Yếu tố nguy cơ của nhiễm trùng tiểu sau mổ sanh

Tỉ lệ mổ sanh ngày càng gia tăng trên khắp thế giới, đã chiếm hơn 50% trường hợp sanh tại nhiều trung tâm.

Nhiễm trùng tiểu (NTT) là loại nhiễm khuẩn bệnh viện thường gặp nhất và có thể dẫn đến nhiều biến chứng

nguy hiểm. Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 1.095 sản phụ mổ sanh tại bệnh viện Hùng

Vương trong thời gian từ 01/03/2006 đến 31/05/2006 nhằm xác định tần suất hiện mắc và yếu tố nguy cơ của

NTT sau mổ sanh. Tất cả bệnh nhân nghiên cứu đều được xét nghiệm tổng phân tích nước tiểu (10 thông số)

vào ngày hậu phẫu thứ hai và những trường hợp nghi ngờ đều được cấy nước tiểu để xác định chẩn đoán.

Trong thời gian nghiên cứu, có 6,8% bệnh nhân hậu hẫu được chẩn đoán NTT theo tiêu chuẩn chẩn đoán của

CDC, với 91% được chẩn đoán xác định bằng cấy nước tiểu. Sau khi khống chế nhiễu bằng phương trình hồi

qui đa biến số, có 3 yếu tố nguy cơ của nhiễm trùng tiểu sau mổ sanh, bao gốm thời gian đặt thông tiểu (TSC

hiệu chỉnh 1,31 cho tăng mỗi 12 giờ; KTC 95% 1,09‐1,58), thời gian chuyển dạ kéo dài hơn 12 giờ (TSC hiệu

chỉnh 1,95; KTC 95% 1,14‐3,32) và vô cảm bằng gây mê toàn thân (TSC hiệu chỉnh 1,81; KTC 95% 1,01‐3,34). Kết

quả nghiên cứu cho thấy không nên lưu thông tiểu lâu sau mổ sanh, và những sản phụ có nguy cơ cao cần

được xác định và theo dõi chặt chẽ.

pdf 6 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Yếu tố nguy cơ của nhiễm trùng tiểu sau mổ sanh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Yếu tố nguy cơ của nhiễm trùng tiểu sau mổ sanh

