Yếu tố tác động đến ý định thay đổi công nghệ trong hoạt động kinh doanh ngân hàng thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 tại Việt Nam

Tóm tắt

Mục tiêu của bài nghiên cứu là tìm hiểu yếu tố tác động đến ý định thay đổi công nghệ để phục vụ

kinh doanh trong ngành ngân hàng của Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, với

các yếu tố đề xuất: (1) Sự hữu ích; (2) Tính dễ sử dụng; (3) Sự tin tưởng; (4) Yếu tố xã hội; (5) Yếu

tố đổi mới; (6) Yếu tố sự hiệu quả, trong đó, yếu tố “Sự hiệu quả” là yếu tố mới được đề xuất trong

bối cảnh nghiên cứu của nhóm tác giả. Để giải quyết mục tiêu đặt ra nhóm tác giả sử dụng phương

pháp định tính kết hợp với nghiên cứu định lượng để giải quyết vấn đề; sử dụng thang đo và dữ liệu

thu thập được kiểm định độ tin cậy Cronbach’s Alpha, phân tích nhân tố khám phá EFA, phân tích

nhân tố khẳng định CFA và kiểm định mô hình hồi quy với mô hình cấu trúc tuyến tính SEM thông

qua phần mềm AMOS. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự hữu ích, tính dễ sử dụng của công nghệ có

tác động đến sự thay đổi công nghệ của các ngân hàng. Ngoài ra sự tin tưởng, yếu tố đổi mới của

các nhà quản trị ngân hàng cũng có ảnh hưởng đến ý định thay đổi công nghệ của các ngân hàng.

Đặc biệt một phát hiện mới của nhóm nghiên cứu là yếu tố sự hiệu quả có tác động tích cực đến

sự thay đổi công nghệ của các ngân hàng thương mại của Việt Nam. Từ kết quả nghiên cứu tác giả

đề xuất các khuyến nghị nhằm giúp các nhà quản lý ngân hàng đẩy mạnh sự thay đổi công nghệ và

khai thác hiệu quả công nghệ để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh ngân hàng trong bối cảnh

cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0.

pdf 17 trang phuongnguyen 680
Bạn đang xem tài liệu "Yếu tố tác động đến ý định thay đổi công nghệ trong hoạt động kinh doanh ngân hàng thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Yếu tố tác động đến ý định thay đổi công nghệ trong hoạt động kinh doanh ngân hàng thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 tại Việt Nam

