, trong đó xem xét 
tác động của trường hợp cụ thể là thiết bị trong mô hình. 
(i) Mô hình 1: Ước tính thời gian sử dụng hữu ích của 
thiết bị là 6 năm. 
Mô hình 1 được thiết kế theo một số giả định mà một 
doanh nghiệp đã mua một thiết bị để tiến hành kinh doanh 
với nguyên giá thiết bị được ghi nhận ban đầu trong Bảng 
cân đối kế toán là 300.000.000 đồng. Ban Giám đốc ước tính 
thời gian sử dụng hữu ích là 6 năm và sử dụng phương 
Bảng 3. Các biến trong mô hình nghiên cứu 
Biến được lựa chọn - TSCĐ hữu hình Đo lường - Tỷ lệ tài chính 
Tài sản, nhà xưởng và thiết bị (IAS 16) 
- Ước lượng thời gian sử dụng hữu ích của thiết bị: 
 Ban giám đốc ước tính rằng thời gian sử dụng hữu ích là 6 năm (mô hình 1). 
 Ban giám đốc ước tính rằng thời gian sử dụng hữu ích là 5 năm (mô hình 2). 
 Ban giám đốc ước tính rằng thời gian sử dụng hữu ích là 3 năm (mô hình 3). 
- Thực trạng tài chính 
 Tỷ lệ khả năng thanh toán hiện thời (Tài sản ngắn hạn/ Nợ ngắn hạn). 
 Tỷ lệ vốn chủ sở hữu (Vốn cổ phần/ Tổng tài sản). 
 Tỷ lệ khả năng thanh toán lãi vay (Lợi nhuận + Chi phí lãi vay/ Chi phí lãi vay). 
 Hiệu quả kinh doanh. 
 Vòng quay tài sản (Doanh thu/ Tổng tài sản). 
 Tỷ suất lợi nhuận (Lợi nhuận/ Doanh thu). 
 Tỷ suất lợi nhuận tài sản (Lợi nhuận/ Tổng tài sản). 
 XÃ HỘI 
 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ● Số 46.2018 6
KINH TẾ
pháp khấu hao theo phương pháp đường thẳng. Số khấu 
hao là chi phí của một tài sản. Ban giám đốc cũng ước 
tính rằng giá trị thu hồi của thiết bị là không đáng kể trong 
việc tính toán số tiền khấu hao. Lưu ý rằng, chi phí khấu 
hao được tính toàn bộ cho kỳ khấu hao năm đó là 
300.000.000/6 năm = 50.000.000 đồng. 
(ii) Mô hình 2: Ước tính thời gian sử dụng hữu ích của 
thiết bị giảm xuống còn 5 năm. 
Mô hình 2 đề cập đến Ban giám đốc ước tính thời gian 
sử dụng hữu ích là 5 năm và sử dụng phương pháp khấu 
hao theo phương pháp đường thẳng. Ban giám đốc cũng 
ước tính rằng giá trị thu hồi của thiết bị là không đáng kể 
trong việc tính toán số tiền khấu hao. Trong trường hợp 
này, nguyên giá thiết bị là 300.000.000 đồng, có nghĩa là chi 
phí khấu hao trong năm là 300.000.000/5 năm = 60.000.000 
đồng. 
(iii) Mô hình 3: Ước tính thời gian sử dụng hữu ích của 
thiết bị giảm xuống thấp hơn còn 3 năm. 
Bảng 4. Bảng cân đối kế toán 
Đơn vị tính: 1.000.000 đồng 
Chỉ tiêu Mô hình 1 Mô hình 2 Mô hình 3 
A. Tài sản ngắn hạn 
B. Tài sản dài hạn 
I. TSCĐ hữu hình 
1. Nhà xưởng 
2. Thiết bị 
II. TSCĐ vô hình 
1. Quyền sử dụng đất 
2. Phần mềm 
400 
1.050 
750 
500 
250 
300 
200 
100 
400 
1.040 
740 
500 
240 
300 
200 
100 
400 
1.000 
700 
500 
200 
300 
200 
100 
Tổng tài sản 1.450 1.440 1.400 
C. Nợ phải trả 
I. Nợ ngắn hạn 
II. Nợ dài hạn 
D. Vốn chủ sở hữu 
I. Vốn góp 
II. Lợi nhuận 
810 
340 
470 
640 
600 
40 
708 
338 
470 
632 
600 
32 
800 
330 
470 
600 
600 
0 
 Tổng nguồn vốn 1.450 1.440 1.400 
Bảng 5. Báo cáo kết quả kinh doanh 
Đơn vị tính: 1.000.000 đồng 
Chỉ tiêu Mô hình 1 Mô hình 2 Mô hình 3 
1. Doanh thu thuần 
2. Giá vốn 
3. Chi phí khấu hao 
4. Chi phí lãi vay 
5. Chi phí bán hàng, quản lý DN 
6. Lợi nhuận trước thuế 
7. Thuế thu nhập doanh nghiệp (20%) 
8. Lợi nhuận sau thuế 
1.000 
750 
50 
90 
60 
50 
10 
40 
1.000 
750 
60 
90 
60 
40 
8 
32 
1.000 
750 
100 
90 
60 
0 
0 
0 
Mô hình 3 trình bày Ban giám đốc ước tính thời gian sử 
dụng hữu ích thấp chỉ là 3 năm và vẫn sử dụng phương 
pháp khấu hao đường thẳng. Ban giám đốc cũng ước 
tính rằng giá trị thu hồi của thiết bị là không đáng kể trong 
việc tính toán số tiền khấu hao. Trong trường hợp này, 
nguyên giá thiết bị là 300.000.000 đồng, có nghĩa là chi phí 
khấu hao trong năm sẽ là 300.000.000/3 năm = 100.000.000 
đồng.Dựa vào sự thay đổi thời gian sử dụng hữu ích của 
thiết bị trong ba mô hình làm cho sự biến động của các chỉ 
tiêu trên Bảng cân đối kế toán và Báo cáo kết quả kinh 
doanh được trình bày lần lượt trong bảng 4 và bảng 5. 
