Ảnh hưởng của kích cỡ cốt liệu và hàm lượng nước đến cường độ nén và độ lưu động của bê tông

Bài báo nghiên cứu sự ảnh hưởng của kích cỡ cốt liệu và hàm lượng nước đến cường

độ nén và độ lưu động của bê tông. Thí nghiệm với hỗn hợp ba mẫu bê tông được thiết kế

với kích cỡ cốt liệu và hàm lượng nước khác nhau. Kết quả thí nghiệm cho thấy, cường độ

nén của bê tông giảm và độ lưu động của bê tông tăng khi sử dụng cốt liệu có kích cỡ lớn.

Hàm lượng nước cao là nguyên nhân gây ra cường độ nén ban đầu cao nhưng cường độ

lâu dài thấp

pdf 8 trang phuongnguyen 8700
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng của kích cỡ cốt liệu và hàm lượng nước đến cường độ nén và độ lưu động của bê tông", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của kích cỡ cốt liệu và hàm lượng nước đến cường độ nén và độ lưu động của bê tông

Ảnh hưởng của kích cỡ cốt liệu và hàm lượng nước đến cường độ nén và độ lưu động của bê tông
 TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 35.2017 
121 
ẢNH HƯỞNG CỦA KÍCH CỠ CỐT LIỆU VÀ HÀM LƯỢNG NƯỚC 
ĐẾN CƯỜNG ĐỘ NÉN VÀ ĐỘ LƯU ĐỘNG CỦA BÊ TÔNG 
Lê Thị Thanh Tâm1, Mai Thị Ngọc Hằng2, Mai Thị Hồng3, Nguyễn Thị Mùi4 
TÓM TẮT 
Bài báo nghiên cứu sự ảnh hưởng của kích cỡ cốt liệu và hàm lượng nước đến cường 
độ nén và độ lưu động của bê tông. Thí nghiệm với hỗn hợp ba mẫu bê tông được thiết kế 
với kích cỡ cốt liệu và hàm lượng nước khác nhau. Kết quả thí nghiệm cho thấy, cường độ 
nén của bê tông giảm và độ lưu động của bê tông tăng khi sử dụng cốt liệu có kích cỡ lớn. 
Hàm lượng nước cao là nguyên nhân gây ra cường độ nén ban đầu cao nhưng cường độ 
lâu dài thấp. 
Từ khóa: Bê tông, cường độ nén, độ lưu động, kích cỡ cốt liệu, hàm lượng nước. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bê tông là vật liệu phổ biến sử dụng trong các công trình xây dựng dân dụng và công 
nghiệp, giao thông, và thủy lợi. Các thành phần cơ bản tạo nên bê tông bao gồm: xi măng, 
cát, đá, và nước. Ngoài ra, tùy thuộc vào yêu cầu của từng công trình, điều kiện làm việc và 
yêu cầu về kết cấu mà có thể thêm các phụ gia để tăng cường một số đặc tính của bê tông. 
Do vậy, với bê tông thường, các đặc tính của nó phụ thuộc nhiều vào hàm lượng và chất 
lượng của các vật liệu chế tạo bê tông. 
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến cường độ nén và độ lưu động của bê tông (độ sụt), ví 
dụ như: tỷ lệ các thành phần cấu tạo, phương pháp trộn, điều kiện bảo dưỡng, loại cốt liệu, 
hình dạng cốt liệu và chất lượng của các vật liệu chế tạo bê tông Trong các yếu tố trên, 
mối quan hệ giữa kích cỡ cốt liệu thô (đá, sỏi) với cường độ nén và độ lưu động của bê tông 
nhận được sự quan tâm từ một số nhà nghiên cứu trên thế giới [9,10,12-15]. Đa phần các 
nghiên cứu đều kết luận rằng khi kích cỡ cốt liệu tăng, cường độ chịu nén của bê tông giảm. 
Tuy nhiên, theo kết quả nghiên cứu của Kozul và Darwin (1997) [6], sự thay đổi kích cỡ cốt 
liệu không ảnh hưởng nhiều đến cường độ chịu nén của bê tông. Kết quả nghiên cứu còn 
cho thấy, với bê tông thường sử dụng cốt liệu có đường kính hạt lớn nhất 19mm có cường 
độ chịu nén lớn hơn 7,6% so với bê tông tương ứng sử dụng cốt liệu có đường kính hạt lớn 
nhất 16mm. Điều này ngược lại với các nghiên cứu [9,10,12-15]. Theo nghiên cứu của 
Woode cùng các cộng sự [13], khi kích cỡ cốt liệu giảm thì độ lưu động của bê tông giảm. 