Yếu tố nguy cơ của nhiễm trùng tiểu sau mổ sanh
YẾU TỐ NGUY CƠ CỦA NHIỄM TRÙNG TIỂU 
SAU MỔ SANH  
Trần Sơn Thạch, Trần Văn Út, Nguyễn Thị Bích Duyên, Vũ Thị Hạnh Như, Trần Thị Hoa Vi 
Tỉ lệ mổ sanh ngày càng gia tăng trên khắp thế giới, đã chiếm hơn 50% trường hợp sanh tại nhiều trung tâm. 
Nhiễm trùng tiểu (NTT) là loại nhiễm khuẩn bệnh viện thường gặp nhất và có thể dẫn đến nhiều biến chứng 
nguy hiểm. Nghiên  cứu mô  tả  cắt ngang  được  thực hiện  trên  1.095  sản phụ mổ  sanh  tại  bệnh viện Hùng 
Vương trong thời gian từ 01/03/2006 đến 31/05/2006 nhằm xác định tần suất hiện mắc và yếu tố nguy cơ của 
NTT sau mổ sanh. Tất cả bệnh nhân nghiên cứu đều được xét nghiệm tổng phân tích nước tiểu (10 thông số) 
vào ngày hậu phẫu  thứ hai và những  trường hợp nghi ngờ đều được cấy nước  tiểu để xác định chẩn đoán. 
Trong thời gian nghiên cứu, có 6,8% bệnh nhân hậu hẫu được chẩn đoán NTT theo tiêu chuẩn chẩn đoán của 
CDC, với 91% được chẩn đoán xác định bằng cấy nước tiểu. Sau khi khống chế nhiễu bằng phương trình hồi 
qui đa biến số, có 3 yếu tố nguy cơ của nhiễm trùng tiểu sau mổ sanh, bao gốm thời gian đặt thông tiểu (TSC 
hiệu chỉnh 1,31 cho  tăng mỗi 12 giờ; KTC 95% 1,09‐1,58),  thời gian chuyển dạ kéo dài hơn 12 giờ  (TSC hiệu 
chỉnh 1,95; KTC 95% 1,14‐3,32) và vô cảm bằng gây mê toàn thân (TSC hiệu chỉnh 1,81; KTC 95% 1,01‐3,34). Kết 
quả nghiên cứu cho  thấy không nên  lưu  thông  tiểu  lâu sau mổ sanh, và những sản phụ có nguy cơ cao cần 
được xác định và theo dõi chặt chẽ. 
Risk factors for post-cesarean urinary tract infection 
Worldwide health care systems have witnessed the steady increase of Cesarean section, contributing more than 
50% of deliveries  in many  institutes. Urinary  tract  infection  (UTI)  is  the  commonest post‐cesarean  infection 
which could  result  in many  serious  complications. A cross‐sectional  study was carried out on 1,095 women 
delivered abdominally between March 01 and May 31, 2006 at Hung Vuong Hospital to identify the prevalence 
of  and  the  risk  factors  for post‐cesarean UTI. All  study  subjects were  screened using  10‐parameter urinary 
analysis  at  the  second  postoperative  day  and  urinary  cultures were  indicated  for  all  suspected  cases.  The 
prevalence  of post‐cesarean UTI, defined  by CDC  criteria, was  6.8%,  among which  91% was  confirmed  by 
urinary cultures. Three independent risk factors of post‐cesarean UTI were indwelling urinary catheterization 
duration  (adjusted odd ratio  [OR] 1.31  for every 12‐hour  increase, 95% C] 1.09‐1.58), duration of  labor more 