Yếu tố tác động đến ý định thay đổi công nghệ trong hoạt động kinh doanh ngân hàng thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 tại Việt Nam
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 59, 10/2020
50
 YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN Ý ĐỊNH THAY ĐỔI CÔNG NGHỆ 
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGÂN HÀNG 
THỜI ĐẠI CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 TẠI VIỆT NAM
FACTORS AFFECTING INTENTION TO CHANGE TECHNOLOGY 
IN BANKING OPERATION IN THE 4TH INDUSTRIAL 
REVOLUTION IN VIETNAM
Nguyễn Thị Thanh Xuân1
Phan Thị Hằng Nga, Thái Trần Vân Hạnh2
Ngày nhận bài: 13/11/2019 Ngày chấp nhận đăng: 09/01/2020 Ngày đăng: 05/10/2020
Tóm tắt
Mục tiêu của bài nghiên cứu là tìm hiểu yếu tố tác động đến ý định thay đổi công nghệ để phục vụ 
kinh doanh trong ngành ngân hàng của Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, với 
các yếu tố đề xuất: (1) Sự hữu ích; (2) Tính dễ sử dụng; (3) Sự tin tưởng; (4) Yếu tố xã hội; (5) Yếu 
tố đổi mới; (6) Yếu tố sự hiệu quả, trong đó, yếu tố “Sự hiệu quả” là yếu tố mới được đề xuất trong 
bối cảnh nghiên cứu của nhóm tác giả. Để giải quyết mục tiêu đặt ra nhóm tác giả sử dụng phương 
pháp định tính kết hợp với nghiên cứu định lượng để giải quyết vấn đề; sử dụng thang đo và dữ liệu 
thu thập được kiểm định độ tin cậy Cronbach’s Alpha, phân tích nhân tố khám phá EFA, phân tích 
nhân tố khẳng định CFA và kiểm định mô hình hồi quy với mô hình cấu trúc tuyến tính SEM thông 
qua phần mềm AMOS. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự hữu ích, tính dễ sử dụng của công nghệ có 
tác động đến sự thay đổi công nghệ của các ngân hàng. Ngoài ra sự tin tưởng, yếu tố đổi mới của 
các nhà quản trị ngân hàng cũng có ảnh hưởng đến ý định thay đổi công nghệ của các ngân hàng. 
Đặc biệt một phát hiện mới của nhóm nghiên cứu là yếu tố sự hiệu quả có tác động tích cực đến 
sự thay đổi công nghệ của các ngân hàng thương mại của Việt Nam. Từ kết quả nghiên cứu tác giả 
đề xuất các khuyến nghị nhằm giúp các nhà quản lý ngân hàng đẩy mạnh sự thay đổi công nghệ và 
khai thác hiệu quả công nghệ để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh ngân hàng trong bối cảnh 
cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0.
Từ khóa: Yếu tố; ý định thay đổi công nghệ; kinh doanh ngân hàng; cách mạng công nghiệp 4.0.
Abstract
This paper aims to investigate the the factors and determinants of intention to change investment 
in technology for banking operation in Vietnam in the era of industry 4.0, using qualitative and 
quantitative research methods to explore the effect of six factors including (1) perceived usefulness; 
____________________________________________________
1 Trường Đại học quốc tế - Đại học quốc gia Tp Hồ Chí Minh
2 Trường Đại học Tài chính - Marketing
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 59, 10/2020
51
doanh nghiệp ngoài ngành ngân hàng vì nó rất 
hữu ích và tiện lợi cho khách hàng. Do vậy nếu 
các ngân hàng trong thời gian tới không đầu 
tư thêm các công nghệ trên thì sẽ bị các doanh 
nghiệp ngoài ngành giành thị phần trong hoạt 
động kinh doanh. Như vậy vì sao các ngân hàng 
hàng chưa đầu tư các công nghệ này để phục 
vụ kinh doanh, để trả lời cho câu hỏi này nhóm 
nghiên cứu đã chọn nghiên cứu “ yếu tố tác động 
đến ý định thay đổi công nghệ trong hoạt động 
kinh doanh ngân hàng thời đại cách mạng công 
nghiệp 4.0 tại Việt Nam” để xác định yếu tố nào 
tác động đến ý định thay đổi công nghệ và mức 
độ tác động của các yếu tố như thế nào? Với 
mong muốn có các khuyến nghị để tác động tích 
cực vào quyết định thay đổi công nghệ cho các 
ngân hàng Việt Nam, để các ngân hàng thương 
mại Việt Nam hiện đại hơn, đáp ứng tốt nhu cầu 
của khách hàng, từ đó góp phần nâng cao hiệu 
quả trong hoạt động kinh doanh cho các ngân 
hàng thương mại Việt Nam.
2. Cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu trước 
2.1. Cơ sở lý thuyết
Thái độ dẫn đến hành vi: Theo (Ajzen, 1991), 
thái độ dẫn đến hành vi là đánh giá của một cá 
nhân về kết quả thu được từ việc thực hiện một 
hành vi. Thái độ dẫn đến hành vi là mức độ mà 
biểu hiện của hành vi đó được chính bản thân 
cá nhân đánh giá là tích cực hay tiêu cực. Thái 
độ của người tiêu dùng có ảnh hưởng tới ý định 
1. Giới thiệu
Hiện nay, thế giới đang bước vào cuộc cách 