Điều này ngược lại với nghiên cứu của Rathish và Krishna [10], khi kích cỡ cốt liệu giảm 
thì độ lưu động của bê tông tăng. 
Hàm lượng nước cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến cường độ nén và độ lưu động của 
bê tông. Lượng nước phải cung cấp đủ để bê tông đạt độ lưu động trong thi công (tính dễ thi 
công), đồng thời đủ cho các phản ứng thủy hóa của xi măng [8]. Nếu hàm lượng nước ít, bê 
1,2,3,4 Giảng viên khoa Kỹ thuật Công nghệ, Trường Đại học Hồng Đức 
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 35.2017 
122 
tông có cường độ nén cao nhưng độ lưu động thấp, khó thi công. Ngược lại, nếu hàm lượng 
nước nhiều, tính dễ thi công cao, nhưng chất lượng bê tông giảm [3,8]. Hàm lượng nước sử 
dụng trong bê tông có mối liên hệ mật thiết với kích cỡ hạt và độ sụt yêu cầu. Chính vì vậy, 
theo tiêu chuẩn thiết kế thành phần bê tông của Hoa Kỳ (ACI 211.1-91) [2], khi chọn lượng 
nước cho bê tông phải dựa vào yêu cầu thi công (độ sụt) và kích cỡ cốt liệu (đường kính cốt 
liệu lớn nhất). 
Các nghiên cứu về sự ảnh hưởng của kích cỡ cốt liệu lên cường độ chịu nén và độ lưu 
động của bê tông còn ít, các kết quả còn chưa thống nhất bởi vì hàm lượng và tính chất các 
thành phần cấu tạo của bê tông khác nhau trong mỗi đề tài nghiên cứu. Ở Việt Nam, sự ảnh 
hưởng này chưa nhận được nhiều sự quan tâm từ các nhà nghiên cứu. Bài báo này nghiên 
cứu sự ảnh hưởng của kích cỡ cốt liệu lên cường độ chịu nén và độ lưu động của bê tông, và 
ảnh hưởng của hàm lượng nước lên cường độ chịu nén của bê tông. 
2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 
2.1. Thực nghiệm 
2.1.1. Vật liệu 
2.1.1.1. Đá dăm 
Đá là cốt liệu thô được sử dụng để tạo ra bộ khung chịu lực cho bê tông. Đá sử dụng 
trong nghiên cứu này là đá dăm, có nguồn gốc tự nhiên và được lấy ở mỏ Vức - Thanh Hóa, 
độ ẩm 0,05%, độ hút nước 0,68%, khối lượng riêng 2,69 tấn/m3 và khối lượng thể tích ở 
trạng thái khô là 1,408 tấn/m3. Sử dụng hai loại đá dăm có đường kính hạt lớn nhất 
Dmax=25mm và Dmax=15mm để nghiên cứu sự ảnh hưởng của kích cỡ cốt liệu lên cường độ 
chịu nén và độ lưu động của bê tông. 
2.1.1.2. Cát 
Cát là vật liệu dạng hạt nhỏ và mịn, có nguồn gốc tự nhiên được lấy từ sông Chu - Thọ 
Xuân - Thanh Hóa, giá thành rẻ, thành phần chủ yếu là silic oxit (SiO2). Cát được sử dụng 
để làm cốt liệu nhỏ cùng với xi măng, nước tạo ra vữa xi măng để lấp đầy lỗ rỗng giữa các 
hạt cốt liệu lớn (đá, sỏi) và bao bọc xung quanh các hạt cốt liệu lớn tạo ra khối bê tông đặc 
chắc. Cát sử dụng trong nghiên cứu là cát vàng, có độ ẩm 5,65%, độ hút nước 0,28%, mô 
đun độ lớn Mk = 2,67, khối lượng riêng 2,62 tấn/m3, và khối lượng thể tích ở trạng thái khô 
là 1,433 tấn/m3. 