than  12  hours  (OR  1.95,  95%CI  1.14‐3.32)  and  general  anesthesia  (OR  1.81,  95%CI  1.01‐3.34).  It would  be 
recommended  that  urinary  catheter  should  be  removed  soon  postoperatively, whilst  the  high‐risk  patients 
should be identified and monitored closely using the standard institutional protocol.  
Bệnh viện Hùng Vương, 128 Hồng Bàng, Quận 05, Tp. HCM (TS Thạch TS.BS, TV Út BS), Trung tâm đào tạo và bồi dưỡng 
cán bộ y tế (NTB Duyên, VTH Như, TTH Vi) 
Liên hệ: TS Thạch (email: [email protected]) 
Đặt vấn đề 
Mổ  sanh  ngày  càng  gia  tăng,  chiếm  đến  hơn 
50%  trường  hợp  sanh  tại  nhiều  bệnh  viện 
chuyên khoa trên thế giới. Tại Tp Hồ Chí Minh, 
tỉ  lệ mổ  sanh gia  tăng  từ 20,2% vào năm 2000 
lên đến 35% vào năm 2006.1 So với sanh ngã âm 
đạo, mổ  sanh  làm  gia  tăng  các  biến  chứng,2,  3 
trong  đó  có  biến  chứng  nhiễm  trùng  tiểu 
(NTT).4 NTT gia tăng gấp 2,7 lần (KTC 95% 2,3‐
3,2) nếu sản phụ được mổ sanh.4 Nhiễm  trùng 
tiểu  làm kéo dài  thời gian nằm viện, gia  tăng 
chi phí  điều  trị, và  làm  ảnh hưởng nhiều  đến 
sức khỏe người mẹ.5 Nhiều báo cáo ghi nhận có 
khoảng 2 đến 14,5% bệnh nhân mổ sanh được 
chẩn đoán NTT.6‐10 Trong một nghiên cứu  tiền 
cứu vào năm 1997  tại BV Hùng Vương, chỉ có 
2% bệnh nhân mổ sanh được chẩn đoán NTT.6 
Tuy nhiên vì NTT không được chủ động chẩn 
đoán trong nghiên cứu này, nên tỉ lệ 2% rõ ràng 
chưa đánh giá đúng mức độ của NTT sau mổ 
sanh tại Việt Nam.  
  Ngoài ra,  thật ngạc nhiên vì dù  là một biến 
chứng  rất phổ biến nhưng  cho  đến  thời  điểm 
hiện  tại yếu  tố nguy cơ của NTT sau mổ sanh 
chưa  được  đánh giá một  cách  đầy  đủ. Chỉ  có 
một thử nghiệm lâm sàng tại Thái Lan vào năm 
199411 ghi nhận hình thức đặt thông tiểu có thể 
ảnh  hưởng  đến NTT  sau mổ  sanh. Trong  khi 
đó,  chưa  có nghiên  cứu nào  tại Việt Nam  xác 
định yếu tố nguy cơ của NTT sau mổ sanh, mặc 
dù việc xác định nhóm bệnh nhân nguy cơ cao 
đóng  vai  trò hết  sức  quan  trọng  trong nỗ  lực 
khống chế nhiễm trùng sau mổ sanh nói chung, 
và NTT nói riêng, trong hoàn cảnh thực tế của 
các nước đang phát triển. Vì vậy chúng tôi tiến 
hành nghiên cứu này với mục tiêu xác định tần 
suấtt  hiện mắc  và  những  yếu  tố  nguy  cơ  của 
NTT sau mổ sanh tại BV Hùng Vương.  
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên  cứu  cắt  ngang  được  tiến  hành  trong 
thời  gian  từ  1/3/2006  đến  31/5/2006  tại  khoa 
Hậu  phẫu  của  BV Hùng  Vương,  Tp. Hồ  Chí 
Minh.  BV Hùng  Vương  là  bệnh  viện  chuyên 
nghành  sản  phụ  khoa  và  sơ  sinh  với  khoảng 