Kết quả tác động của thay đổi ước tính thời gian sử 
dụng hữu ích của thiết bị đối với tình hình tài chính và hiệu 
quả kinh doanh của doanh nghiệp được trình bày trong 
bảng 6. 
Bảng 6. Kết quả tác động của ước tính kế toán TSCĐ hữu hình 
Đơn vị tính: 1.000.000 đồng 
Chỉ tiêu Mô hình 1 Mô hình 2 Mô hình 3 
Tỷ lệ khả năng thanh toán hiện thời 
Tỷ lệ vốn chủ sở hữu 
Tỷ lệ khả năng thanh toán lãi vay 
Vòng quay tài sản 
Tỷ suất lợi nhuận 
Tỷ suất lợi nhuận tài sản 
1,18 
0,44 
1,44 
0,69 
4,0% 
2,8% 
1,18 
0,44 
1,36 
0,69 
3,2% 
2,2% 
1,21 
0,43 
1,00 
0,71 
0,0% 
0,0% 
5. KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN 
BCTC thể hiện tình hình tài chính và hiệu quả kinh 
doanh của doanh nghiệp. Để BCTC của doanh nghiệp được 
trình bày phù hợp với các chuẩn mực, doanh nghiệp cần 
thực hiện các ước tính kế toán và các giả định có ảnh 
hưởng đến số tiền được trình bày trong BCTC, các thuyết 
minh BCTC. Bởi mỗi xét đoán ước tính được tạo ra do có 
tính chất chủ quan nên kết quả ước tính có thể khác nhau. 
Vì vậy, doanh nghiệp nên sử dụng tất cả các thông tin đầy 
đủ và có sẵn khi thực hiện ước tính. Người thực hiện ước 
tính nên tuân thủ đạo đức nghề nghiệp và tránh mọi xung 
đột lợi ích. Để đảm bảo tính khách quan trong việc ước tính 
kế toán, doanh nghiệp nên phê duyệt quá trình thực hiện 
việc ước tính kế toán. Để làm được điều này, doanh nghiệp 
cần xem xét các vấn đề quan trọng trong ước tính kế toán, 
thảo luận về những ước tính đó và tác động của nó cũng 
như ghi lại các quy trình ước tính này. Ban giám đốc doanh 
nghiệp nên xem xét các chính sách kế toán quan trọng và 
các thông tin liên quan cần công bố công khai. 
Nghiên cứu này dựa trên việc kiểm tra Bảng cân đối kế 
toán doanh nghiệp được thiết kế với phần giá trị TSCĐ hữu 
hình chiếm đáng kể và Báo cáo kết quả hoạt động kinh 
doanh hợp lý. Các biến được lựa chọn (tỷ lệ tài chính điển 
hình) để đánh giá tình hình tài chính và hiệu quả kinh 
doanh của một doanh nghiệp đã cho thấy, đối với các mô 
hình thực hiện, thực trạng tài chính và hiệu quả kinh doanh 
có thể phụ thuộc rất nhiều vào các ước tính kế toán được 
thực hiện. Các mô hình nghiên cứu đã khẳng định sự biến 
động của tình trạng tài chính và hiệu quả hoạt động của 
một doanh nghiệp là do ước tính kế toán khác nhau trong 
trường hợp TSCĐ hữu hình đại diện cho phần lớn tài 
sản của doanh nghiệp. Tuy nhiên, để giảm thiểu ảnh hưởng 
của vấn đề này, doanh nghiệp nên công khai các ước tính 
kế toán quan trọng trong các thuyết minh BCTC, việc công 
khai này sẽ giúp cho người sử dụng BCTC hiểu rõ được cơ 
sở của cácước tính kế toán và ý nghĩa quan trọng của nó 
ảnh hưởng đến BCTC của doanh nghiệp ở mức độ nào./. 
 ECONOMICS-SOCIETY 
Số 46.2018 ● Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 7
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Brown, G. A., Collins, R. and Thornton, D. B, 1993. Professional judgment 
and accounting standards. Accounting, Organizations and Society. 18 (4): 275-89. 
[2]. Cooper, S, 2015. A tale of ‘’prudence”. Investor Perspectives, IFRS. 
[3]. Gibson, C. H, 2013. Financial Statement Analysis. 13th edition, South-
Western, Cengage Learning. 
[4]. IASB, 2010. The Conceptual Framework for Financial Reporting. IFRS 
Foundation. 
[5]. IASB, 2015. The Conceptual Framework for Financial Reporting. Exposure 
Draft D/2015/3. IFRS Foundation. 
[6]. ICAS, 2006. Principles not Rules. A Question of Judgement. 
[7]. ICAS, 2012. A professional judgement framework for financial reporting. 
An international guide for preparers, auditors, regulators and standardsetters. 
[8]. KPMG, 2015. Getting Accounting Judgments and Estimates. Board 
Perspectives. 
[9]. The International Financial Reporting Standards Foundation, 2015. IAS 
16 Property, Plant and Equipment in A Briefing for Chief Executives, Audit 
Committees & Boards of Directors. 
[10]. Zager, K., Mamic Sacer, I. Sever, S. Zager, L, 2008. Financial Statement 
Analysis. Masmedia, Zagreb. 

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_cua_uoc_tinh_ke_toan_tai_san_co_dinh_huu_hinh_den.pdf