mạng công nghiệp lần thứ IV (CMCN 4.0) - 
cuộc cách mạng mà trong đó các công nghệ 
như thực tế ảo, Internet của vạn vật (Internet 
of Things), in 3D, dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo 
được ứng dụng vào mọi lĩnh vực của đời sống 
kinh tế - xã hội. Cuộc cách mạng này là một xu 
thế lớn, có tác động đến phát triển kinh tế - xã 
hội mỗi quốc gia, từng khu vực và toàn cầu, 
trong đó có Việt Nam. Các ngân hàng thương 
mại Việt Nam hiện nay có một số công nghệ 
mới chưa sử dụng hoặc chỉ sử dụng một phần 
vào quá trình kinh doanh của họ như: 
Mạng lưới thiết bị kết nối Internet (tiếng 
Anh: Internet of Things, viết tắt IoT), các ngân 
hàng chưa thu thập dữ liệu thông thiết bị thông 
minh và cảm biến; chưa quản lý tất cả các sản 
phẩm trên thiết bị thông minh, giao tiếp giữa 
các thiết bị số với nhau; 
Ứng dụng công nghệ sinh trắc học để đảm 
bảo giảm rủi ro cho khách hàng; 
Triển khai Robot tự động để thực hiện các 
giao dịch tại quầy; 
Ứng dụng phần mềm Machine learning để 
phân tích dữ liệu tự động cho các hoạt động 
kinh doanh của ngân hàng. 
Mà trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 
thì các công nghệ trên sẽ phát triển mạnh ở các 
(2) perceived ease of use; (3) trust; (4) social influence; (5) innovativeness; and (6) efficiency; of 
which efficiency was a new factor proposed in this research. Cronbach alpha was used to assess 
the scale reliability, Exploratory Factor Analysis and Confirmatory Factor Analysis helped test 
scale development and scale adaptation study, and Structural Equation Modeling was used for 
testing the model. The results showed that the perceived usefulness, perceived ease of use, trust, 
innovativeness, and the new one – efficiency – have effect to intention of changing technology 
in banks located in Vietnam. From this, implications were given for helping bankers improve 
technology used to increase operating efficiency in industry 4.0.
Keywords: Factors; intention to change; banking business; industrial revolution 4.0.
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 59, 10/2020
52
thức kiểm soát hành vi (Perceived Behavioral 
Control). Nhận thức kiểm soát hành vi phản ánh 
việc dễ dàng hay khó khăn khi thực hiện hành vi 
và việc thực hiện hành vi đó có bị kiểm soát hay 
hạn chế hay không (Fishbein & Ajzen, 1975). 
Trong đó, dự định thực hiện hành vi thường có 
trước khi hành vi thực sự xảy ra, dự định được 
xem như là tiền đề của hành vi (Ajzen, 1991).
Thuyết chi phí giao dịch: Khái niệm chi phí 
giao dịch lần đầu tiên được Ronald Coase đề 
cập trong bài viết nổi tiếng năm 1937 của mình 
với tựa đề “Bản chất của doanh nghiệp”. Chi 
phí giao dịch bao gồm thời gian và chi phí đàm 
phán, soạn thảo, và thực thi các giao dịch hay 
hợp đồng. Thuyết này sau đó được Foss phát 
triển năm 1996 với bản chất là khi đầu tư công 
nghệ sẽ làm giảm chi phí sản xuất và dẫn đến 
giá bán giảm như vậy chi phí giao dịch sẽ giảm 
cho người mua, đó là khách hàng mua được sản 
phẩm giá rẻ nhưng chất lượng là không đổi. Đến 
năm 2004 thì Chen cũng đã nghiên cứu công 
nghệ và năng suất, khi sử dụng công nghệ sẽ 
làm năng suất tăng và chi phí giao dịch sẽ giảm. 
Đối với ngành ngân hàng chi phí này sẽ giảm 
xuống nếu ngân hàng áp dụng công nghệ hỗ trợ 
thực hiện các giao dịch với khách hàng, thay vì 
khách hàng phải đến ngân hàng để yêu cầu thực 
hiện các giao dịch thì ở bất kỳ nơi nào khách 
hàng cũng có thể thực hiện được giao dịch mà 
mình muốn. Ngoài ra thuyết chi phí giao dịch 
còn thể hiện ở điểm khi ngân hàng đầu tư công 
nghệ sẽ làm thay đổi chất lượng sản phẩm và 
tăng hiệu suất phục vụ khách hàng và phát triển 
công nghệ có thể đo lường được chi phí giao 
dịch thay đổi như thế nào.
2.2. Các nghiên cứu trước
Engel và cộng sự (1978) nhóm tác giả sử dụng 
mô hình EKB nghiên cứu các yếu tố liên quan 
đến hành vi người tiêu dùng. Kết quả nghiên cứu 
cho thấy các mối liên hệ cơ bản giữa thành phần 
ảnh hưởng đến hành vi người tiêu dùng gồm bốn 
giai đoạn: (1) thông tin đầu vào, (2) xử lý thông 
của họ (Fishbein & Ajzen, 1975). Phát triển 
trên cơ sở của khái niệm này, (Chaniotakis, 
Lymperopoulos, & Soureli, 2010) đã chỉ ra rằng 
thái độ dẫn đến hành vi là đánh giá của cá nhân 
đó cho rằng việc thực hiện hành vi là xứng đáng 
với số tiền bỏ ra. (Giner-Sorolla, 1999) đã xây 
dựng thang đo cho nhân tố thái độ dẫn đến hành 