30.000  trường hợp  sanh với  tỉ  lệ mổ  sanh vào 
năm  2006  là  29,3%.  Bệnh  viện  Hùng  Vương 
chịu trách nhiệm chỉ đạo kỹ thuật và nhận bệnh 
nhân  từ 24 quận huyện  của Tp. Hồ Chí Minh 
và một số huyện của các tỉnh lân cận. 
  Tất  cả  bệnh nhân mổ  sanh  trong  thời  gian 
nghiên  cứu  nằm  tại  khoa  Hậu  phẫu  của  BV 
Hùng Vương  được mời  tham gia nghiên  cứu. 
Những bệnh nhân có chẩn đoán NTT trước mổ 
và  những  bệnh  nhân  chuyển  viện  trước  ngày 
thứ  hai  phậu  phẫu  được  loại  ra  khỏi  nghiên 
cứu này. Vào ngày hậu phẫu thứ hai, tất cả các 
sản phụ nằm tại khoa Hậu phẫu nếu thỏa tiêu 
chuẩn  chọn mẫu  và  đồng  ý  tham  gia  nghiên 
cứu được  làm tổng phân tích nước tiểu và cặn 
lắng  (xét  nghiệm  10  thông  số).  Những  bệnh 
nhân còn  lưu thông tiểu sẽ được  lấy nước tiểu 
sau khi  rút  thông  tiểu. Bệnh nhân được nhóm 
nghiên cứu hướng dẫn cách lấy nước tiểu đúng 
cách vào một  lọ  thử vô  trùng. Bệnh nhân phải 
rửa  tay sạch, sau đó rửa vùng hội âm 4  lần  từ 
trước ra sau, sau đó phải loại bỏ nước tiểu đầu 
dòng trong lúc tiểu tự nhiên, và chú ý không để 
tay  chạm  vào  miệng  lọ  đựng  nước  tiểu.  Lọ 
đựng nước tiểu được gửi ngay cho nữ hộ sinh 
và gửi  xuống phòng  xét nghiệm  để  thực hiện 
tổng phân  tích nước  tiểu  và  cặn  lắng. Những 
bệnh nhân có  triệu chứng  lâm sàng NTT hoặc 
có kết quả  tổng phân  tích nước  tiểu nghi ngờ 
NTT‐ bao gồm nitrit và bạch  cầu  (+) hoặc  cặn 
lắng có ≥ 3 bạch cầu/quang trường 40‐ được cấy 
nước  tiểu  để  xác  định  chẩn  đoán.  Bệnh  nhân 
được chẩn đoán NTT nếu có một trong hai tiêu 
chuẩn sau12: 
Tiêu chuẩn 1:   bệnh nhân có  ít nhất một  trong 
các  triệu  chứng  sau mà  không  tìm  ra  nguyên 
nhân:  sốt>  380C  hoặc  tiểu  gắt,  tiểu  buốt,  đau 
vùng  mu  và  cấy  nước  tiểu  (+)  >  105  khuẩn 
lạc/cm3 nước tiểu với chỉ một tác nhân. 
Tiêu chuẩn 2:   bệnh nhân có  ít nhất một  trong 
các  triệu  chứng  sau mà  không  tìm  ra  nguyên 
nhân:  sốt>  380C  hoặc  tiểu  gắt,  tiểu  buốt,  đau 
vùng mu  và  có một  trong  các  điều  kiện dưới 
đây: 
+ Thử   nước  tiểu  (+) với esterase hoặc nitrite 
của bạch cầu. 
+ Tiểu mủ > 10 bạch cầu/mm3 nước tiểu hoặc 
3 bạch cầu/quang trường 40. 
  + Nhuộm  gram  thấy  vi  khuẩn  trong  nước 
tiểu tươi. 
+  Ít nhất  2  lần  cấy nước  tiểu  (+)>  102 khuẩn 
lạc/cm3 với cùng một tác nhân. 
+ Cấy  nước  tiểu  ≤105  khuẩn  lạc/cm3  với  chỉ 
một  tác nhân  ở một người  bệnh  đang  được 
điều trị với kháng sinh hiệu quả chống NTT. 
+ Chẩn đoán của bác sĩ điều trị. 
+ Bác sĩ áp dụng phác đồ điều trị NTT. 