2.1.1.3. Xi măng 
Xi măng là chất kết dính thủy lực trong quá trình thủy hóa của bê tông. Xi măng sử 
dụng trong nghiên cứu này là xi măng Nghi Sơn dân dụng PCB40, có khối lượng riêng là 
3,12 tấn/m3. 
2.1.1.4. Phụ gia 
Phụ gia là chất được bổ sung vào bê tông bên cạnh nước, xi măng và cốt liệu để cải 
thiện tính chất và khả năng làm việc của bê tông, đẩy nhanh quá trình đông kết, khô cứng. 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 35.2017 
123 
Mỗi loại phụ gia có tác dụng khác nhau tùy vào yêu cầu sử dụng. Trong nghiên cứu này sử 
dụng phụ gia hóa dẻo sikament R7 để giảm lượng nước cho bê tông. Phụ gia sử dụng có 
khối lượng riêng là 1,15 tấn/m3. 
2.1.2. Thiết kế thành phần bê tông 
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp thiết kế thành phần cấp phối bê tông theo tiêu 
chuẩn ACI-211.1-91 [2]. Ba hỗn hợp bê tông có thành phần như bảng 1, với cùng tỷ lệ 
nước-xi măng là 0,40. Hỗn hợp bê tông M1 sử dụng cốt liệu có đường kính hạt lớn nhất là 
25mm. Hỗn hợp bê tông M2 và M3 sử dụng cốt liệu có đường kính hạt lớn nhất là 15mm. 
Mục đích thiết kế hỗn hợp bê tông M1 và M2 để đánh giá sự ảnh hưởng của đường kính 
cốt liệu lên cường độ chịu nén và độ lưu động của bê tông. Hỗn hợp bê tông M2 và M3 
cùng sử dụng cốt liệu có đường kính hạt lớn nhất là 15mm, nhưng có hàm lượng nước và 
phụ gia khác nhau. Hỗn hợp M3 có hàm lượng nước nhiều hơn, và sử dụng ít phụ gia hóa 
dẻo hơn hỗn hợp M2. So sánh hỗn hợp M2 và M3 để đánh giá sự ảnh hưởng của hàm 
lượng nước lên cường độ nén của bê tông, và ảnh hưởng của phụ gia hóa dẻo lên độ lưu 
động của bê tông tươi. 
Bảng 1. Thành phần bê tông thiết kế 
Hỗn hợp bê tông 
Tỷ lệ 
N/X 
Xi măng 
(kg) 
Cát 
(kg) 
Đá 
(kg) 
Nước 
(kg) 
Phụ gia 
(kg) 
M1 (Dmax =25 mm) 
0,40 
457 841 962 175 7,5 
M2 (Dmax =15 mm) 457 841 962 175 7,5 
M3 (Dmax =15 mm) 550 659 962 218 2 
2.1.3. Phương pháp thí nghiệm 
Tất cả các thí nghiệm trong bài báo này được thực hiện tại xưởng thực hành khoa Kỹ 
thuật Công nghệ, Trường Đại học Hồng Đức. 
2.1.3.1. Trộn bê tông 
Trong nghiên cứu này sử dụng máy trộn bê tông dung tích 450 lít như hình 1(a). Sau 
khi trộn xong, hỗn hợp bê tông được đổ ra khay như hình 1(b) để kiểm tra độ sụt. 
(a) (b) 
Hình 1. a) Máy trộn; b) Hỗn hợp bê tông sau khi trộn 
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 35.2017 
124 
2.1.3.2. Đo độ sụt 
Độ sụt hay độ lưu động của vữa bê tông, dùng để đánh giá khả năng dễ chảy của hỗn 
hợp bê tông dưới tác dụng của trọng lượng bản thân hoặc rung động. Độ sụt được xác định 
theo TCVN 3105-93 [1] hoặc ASTM C143 [4]. Dụng cụ đo là hình nón cụt Abrams, gọi 
là côn Abrams, có kích thước 203×102×305mm, đáy và miệng hở. Que đầm hình tròn có 
đường kính bằng 16mm, dài 600mm. Cho hỗn hợp bê tông vào hình nón cụt thành ba lần, 
mỗi lần 1/3 thể tích hình nón và đầm chặt 25 lần. Sau đó gạt bỏ phần bê tông thừa trên 
đỉnh nón, từ từ nâng hình nón theo phương thẳng đứng để hỗn hợp bê tông sụt xuống. Độ 
sụt bằng 305mm trừ đi chiều cao của bê tông tươi. Hình 2 thể hiện độ sụt của bê tông sau 
khi tháo hình nón cụt. 