vi bao gồm việc cá nhân dự định thực hiện hành 
vi đã nhắm vào hàng hóa/dịch vụ đó từ trước 
và cho rằng nếu thực hiện hành vi sẽ rất tốt cho 
bản thân. Các nghiên cứu vừa nêu đều cho thấy 
giữa thái độ và ý định hành vi luôn có một mối 
liên hệ. Thái độ càng tích cực thì khách hàng 
càng dễ phát sinh ý định.
Chuẩn chủ quan: (Fishbein & Ajzen, 1975) 
Định nghĩa chuẩn chủ quan là sức ép xã hội về 
mặt nhận thức để tiến hành hoặc không tiến 
hành hành vi nào đó. Theo nghiên cứu của 
(Taylor & Todd, 1995) thì sức ép này đến từ 
thái độ ủng hộ hay không ủng hộ việc thực hiện 
hành vi của gia đình, bạn bè và những người 
quan trọng khác. (Ajzen, 1991) phát triển thêm 
từ định nghĩa của mình về chuẩn chủ quan, chỉ 
ra rằng cá nhân có ý định thực hiện hành vi sau 
khi xem xét sự ủng hộ của những người ảnh 
hưởng đối với bản thân và cá nhân nhận thấy 
có nhiều người cũng thực hiện hành vi giống 
như mình dự định. Các công trình nghiên cứu 
kể trên đều cho thấy sự tương quan dương giữa 
chuẩn chủ quan và ý định hành vi. Thế nên, khi 
người tiêu dùng càng nhận được nhiều sự ủng 
hộ từ nhiều nguồn thì ý định hành vi sẽ càng dễ 
phát sinh.
Thuyết hành vi được hoạch định: Thuyết 
hành vi được hoạch định ra đời để giải quyết 
những hạn chế của thuyết TRA, Ajzen đã phát 
triển một lý thuyết gọi là thuyết hành vi được 
hoạch định (TPB) vào năm 1985. Lý thuyết 
hành vi được hoạch định (TPB) do Ajzen (1991) 
dựa trên nền tảng thuyết hành động hợp lý nên 
nó đã kế thừa hai yếu tố của thuyết hành động 
hợp lý và thêm vào nhân tố thứ ba đó là nhận 
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 59, 10/2020
53
ảnh hưởng đến hành vi người tiêu dùng gồm: kỳ 
vọng hiệu năng, kỳ vọng sự cố gắng, ảnh hưởng 
xã hội và điều kiện vật chất.
Navaretti & các cộng sự (2017) cho rằng 
“đổi mới công nghệ và mô hình kinh doanh dựa 
trên công nghệ sẽ giúp ngân hàng tạo ra nhiều 
giá trị nhờ cung cấp nhiều sản phẩm, dịch vụ, 
do đó, mang lại hiệu quả tốt hơn. Tuy nhiên, 
ngân hàng cũng phải đối mặt với áp lực cạnh 
tranh gia tăng và áp dụng các chiến lược mới, 
thay đổi mô hình kinh doanh, chiến lược, chính 
sách của ngân hàng. 
Alavudeen & Sr. Rosa (2015), nghiên cứu đã 
phân tích những tác động của sự phát triển công 
nghệ trong ngành ngân hàng và những thách 
thức mà ngành ngân hàng phải đối mặt do sự 
phát triển công nghệ. Nhóm tác giả đã kết luận: 
“Công nghệ thông tin có tác động đáng kể đến 
hiệu suất và hoạt động của ngành ngân hàng như 
dịch vụ mới, máy ATM, hệ thống thanh toán có 
giá trị lớn, hệ thống thanh toán bán lẻ, đang 
được cung cấp cho khách hàng”. 
Trong nghiên cứu này nhóm tác giả cũng 
dựa trên lý thuyết hành vi và thừa kế kết quả 
của các nghiên cứu trước để thực hiện nghiên 
cứu cho các ngân hàng thương mại Việt Nam, 
cụ thể nhóm tác giả sẽ thừa kế các biến: Tính 
hữu ích của sản phẩm; Tính dễ sử dụng của 
sản phẩm; Tính xã hội của sản phẩm; Lòng tin 
đối với sản phẩm; Tính đổi mới của sản phẩm, 
ngoài ra trong nghiên cứu này tác giả bổ sung 
và điều chỉnh thêm biến “Tính hiệu quả” của 
sản phẩm, đối với nghiên cứu của Venkatesh và 
cộng sự (2003) có đề cập đến điều kiện vật chất, 
còn nghiên cứu Alavudeen & Sr. Rosa (2015) 
đề cập đến hiệu suất của công nghệ, bên cạnh 
đó theo lý thuyết về chi phí giao dịch thì cũng 
xem xét đến hiệu quả của công nghệ, vì vậy 
trong nghiên cứu này tác nhóm giả sử dụng biến 
“Tính hiệu quả” để nghiên cứu cho các ngân 
hàng thương mại Việt Nam.
tin, (3) giai đoạn quyết định quá trình mua hàng, 
(4) ảnh hưởng các yếu tố bên ngoài đến quá trình 
ra quyết định mua hàng. Mô hình này nhấn mạnh 
nhân tố giá trị chuẩn mực xã hội ảnh hưởng đến 
hành vi của người tiêu dùng.
Davis và cộng sự (1989; 1993) xây dựng mô 
hình chấp nhận công nghệ TAM trên nền tảng 
lý thuyết TRA thiết lập các mối quan hệ giữa 
các biến để giải thích hành vi của con người 
về việc chấp nhận sử dụng hệ thống thông tin. 
Kết quả nghiên cứu đã mô tả mối quan hệ giữa 
tính hữu dụng, sự dễ dàng sử dụng của công 
nghệ và thái độ của người sử dụng đối với công 
nghệ đó. Trong đó, thái độ người sử dụng công 
nghệ chịu sự ảnh hưởng của hai nhân tố là: (1) 
nhận thức sự hữu ích và (2) nhận thức về sự dễ 
dàng sử dụng. Ngoài ra, trong mô hình TAM, 
nhận thức của người sử dụng công nghệ chịu sự 
tác động của biến môi trường như kinh nghiệm, 