Những thông tin về đặc điểm bản thân, thai kỳ, 
chuyển dạ, mổ sanh và theo dõi hậu phẫu được 
ghi nhận vào Bảng thu thập số liệu soạn sẵn. Số 
liệu hoàn tất khi bệnh nhân xuất viện. Cỡ mẫu 
được tính toán dựa vào kết quả của một nghiên 
cứu  điểm,  được  tiến hành  từ  20‐28/2/2007.  Để 
kiểm định giả  thiết về mối  liên quan giữa  thời 
gian  đặt  thông  tiểu với nguy  cơ NTT  sau mổ 
sanh,  với  α=5%,  β=20%,  cần  tối  thiểu  996 
trường hợp mổ sanh, trong đó có 10% được đặt 
thông  tiểu kéo dài. Số  liệu được quản  lý bằng 
phần mềm Excel 2000 và phân  tích bằng phần 
mềm STATA 8.0. Tất cả các biến số có khả năng 
liên  quan  đến  kết  cục  (P≤  0,2)  và  các  biến  số 
nghi ngờ  là yếu  tố gây nhiễu sẽ được đưa vào 
phương trình hồi qui đa biến số và được phân 
tích  theo  phương  thức  loại  ra  dần  (backward 
stepwise). Mức  độ  0,05  được  đánh giá  là  có ý 
nghiã thống kê. 
Kết quả 
Trong thời gian nghiên cứu, tại khoa hậu phẫu 
bệnh viện Hùng Vương, chúng tôi ghi nhận có 
1.095  sản  phụ mổ  sanh  thỏa  tiêu  chuẩn  chọn 
vào mẫu  nghiên  cứu,  trong  đó  có  74  trường 
hợp được chẩn đoán NTT sau mổ sanh, chiếm 
tỉ lệ 6.8%. Đặc điểm mẫu nghiên cứu được ghi 
nhận trong Bảng 1. Đa số bệnh nhân trong mẫu 
nghiên  cứu  sanh  lần  đầu  với  8,4%  đã  từng 
sảy/nạo  hút  thai  từ  2  lần  trở  lên  (9,4%  trong 
nhóm NTT và 8,3% trong nhóm không NTT). 
Bảng 1. Đặc điểm mẫu nghiên cứu 
Đặc điểm NTT (+) 
(n=74) 
NTT (-) 
(n=1.021) 
Tổng cộng 
(N=1.095) 
Tuổi 30,1± 6,0 29,8± 5,8 29,9± 5,8 
Tiền sử thai kỳ 
Con so 
Con lần 2 
Con lần 3 
> lần 3 
66,2% 
27,0% 
 5,4% 
 1,4% 
57,0% 
36,6% 
 5,4% 
 1,0% 
57,6% 
36,0% 
 5,4% 
 1,0% 
Nghề nghiệp 
Nội trợ 
CN/thợ 
Buôn bán 
CNV 
Làm ruộng 
29,7% 
31,1% 
13,5% 
18,9% 
 6,8% 
39,9% 
27,3% 
16,0% 
13,7% 
 3,1% 
39,2% 
27,6% 
15,8% 
14,0% 
 3,4% 
Học vấn 
Mù chữ 
Cấp 1 
Cấp 2 
Cấp 3 
> Cấp 3 
 2,7% 
18,9% 
40,5% 
25,7% 
12,2% 
 2,4% 
15,3% 
45,8% 
29,3% 
 7,2% 
 2,4% 
15,5% 
45,5% 
29,0% 
 7,6% 
Nơi khám thai 
BV Sản 
Trạm y tế 
Bác sĩ tư 
BV đa khoa 
TT Y Tế 
Không khám 
44,6% 
14,8% 
17,6% 
10,8% 
12,2% 
 0 
55,4% 
13,2% 
12,8% 
 9,9% 
 7,9% 
 0,8% 
54,7% 
13,3% 
13,2% 
10,0% 
 8,1% 
 0,7% 
Tuổi thai (tuần) 39,2± 1,7 39,1± 1,8 39,1± 1,8 
Ngoài  ra,  đa  số  bệnh  nhân  nghiên  cứu  đều 
khoẻ mạnh, chỉ có 14,3% có bệnh  lý kèm  theo 
với đa số  là cao huyết áp,  tiền sản giật  (79,7% 
trong nhóm NTT và 86,1%  trong nhóm không 
NTT). Chỉ có 8 bệnh nhân không đi khám thai, 
trong khi đó có đến 92,3% bệnh nhân đi khám 
thai từ 3 lần trở lên (89,2% trong nhóm NTT và 