Hình 2. Độ sụt của bê tông sau khi tháo hình nón cụt 
2.1.3.3. Đúc mẫu 
Khuôn đúc mẫu thí nghiệm có hình trụ tròn đường kính 10cm, cao 20cm. Với mỗi hỗn 
hợp bê tông được thiết kế như trên, sau khi kiểm tra độ sụt, tiến hành đổ bê tông vào khuôn 
thành ba lớp, mỗi lớp đầm 25 lượt. Sau khi đầm xong lớp cuối cùng thì gạt bằng đến miệng 
khuôn đúc và làm phẳng bề mặt mẫu như hình 3. 
Hình 3. Mẫu bê tông vừa đúc xong 
2.1.3.4. Bảo dưỡng mẫu 
Bảo dưỡng mẫu bê tông nhằm cung cấp nước đầy đủ trong suốt quá trình diễn ra các 
phản ứng thủy hóa của xi măng. Sau khi đúc mẫu được một ngày, bê tông hóa cứng thì tháo 
khuôn, đem cân khối lượng từng mẫu và ngâm vào bể nước để bảo dưỡng. Hình 4 thể hiện 
các mẫu bê tông sau khi tháo khuôn và bảo dưỡng trong bể nước. 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 35.2017 
125 
a) b) 
Hình 4. a) Mẫu bê tông sau khi tháo khuôn; b) Bảo dưỡng mẫu bê tông 
2.1.3.5. Nén mẫu 
Mẫu bê tông sau khi bảo dưỡng sẽ được đem đi nén để kiểm tra cường độ. Trong 
nghiên cứu này sử dụng máy nén bê tông Controls 300 tấn để xác định cường độ nén của 
mẫu (Hình 5). Cường độ nén của mẫu bằng lực nén lớn nhất chia cho diện tích bề mặt mẫu. 
Các mẫu được nén sau 3, 7, 14 và 28 ngày bảo dưỡng. Mỗi lần thí nghiệm với 3 mẫu thử, 
lấy giá trị trung bình. 
Hình 5. Thí nghiệm nén mẫu bê tông 
2.2. Kết quả và thảo luận 
2.2.1. Đặc tính của bê tông tươi 
Đặc tính bê tông tươi của các hỗn hợp được thể hiện ở bảng 2. Khối lượng trung bình 
các mẫu xấp xỉ nhau, sai khác lớn nhất là 3%. Hỗn hợp M1 có độ sụt lớn hơn mẫu M2, có 
nghĩa là đường kính cốt liệu lớn thì độ lưu động của bê tông cao. Điều này được giải thích 
bởi Shetty (2000) [11] theo đó, do tổng diện tích bề mặt của các hạt cốt liệu lớn nhỏ hơn 
tổng diện tích bề mặt của các hạt cốt liệu nhỏ dẫn đến lượng nước trên bề mặt hạt cốt liệu 
lớn nhiều hơn trên bề mặt các hạt cốt liệu nhỏ (với cùng hàm lượng nước như nhau). Vì vậy 
độ sụt của hỗn hợp M1 sử dụng cốt liệu Dmax=25mm lớn hơn độ sụt của hỗn hợp M2 sử dụng 
cốt liệu Dmax=15mm. Hỗn hợp M2 có độ sụt lớn hơn rất nhiều so với hỗn hợp M3. Kết quả 
này do việc sử dụng hàm lượng phụ gia hóa dẻo ở hỗn hợp M2 nhiều hơn so với hỗn hợp 
M3. Chú ý rằng cả ba hỗn hợp thiết kế có cùng tỷ lệ nước-xi măng là 0,40. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 35.2017 
126 
Bảng 2. Đặc tính của các hỗn hợp bê tông tươi 
Hỗn hợp 
Độ sụt 
(cm) 
Khối lượng mẫu 
trung bình (g) 
M1 (Dmax =25 mm) 20 4063 
M2 (Dmax =15 mm) 18 3962 
M3 (Dmax =15 mm) 8 3934 
2.2.2. Cường độ nén 
Hình 6. Sự phát triển cường độ của mẫu bê tông 
Hình 6 thể hiện sự phát triển cường độ nén của mẫu bê tông theo thời gian. Hình 7 thể 
hiện các mẫu bê tông sau khi thí nghiệm bị nén vỡ. Cường độ nén của hỗn hợp M2 lớn hơn 
cường độ nén của hỗn hợp M1. Kết quả này đồng thuận với các nghiên cứu trước [9,10,12-15]; 
kích cỡ cốt liệu càng cao thì cường độ chịu nén càng giảm. Đường kính cốt liệu lớn dễ tạo 
nên các lỗ rỗng bên trong và nước sẽ bị giữ lại tại đây. Lâu ngày nước bay hơi tạo nên các 
lỗ rỗng trong bê tông. Mặt khác, lượng nước nhiều trên bề mặt của các hạt cốt liệu lớn sẽ 
làm giảm lực bám dính giữa đá và vữa xi măng. Khi chịu lực, vùng liên kết yếu này dễ bị 
phá hoại. Ngược lại, với hỗn hợp bê tông sử dụng đường kính cốt liệu nhỏ hơn, diện tích bề 
mặt cao hơn, lượng nước trên bề mặt ít hơn, dẫn đến lực bám dính giữa vữa xi măng và cốt 
liệu tốt hơn, do vậy cường độ chịu nén tốt hơn. 