kiến thức, trình độ đào tạo, quy trình công nghệ.
Thompson (1991) nghiên cứu mô hình chấp 
nhận công nghệ TAM2 trên cơ sở phương pháp 
nghiên cứu của mô hình TAM (1989), tác giả 
đề xuất loại bỏ thành tố “dự định” ra khỏi mô 
hình nghiên cứu, nối trực tiếp từ “thái độ” sang 
“hành vi”. Theo phân tích của Thompson, trong 
thực tế, doanh nghiệp chỉ quan tâm đến hành 
động thực sự của người tiêu dùng, trong khi 
dự định hành động chỉ mang tính xác suất chủ 
quan mà người sử dụng thực hiện hành vi. Kết 
quả nghiên cứu tác giả đề xuất 3 thành phần 
chính ảnh hưởng đến ý định chấp nhận công 
nghệ của người tiêu dùng: (1) nhận thức về việc 
dễ sử dụng, (2) thành phần cảm tính là thái độ 
và (3) là hành động thực sự.
Venkatesh và cộng sự (2003), xây dựng 
lý thuyết thống nhất và sử dụng công nghệ 
(ATAUT) trên cơ sở phát triển mô hình lý thuyết 
TRA, TPB, TAM và lý thuyết sự đổi mới IDT 
để giải thích hành vi và hành vi sử dụng của 
người dùng đối với công nghệ thông tin. Kết 
quả nghiên cứu cho thấy có bốn nhân tố chính 
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 59, 10/2020
54
quan đến ý định thay đổi công nghệ trong 
ngành ngân hàng ở Việt Nam trong bối cảnh 
cuộc CMCN 4.0 như sau:
3. Mô hình nghiên cứu
Như đã đề cập ở phần 2, trong nghiên cứu 
này tác giả đề xuất các biến nghiên cứu liên 
Hữu ích 
Dễ sử dụng 
Tin tưởng 
Xã hội 
Tính đổi mới 
Ý định thay đổi 
công nghệ 
Tính hiệu quả 
H1(+) 
H2(+) 
H3 (+) 
H4 (+) 
H5 (+) 
H6 (+) 
Hình 1. Mô hình đề xuất
3.1. Nhận thức sự hữu ích, nhận thức dễ 
sử dụng
Nhận thức sự hữu ích, sự dễ dàng sử dụng 
các sản phẩm, dịch vụ hoặc công nghệ mới 
được cho là một trong những yếu tố quyết định 
cơ bản đến thái độ và hành vi để khách hàng 
- ở nghiên cứu này là những nhà quản lý ngân 
hàng - chấp nhận đổi mới công nghệ. Biến này 
nhóm thừa kế nghiên cứu của Taylor & Todd 
(1995); Pikkarainen & cộng sự (2004), Suh & 
Han (2002), Laforet & Li (2005), Luarn &Lin 
(2005), Yiu & cộng sự (2007); Nguyễn Duy 
Thanh & Cao Hào Thi (2014). Như vậy với 
các bằng chứng thực nghiệm đều cho thấy sự 
hữu ích và dễ sử dụng có tác động đến ý định 
thay đổi công nghệ, do đó trong nghiên cứu 
này tác giả cũng thừa kế kết quả này và đặt ra 
giả thuyết sau:
Giả t ...  sử dụng, Sự 
tin tưởng, Tính đổi mới và Tính hiệu quả 
Để tăng hiệu quả hoạt động ngân hàng thì một 
trong những yếu tố cần thiết đó chính là sự thay 
đổi công nghệ. Trong các yếu tố được đưa vào 
nghiên cứu, Yếu tố “Sự hiệu quả” (HQ) là yếu 
tố có tính mới được nhóm tác giả xây dựng và 
phát triển trong bối cảnh CMCN 4.0 tại Việt 
Nam. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra yếu tố này 
(HQ) có ảnh hưởng đến sự thay đổi công nghệ 
của ngân hàng và ảnh hưởng lớn nhất đến sự 
thay đổi công nghệ của ngành ngân hàng tại 
Việt Nam (với hệ số là 0.320). Trong nghiên 
cứu này cho thấy tính hiệu quả của công nghệ 
sẽ tác động đến ý định thay đổi công nghệ, như 
vậy khá phù hợp với nghiên cứu Navaretti & 
các cộng sự (2017) đổi mới công nghệ giúp 
ngân hàng mang lại hiệu quả tốt hơn. Bên cạnh 
đó, các nghiên cứu của Mala (2017), Alavudeen 
& Sr.Rosa (2015), Campanella, Peruta & 
Giudice (2015), Ho & Mallick (2006), Phạm 
Xuân Hòe (2017), Bùi Quang Tiên (2017) cũng 
có cùng quan điểm và khẳng định “công nghệ 
mang lại nhiều giá trị quan trọng, gia tăng năng 
lực cạnh tranh, doanh thu và thị phần cho ngân 
hàng”. Với kết quả nghiên cứu này đã cho thấy 
lý thuyết chi phí giao dịch là phù hợp với điều 
kiện nghiên cứu tại các NHTM Việt Nam.
Các yếu tố khác gồm: Hữu ích (HI), Dễ sử 
dụng (SD), Sự tin tưởng (STT), Đổi mới (DM) 
có mối quan hệ tích cực đến sự thay đổi công 
nghệ trong ngân hàng. Kết quả nghiên cứu này 
phù hợp với nghiên cứu trước đây của Taylor 
& Todd (1995), Pikkarainen & cộng sự (2004), 
Suh & Han (2002), Laforet & Li (2005), Luarn 
&Lin (2005), Yiu & cộng sự (2007), Venkatesh 
& Zang (2010), Safeena & cộng sự (2011), 
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 59, 10/2020
63
định thay đổi công nghệ. Trong nghiên cứu tiếp 
theo nhóm tác giả sẽ tiếp tục nghiên cứu mối 
quan hệ từ ý định thay đổi công nghệ đến quyết 
định thay đổi công nghệ.
Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo: 
Trong nghiên cứu này nhóm tác giả chưa thực 
hiện xem xét mối quan hệ giữa các yếu tố ảnh 
hưởng đến ý định thay đổi công nghệ; quyết 