92,6%  trong  nhóm  không NTT),  với  hơn  50% 
khám tại các bệnh viện chuyên khoa.  
  Bệnh nhân  trong nhóm nghiên  cứu  có  thời 
gian  chuyển  dạ  trung  bình  là  7,8  giờ  (9,3  giờ 
trong nhóm NTT và 7,7 giờ trong nhóm không 
NTT), với 30 trường hợp ghi nhận có sốt trong 
chuyển dạ  (Bảng 2). Có  đến 1/3  số bệnh nhân 
được mổ  sanh vì  thai  trình ngưng  tiến và bất 
xứng đầu chậu, với tỉ lệ tương đương trong hai 
nhóm  nghiên  cứu  (31%  trong  nhóm  NTT  và 
31,9% trong nhóm không NTT). Mổ sanh vì thai 
suy  (13,6%)  và  hội  chứng  chèn  ép  rốn  (7,8%) 
cũng khá thường gặp. Bên cạnh đó, có hơn 93% 
trường hợp cuộc mổ hoàn thành trong vòng 60 
phút  với  lượng  máu  mất  trung  bình  343ml 
(±171ml). 
  Có  1/3  số  bệnh  nhân  nghiên  cứu  được  sử 
dụng  kháng  sinh  trong  thời  gian  chuyển  dạ, 
chủ yếu  để dự phòng  trong  trường hợp  ối vỡ 
non.  Trong  khi  đó  tất  cả  bệnh  nhân mổ  sanh 
đều được sử dụng kháng sinh dự phòng, trong 
đó chỉ có 1 bệnh nhân không  tiếp  tục sử dụng 
kháng sinh sau mổ. Trong thời gian nghiên cứu 
có 74 trường hợp được chẩn đoán NTT, với 33 
trường hợp có  triệu chứng  lâm sàng,  trong đó 
tiểu  gắt  buốt  là  triệu  chứng  thường  gặp  nhất 
(83,3%),  theo sau  là  tiểu khó  (10%), và  tiểu  lắt 
nhắt  (6,7%). Tiêu  chuẩn  chẩn  đoán NTT  được 
trình bày trong Bảng 3. 
  Trong số những trường hợp NTT được chẩn 
đoán  chắc  chắn  bằng  cấy  nước  tiểu,  đa  số  vi 
trùng  gây  bệnh  là  E.Coli  (38,8%), 
Staphylococcus  coagulase  (‐)  (19,4%), 
Enterococcus  spp  (8,9%)  và  Enterobacter  spp 
(8,9%). Ngoài ra có 5 trường hợp định danh ra 
Pseudomonas spp, chiếm 7,5%.  
  Sử dụng phương trình hồi qui đa biến số để 
khống chế các yếu  tố gây nhiễu, chúng  tôi ghi 
nhận  có  3  yếu  tố  nguy  cơ  của  NTT  sau mổ 
sanh,  bao  gồm  thời  gian  đặt  thông  tiểu,  thời 
gian chuyển dạ và vô cảm bằng phương pháp 
gây mê  (Bảng 4). Trong khi đó, một số yếu  tố 
khác  có khả năng  làm  tăng nguy  cơ NTT  sau 
mổ  sanh  bao  gồm  thai  quá  ngày  (TSC  hiệu 
chỉnh  cho  tuổi  thai≥  42  tuần=  2,21;  KTC  95% 
0,75‐6,55),  và  sốt  trong  chuyển  dạ  (TSC  hiệu 
chỉnh= 2,02; KTC 95% 0,66‐6,2). 
Bảng 2. Đặc điểm trước và trong lúc mổ 
Đặc điểm NTT (+) 
(n=74) 
NTT (-) 
(n=1.021) 
Tổng 
(N=1095) 
Sốt trong 
chuyển dạ 
5,4% 2,6% 2,7%
Đặt thông tiểu 
trước mổ 
5,4% 4,9% 4,9%
Sử dụng KS 
trước mổ 
39,2% 38,3% 38,4%
Vô cảm bằng 
pp gây mê 
23% 12,8% 13,5%
Thời gian mổ 
< 30 phút 
30- 59 phút 
≥ 60 phút 
 1,4% 
93,2% 
 5,4% 
 2,1% 
90,6% 
 7,3% 
 2%
90,8%
 7,2%
Máu mất lúc 
mổ 
< 500ml 
500- 999ml 