a) b) c) 
Hình 7. Các mẫu vỡ sau khi thí nghiệm: a) Mẫu M1; b) Mẫu M2; c) Mẫu M3 
0 7 14 21 28 35
Ngµy tuæi (ngµy)
0
10
20
30
40
50
C
­
ê
n
g
 ®
é
 n
Ð
n
 (
M
P
a
)
M1
M2
M3
 TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 35.2017 
127 
 Hỗn hợp M3 sử dụng cốt liệu như hỗn hợp M2 (Dmax=15mm), tuy nhiên cường độ 
nén tại 28 ngày thấp nhất trong cả ba hỗn hợp. Nguyên nhân là do hỗn hợp M3 có hàm lượng 
nước tương đối cao (218kg) so với hai hỗn hợp còn lại (175kg), mặc dù tỷ lệ nước-xi măng 
là như nhau (N/X=0,40). Điều này được giải thích bởi các nghiên cứu [3,5,7,8], khi hàm 
lượng nước cao, với cùng một tỷ lệ nước-xi măng, dẫn tới hàm lượng xi măng cao. Lượng 
nước cao là nguyên nhân để lại các lỗ rỗng bên trong bê tông khi nước bốc hơi. Lượng xi 
măng cao là nguyên nhân gây biến dạng co ngót của bê tông khi thủy hóa. Hàm lượng nước 
và xi măng cao đều là nguyên nhân làm giảm chất lượng bê tông. Ở 3 ngày tuổi, hỗn hợp 
M3 có cường độ nén cao nhất, do hàm lượng nước và xi măng ở hỗn hợp này cao nên tốc độ 
thủy hóa ban đầu nhanh, làm tăng nhanh cường độ chịu nén của bê tông ở giai đoạn đầu. 
Tuy nhiên, về lâu dài, khi ngày tuổi càng cao thì lượng nước và xi măng cao lại là nguyên 
nhân làm giảm chất lượng bê tông như đã phân tích ở trên. Do vậy cường độ nén của hỗn 
hợp M3 kém nhất trong ba hỗn hợp tại 28 ngày tuổi. 
3. KẾT LUẬN 
Ảnh hưởng của kích cỡ cốt liệu và hàm lượng nước đến cường độ nén và độ lưu động 
của bê tông đã được nghiên cứu, kết quả cho thấy : 
Độ lưu động của hỗn hợp bê tông sử dụng cốt liệu có kích cỡ lớn cao hơn độ lưu động 
của hỗn hợp bê tông sử dụng cốt liệu có kích cỡ nhỏ. Sử dụng phụ gia hóa dẻo làm tăng đáng 
kể độ lưu động của bê tông. 
Cường độ chịu nén của bê tông sử dụng cốt liệu có kích cỡ lớn thấp hơn cường độ 
chịu nén của bê tông sử dụng cốt liệu có kích cỡ nhỏ. 