Tài liệu tham khảo
Agarwal, R. and Prasad, J. (1998). A Conceptual and Operational Definition of Personal Innovativeness in 
the Domain of Information Technology. Information Systems Research, 9, 204-224.
Ajzen, I. (1985). From intentions to actions: A theory of planned behavior. In J. Kuhl & J. Beckmann 
(Eds.), Action control: From cognition to behavior. Berlin, Heidelber, New York: Springer-Verlag. 
(pp. 11-39).
Ajzen, Icek. (1991). The theory of planned behavior. Organizational Behavior and Human Decision 
Processes. 50 (2): 179–211.
Ajzen, I (2002). Perceived Behavioral Control, Self-Efficacy, Locus of Control, and the Theory of Planned 
Behavior. Journal of Applied Social Psychology, 32 (4): 665–683
Alavudeen R. & Rosa K. D. (2015). Impact Of Technological Advancements In The Banking Sector, 
Pezzottaite Journals, Volume 4, Number 3, July – September’ 2015 ISSN (Print):2319- 9016, 
(Online):2319-9024
Ali O. Al-Jaafreh, Raid Al-adaileh, Asif Gill, Ahmed Al-Ani & Yehia alzoubi (2014), A Review of Literature 
of Initial Trust in E-Services: The Case of Internet Banking Services in Jordanian Context. Journal of 
Electronic Banking Systems, 2014, Article ID 690673.
Amin, H. Hamid, M., Lada, S. and Anis, Z. (2008), The adoption of mobile banking in Malaysia: the case 
of Bank Islam Malaysia Berhad (BIMB). International Journal of Business and Society, Vol. 9 No. 
2, pp. 43-53.
Boskin, B., and Lau, L. (1992). Capital, Technology and Economic Growth. In Landau, Ralph, Nathan 
Rosemberg and David Mowery. Technology and the Wealth of the Nations, Stanford: Stanford 
University Press.
Bùi Quang Tiên (2017), Tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với ngành Ngân hàng Việt Nam và cơ 
hội, thách thức đối với lĩnh vực thanh toán; Tạp chí Ngân hàng. Số 8/2017 .- Tr. 2 – 5.
Campanella, F., Della Peruta, M. R., & Del Giudice, M. (2015). The Effects of Technological Innovation 
on the Banking Sector. Journal of the Knowledge Economy, 8(1), 356-368. https://doi.org/10.1007/
s13132-015-0326-8
Chaniotakis, I. E., Lymperopoulos, C., & Soureli, M. (2010). Consumers’ intentions of buying own-label 
premium food products. Journal of Product & Brand Management, 19(5), 327–334.
Chaudhuri A. & Holbrook B. M. (2001). The Chain Of Effects From Brand Trust And Brand Affects To 
Brand Performance: The Role of Brand Loyalty. Journal of Marketing, Vol.65, p.81-93.
Cheng, Q. & Song, Y. F. (2008). Customer acceptance of Internetbanking: Integrating trust & quality with 
UTAUT Model.
Chitungo, S.K. & Munongo, S., (2013). Extending the Technology Acceptance Model to Mobile Banking 
Adoption in Rural Zimbabwe. Journal of Business Administration and Education, 3(1), 51-79.
Dasgupta, S., R. Paul, and S. Fuloria. (2011). Factors affecting behavioral intentions towards mobile banking 
usage: Empirical evidence from India, Romanian Journal of Marketing, Vol. 3, No. 1, pp. 6-28.
Davis, F.D, Bagozzi, R.P & Warshaw, P.R. (1989). User acception of computer technology: A comparision 
of two theoretical models. Management Science, 982-1003.
Davis, F.D. (1993). User acceptance of information technology: System characteristics, user perceptions 
and behavioral impacts. International Journal of ManMachine Studies, 38, 475-487
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 59, 10/2020
64
Engel J., Kollatt D. & Blackewll R. (1978). Consumer behavior, Dryden Press.
Fishbein, M. & Ajzen, I. (1975). Belief, attiude, intention & behavior: An introduction to theory & research. 
Reading, MA: Addison-Wesley.
Foon, Y.S. and Fah, B.C.Y. (2011). Internet Banking Adoption in Kuala Lumpur: An Application of UTAUT 
Model. International Journal of Business and Management, 6, 161-167.
Fornell, C., & Larcker, D. F. (1981). Structural equation models with unobservable variables and measurement 
error: Algebra and statistics. Journal of Marketing Research, 382-388.
Fornell, C. & Larcker, D. F. (1981). Evaluating structural equation models with unobservable variables and 
measurement error. Journal of marketing research, 18(1), 39-50.
Foxall, G.R., & Goldsmith. R. (1988). Personality & consumer reseach: Another look. Journal of the Market 
Reseach Society, 30 (2), 111-125.
Giner-Sorolla, R. & García, M. & Bargh, J. (1999). The Automatic Evaluation of Pictures. Social Cognition. 