≥ 1000ml 
86,5% 
 8,1% 
 5,4% 
92,2% 
 6,4% 
 1,4% 
91,9%
 6,5%
 1,6%
Truyền máu 5,4% 2,3% 2,5%
Bảng 3. Chẩn đoán nhiễm trùng tiểu theo CDC 
Tiêu chuẩn chẩn đoán NTT Số người 
Cấy nước tiểu (+) 67 (90,5%) 
Có triệu chứng NTT+ XN cặn lắng 
có Bạch cầu ≥ 3/QT 40 
1 (1,3%) 
Có triệu chứng NTT+ Tổng phân 
tích nước tiểu có Nitrit (+) 
3 (4.1%) 
Có triệu chứng NTT+ chẩn đoán 
của bác sĩ điều trị 
3 (4,1%) 
BÀN LUẬN 
Nhiễm  trùng  tiểu  là  loại  nhiễm  khuẩn  bệnh 
viện  thường gặp nhất sau phẫu  thuật với  tỉ  lệ 
có  thể  lên  đến  14,5%. Với  sự  gia  tăng  nhanh 
chóng của mổ sanh trên khắp thế giới, xác định 
mức  độ  và  yếu  tố  nguy  cơ  của NTT  sau mổ 
sanh đóng vai trò hết sức quan trọng trong nỗ 
lực khống chế nhiễm khuẩn bệnh viện. Nghiên 
cứu  cắt  ngang  tiền  cứu  tại  một  bệnh  viện 
chuyên khoa  sản  tại Tp. Hồ Chí Minh  đã  ghi 
nhận  tần suất hiện mắc của NTT sau mổ sanh 
là  6,8%, với  90%  trường hợp  được  chẩn  đoán 
bằng  cấy  nước  tiểu  dương  tính,  và  xác  định 
được 3 yếu tố nguy cơ của NTT sau mổ anh bao 
gồm thời gian đặt thông tiểu sau mổ, thời gian 
chuyển  dạ  và  phương  pháp  vô  cảm.  Theo 
chúng  tôi  đây  là nghiên  cứu  đầu  tiên  tại Việt 
Nam ghi nhận yếu tố nguy cơ của NTT sau mổ 
sanh  sau  khi  đã  khống  chế  nhiễu  bằng  phân 
tích hồi qui đa biến số.  
  Chúng tôi ghi nhận có 6,8% bệnh nhân được 
chẩn đoán NTT sau mổ sanh, mặc dù  tần suất 
này có thể chưa phản ánh đúng mức tình hình 
NTT  sau  mổ  sanh.  Mặc  dù  đã  cố  gắng  loại 
những trường hợp có dấu hiệu lâm sàng và cận 
lâm  sàng  của NTT  trước mổ  sanh,  nhưng  do 
những  hạn  chế  về  kinh  phí,  chúng  tôi  không 
thể xét nghiệm sàng  lọc NTT, bằng  tổng phân 
tích nước tiểu hay bằng cấy nước tiểu, từ trước 
mổ cho tất cả bệnh nhân. Do vậy, chúng tôi chỉ 
ghi nhận  được  tần  suất hiện mắc  (prevalence) 
chứ không ghi nhận  được  tỉ  lệ bệnh mới mắc 
(incidence) của NTT sau mổ sanh. Ngoài ra, do 
tất  cả  bệnh  nhân  của  chúng  tôi  đều  được  sử 
dụng  kháng  sinh  “dự phòng”  trong  thời  gian 
hậu phẫu, kết quả cấy nước  tiểu  rõ  ràng  là có 
thể bị ảnh hưởng.  
  Tần  suất NTT  trong nghiên  cứu  của  chúng 
tôi thấp hơn nhiều so với một báo cáo tại Anh 
Quốc.9 Thực hiện khi cấy nước tiểu thường qui 
cho  tất  cả  124  bệnh  nhân mổ  sanh,  Parrot  và 
cộng sự ghi nhận có 18 bệnh nhân (14,5%) được 
chẩn  đoán NTT  sau mổ.  Biện  pháp  cấy  nước 
tiểu một cách chọn  lọc cho những  trường hợp 
có nghi ngờ NTT thông qua biện pháp sàng lọc 
bằng  xét  nghiệm  tổng phân  tích  nước  tiểu  10 