Hàm lượng nước và xi măng ảnh hưởng lớn đến cường độ sớm và cường độ lâu dài 
của bê tông. Đó là nguyên nhân gây ra cường độ sớm cao nhưng cường độ lâu dài thấp. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] TCVN 3105 (1993), Hỗn hợp bê tông nặng và bê tông nặng - Lấy mẫu chế tạo và bảo 
dưỡng mẫu thử. 
[2] ACI 211.1 (1991), Standard Practice for Selecting Proportions for Normal, 
Heavyweight, and Mass Concrete, American Concrete Institute, 38 pp. 
[3] Aitcin, P., Neville, A. M., and Acker, P. (1997), Integrated View of Shrinkage 
Deformation, Concrete International, 19 (9), pp. 35-47. 
[4] ASTM C143, Standard Test Method for Slump of Hydraulic-Cement Concrete. 
[5] Hwang, C. L., and Hung, M. F. (2002), Comparison of ACI Mixture Design Algorithm 
to HPC Densified Mixture Design Algorithm in the Anti-Corrosion and Durability 
Design, Journal of Chinese Corrosion Engineering, 16 (4), pp. 281-296. 
[6] Kozul, R., and Darwin, D. (1997), Effects of Aggregate Type, Size, and Content on 
Concrete Strength and Fracture Energy, Report No. 43, University of Kansas Center 
for Research, 98 pp. 
[7] Mather, B. (2000), Use Less Cement, Concrete International, 22 (11), pp. 55-56. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 35.2017 
128 
[8] Neville, A. (2000), Water and Concrete: a Love-Hate Relationship, Concrete 
International, 22 (12), pp. 34-38. 
[9] Oyewole, O.O., Arilewola, S.S., Jimoh A.A., and Oyejobi, D.O. (2011), Effects of 
Aggregate Sizes on the Physical and Mechanical Properties of Concrete Using 
Artificial Aggregates, Proceedings of Civil2011@unilorin 3rd Annual Conference of 
Civil Engineering, pp. 21-23. 
[10] thish, K.R., and Krishna, R.M.V. (2012), A Study on the Effect of Size of Aggregate 
on the Strength and Sorptivity Characteristics of Cinder Based Light Weight Concrete, 
Research Journal of Engineering Sciences, 1(6), pp. 27-35. 
[11] Shetty, M.S. (2000), Concrete technology theory and practice, Pub. by S.Chand and 
company Ltd New Delhi. 
[12] Su, R.K.L., and Cheng, B. (2008), The Effect of Coarse Aggregate Size on the Stress-
strain Curves of Concrete under Uniaxial Compression, Transactions of Hong Kong 
Institution of Engineers, 15(3), pp. 33-39. 
[13] Woode, A., Amoah, D.K., Aguba, I.A., and Ballow, P. (2015), The Effect of Maximum 
Coarse Aggregate Size on the Compressive Strength of Concrete Produced in Ghana, 
Civil and Environmental Research, 7 (5), pp. 7-12. 
[14] Xie, W., Jin, Y., and Li, S. (2012), Experimental Research on the Influence of Grain 
Size of Coarse aggregate on Pebble Concrete Compressive Strength, Applied 
mechanics and Materials, 238, pp. 133-137. 
[15] Yaqub, M., and Bukhari, I. (2006), Effect of Size of Coarse Aggregate on Compressive 
Strength of High Strength Concrete, 31st Conference on Our World in 
Concrete&Structures, Singapore. 
THE EFFECTS OF COARSE AGGREGATE SIZE AND WATER 
CONTENT ON THE COMPRESSIVE STRENGTH AND 
SLUMP OF NORMAL CONCRETE 
Le Thi Thanh Tam, Mai Thi Ngoc Hang, Mai Thi Hong, Nguyen Thi Mui 
ABSTRACT 
Normal concrete is a popular construction material, its compressive strength impacts 
on load capacity and cost of the project, while its slump affects construction possibility. This 
paper investigates the effect of coarse aggregate size and water content on the compressive 
strength and slump of normal concrete. Three concrete mixtures are designed with different 
coarse aggregate size and water content. Test result indicates that the compressive strength 
of concrete reduces and the slump of concrete increases when using larger coarse aggregate 
size. High water content is the cause of high compressive strength at early stage but low 
compressive strength at high stage. 
Keywords: Concrete, compressive strength, slump, coarse aggregate size, water content. 

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_cua_kich_co_cot_lieu_va_ham_luong_nuoc_den_cuong_d.pdf