17. 76-96. 10.1521/soco.1999.17.1.76.
Gerbing, D. W. & Anderson, J. C. (1988). An Updated Paradigm for Scale Development Incorporating 
Unidimensionality and Ít Assessment. Journal of Marketing Research, 25 (2): 186-192.
Hair, J. F., Anderson, R. E., Tatham, R. L., & Black, W. C. (1992). Multivariate Data Analaysis. 3rd ed. 
Macmillan, New York.
Hair JF, Anderson RE, Tatham RL, Black WC (1995). Multivariate data analysis with readings. 4th ed. 
Englewood Cliffs, NJ: Prentice Hall.
Hair, J., Black, W., Babin, B., Anderson, R., & Tatham, R. (2006). Multivariate data analysis. Upper Saddle 
River, N.J: Pearson Prentice Hall.
Hair, J., Black, W., Babin, B., Anderson, R., Tatham, R. and Black, W. (2010). Multivariate Data Analysis. 
7th edition, Prentice-Hall International Inc., Upper Saddle River.
Ho & Mallick. (2016). The Impact of Information Technology on the Banking Industry: Theory and Empirics. 
Information System Research, 9 (1), 1-9.
Hoàng Trọng, Chu Nguyễn Mộng Ngọc. (2008). Phân tích dữ liệu nghiên cứu với SPSS. NXB Hồng Đức.
Gerbing, D. W. & Anderson, J. C. (1988). An updated paradigm for scale development incorporating uni-
dimensionality and its assessment. Journal of Marketing Research, 25(2), 186-192
Im, S., Bayus, B.L., Mason, C.H., 2003. An empirical study of innate consumer innovativeness, personal 
characteristics, and new-product adoption behavior. Journal of the Academy of Marketing Science, 
31, 61–73.
Joseph, M., McClure, C. and Joseph, B. (1999). Service quality in the banking sector: the impact of 
technology on service delivery. International Journal of Bank Marketing, Vol. 17 No. 4, pp. 182–191.
Joseph, M. and Stone, G. (2003). An empirical evaluation of us bank customer perceptions of the impact of 
technology on service delivery in the banking sector. International Journal of Retail & Distribution 
Management, Vol. 31 No. 4, pp. 190-202.
Joshua, A.J. (2009). Adoption of technology-enabled banking self-services: antecedents & consequences 
(Doctoral dissertation), Update 25/12/2014
( enabled%20
banking%20self services%20...pdf‘?sequence=l)
Khalil, Tarek et al. (Eds.). (2001). Management of Technology: The Key to prosperity in the Third 
Millennium. Elsevier Science, Oxford, UK.
Laforet, S. and Li, X. (2005). Consumers Attitudes towards Online and Mobile Banking in China. 
International Journal of Bank Marketing, 23, 362-380
Luarn, P. & Lin, H.H. (2005). Toward an understanding of the behavioral intention to use mobile banking. 
Computers in Human Behavior, Vol. 21, 873-891.
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 59, 10/2020
65
Mala, K. & Phil. M, (2017). International Journal of Pharmaceutical Sciences and Business Management, 
Vol. 5 Issue. 1, January - 2017, pg. 1-7.
Manning, K.C. Bearden, W.O & Madden, T.J. (1995). Consumer inovativeness & adoption process. Journal 
of consumer Psychology, 4, 329 – 345
Mulligan, P. and Gordon, S. (2002). The impact of information technology on customer and supplier 
relationships in the financial services. International Journal of Service Industry Management, Vol. 
13 No. 1, pp. 29-46.
Muneer, A. (2011). E-banking in Jordan. Behaviour & Information Technology. 2011. 
10.1080/0144929X.2011.586725.
Muneer, A.; Juma’h A. and Mustafa, A. (2012). The Development of E-Banking in Developing Countries in 
the Middle East. Journal of Finance. Accounting and Management, 3(2), 107-123.
Navaretti & Calzolari & Mansilla-Fernandez & Pozzolo. (2017). FinTech and Banking. Friends or Foes?
Nguyễn Duy Thanh & Cao Hào Thi. (2014). Mô hình cấu trúc cho sự chấp nhận sử dụng ngân hàng điện tử 
ở Việt Nam, Tạp chí phát triển kinh tế số 281.
Phạm Xuân Hòe, (2017) Định hướng tiếp cận, ứng dụng cách mạng công nghiệp 4.0 của ngân hàng Việt 
Nam, Tạp chí Thị Trường Tài Chính Tiền Tệ. Số 15/2017. Tr.18-21.
Pikkarainen, T., Pikkarainen, K., Karjaluoto, H., Pahnila, S. (2004)., Consumer acceptance of online banking: 
an extension of the technology acceptance model. Internet Research, Vol. 14, No. 3, pp. 224-235
Puschel, J., J. A. Mazzon, and J. M. C. Hernandez. (2010). Mobile banking: Proposition of an integrated 
adoption intention framework. International Journal of Bank Marketing, Vol. 28, No. 5: 389-409.
Ratten, V. (2008). Technological Innovations in the M-Commerce Industry: A Conceptual Model of WAP 
Banking Intentions. Journal of High Technology Management Research, 18(2), pp. 111-117
Rauyruen P. & K. E. Miller. (2007). Relationship quality as a predictor of B2B customer loyalty. Journal of 
Business Research, 60, 21–31.
Rishi, M. & Saxena, S. C. (2004). Technological innovations in the Indian banking industry: The late 
bloomer. Accounting, Business and Financial History, 14(3), pp. 339-353. 
Riquelme, H., & Rios, R.E. (2010). The moderating effect of gender in the adoption of mobile banking. 
International Journal of Bank Marketing, 28(5), 328-341.
Safeena, R. & Date, H. & Kammani, A. (2011). Internet banking adoption in an emerging economy: Indian 
consumer’s perspective, International Arab Journal of E- Technology, 2 (1) (2011), pp. 56-64.
Saibaba, S., & Naryana, M. T. (2013). determinants of internet banking acceptance in india – a structural 
equation modeling (SEM) approach, 4(4), 485–496.
Schilling, M. A. (2009). Strategic Management of Technological Innovation. Mc GrawHill.
Schwartz (1994). Are there universal aspects in the structure and contents of human values. Journal of 
Social Issues, 50(4):19-46
Sentosa.I., Ming, C. W. (2012). Bambang Bemby Soebyakto & Nik Kamariah Nik Mat: A Structural 
Equation Modeling Of Internet Banking Usage In Malaysia. Journal Of Arts, Science & Commerce, 
3(1), 2012, 75-87.
Singh, S., Srivastava, V., Srivastava, R. K. (2010). Customer acceptance of mobile banking: A conceptual 
framework. SIES Journal of Management, 7, 55-64
Sripalawat, J., Thongmak, M., & Ngramyarn, A. (2011). M-banking in metropolitan Bangkok and a 
comparison with other countries. The Journal of Computer Information Systems, 51(3), 67-76
Steenkamp, J and van Trijp, H. (1991). The use of Lisrel in validating marketing constructs. International 
Journal of Research in Marketing, 8(4), 283–299.
Steenkamp JBEM, ter Hofstede F, Wedel M. (1999). A cross-national investigation into the individual and 
national cultural antecedents of consumer innovativeness. J Mark; 63:55–69
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 59, 10/2020
66
Solow, R.M. (1987). We’d Better Watch Out. New York Times Book Review, July 12, p.36.
Steenkamp, J. B. E. M., Batra, R., & Alden, D. L. (2003). How perceived brand globalnes creates brand 
value. Journal of International Business Studies, 34, 53-65
Sudeep, S. (2008). Internet Banking and Customer Acceptance: The Indian scenario (Doctoral 
dissertation)
Retrieved from: 
pdf?sequence=6 (2008)
Suh, B., & Han, I. (2002). Effect of trust on customer acceptance of internet banking. Electronic Commerce 
Research and Applications, 1, pp. 247–263.
Taylor, S., & Todd, P. (1995). Decomposition and crossover effects in the theory of planned behavior: 
A study of consumer adoption intentions. International Journal of Research in Marketing, 12(2), 
137–155.
Venkatesh, V., Morris, M.G., Davis, G.B. and Davis, F.D. (2003). User Acceptance of Information 
Technology: toward a Unified View. MIS Quarterly, Vol. 27 No. 3, pp. 425-478.
Venkatesh, V., & Zhang, X. (2010). Unified theory of acceptance and use of technology: U.S. vs. China. 
Journal of Global Information Technology Management, 13(1), 5-27.
Venkatraman, M.P., Price, L.L. (1990). Differentiating between cognitive & sensory innovativeness: 
concepts, measurements, & implications. Reseach, 20, 293-315.
Wang, Yi-Shun & Wang, Yu-Min & Lin, Hsin-Hui & Tang, Tzung-I. (2003). Determinants of User Acceptance 
of Internet Banking: An Empirical Study. International Journal of Service Industry Management, 14, 
501-519. 
Yiu, C.S., Grant, Y.K. and Edgar, D. (2007). Factors affecting the adoption of internet banking in Hong 
Kong – implications for the banking sector. International Journal of Information Management, Vol. 
2, pp. 336-351
Yu, C.-S. (2012). Factors Affecting Individuals To Adopt Mobile Banking: Empirical Evidence From The 
Utaut Model. Journal of Electronic Commerce Research, 13(2), 104-21
Zhou, T., Lu, Y., and Wang, B. (2010). Integrating TTF and UTAUT to Explain Mobile Banking User 
Adoption. Computers in Human Behavior, Vol. 26, pp. 760–767.
Zhou, Tao. (2011). An empirical examination of initial trust in mobile banking. Internet Research, Vol. 21 
No. 5, pp. 527-540.

File đính kèm:

  • pdfyeu_to_tac_dong_den_y_dinh_thay_doi_cong_nghe_trong_hoat_don.pdf