thông số, mặc dù có một số khiếm khuyết,13 lại 
là một biện pháp kinh tế và khả thi trong điều 
kiện  thực  tế  của  các  nước  đang  phát  triển. 
Phương thức này cũng đã được chứng minh là 
hữu  hiệu  trong  chẩn  đoán  loại  trừ  những 
trường  hợp NTT.14  Thực  hiện  phân  tích meta 
trên 23 nghiên cứu được xuất bản từ năm 1996 
đến 2003, St John và cộng sự ghi nhận kết quả 
xác  xuất  sau  xét  nghiệm  tổng  hợp  (pooled 
posttest  probability)  là  5%  cho  kết  quả  tổng 
phân tích nước tiểu âm tính. Trong khi đó, tần 
suất NTT của chúng tôi cao hơn một số báo cáo 
trước đây, dao động vào khoảng 2%6, 3%7, 4%8. 
Trong khi chúng tôi sàng lọc NTT sau mổ sanh 
bằng  xét  nghiệm  tổng phân  tích  nước  tiểu  10 
thông số cho tất cả sản phụ mổ sanh vào ngày 
thứ hai, thì những tác giả này chỉ thực hiện xét 
nghiệm cho những bệnh nhân có dấu hiệu lâm 
sàng  của  NTT.  Cách  thực  hiện  này  rõ  ràng 
không  đánh  giá  đúng mức  độ  của  tình  trạng 
NTT  sau  mổ  sanh  vì  trong  nghiên  cứu  của 
chúng  tôi chỉ có 45%  trường hợp NTT có biểu 
hiện triệu chứng lâm sàng.  
  Trong nghiên cứu của chúng tôi, thông tiểu 
được đặt ngay trước mổ sanh cho tất cả các sản 
phụ, và được rút khi sản phụ được chuyển về 
khoa Hậu  phẫu. Những  trường  hợp  cần  theo 
dõi  lượng nước  tiểu, ví dụ như có bệnh  lý nội 
khoa,  hoặc  trường  hợp  bị  bí  tiểu,  sản  phụ  sẽ 
đựơc đặt thông tiểu lưu. Nguy cơ NTT gia tăng 
31% nếu kéo dài thời gian đặt thông tiểu thêm 
mỗi 12 giờ. Kết quả này tương tự với nhiều báo 
cáo khác,15, 16 dù mức độ gia tăng NTT có khác 
nhau. Đặt thông tiểu, đặt biệt là nếu không tôn 
trọng  những  nguyên  tắc  vô  khuẩn,  sẽ  tạo 
đường vào cho vi khuẩn và  làm  tăng nguy cơ 
NTT. Nguy cơ này càng cao nếu thông tiểu lưu 
càng  lâu.14,15 Ngoài  ra, nhu  cầu  cần  đặt  thông 
tiểu  kéo  dài  có  thể  là một  biểu  hiện  của một 
tình  trạng bệnh  lý  làm cho sản phụ không  thể 
đi tiểu bình thường sau mổ, và chính tình trạng 
bệnh  lý này, vốn có  thể không được ghi nhận 
khi  thu  thập  số  liệu  và  không  thể  khống  chế 
bằng  phương  pháp  phân  tích  thống  kê,  lại  là 
nguyên nhân  góp phần  làm  gia  tăng nguy  cơ 
NTT. Ngoài nguy  cơ NTT,  đặt  thông  tiểu kéo 
dài  làm bệnh nhân khó chịu,  làm  tăng chi phí 
và  thời  gian  nằm  viện  của  bệnh  nhân.5  Rút 
ngắn thời gian đặt thông tiểu sau sanh không  
Bảng 4. Yếu tố nguy cơ của NTT sau mổ sanh 
Yếu tố nguy cơ TSC* hiệu chỉnh 
Thời gian chuyển dạ > 12 
giờ 
1,95 
(1,14 – 3,32 ) 
Gây mê trong khi mổ 1,81 
(1,01 – 3,34) 
Thời gian đặt thông tiểu 
sau mổ (tăng mỗi 12 giờ) 
1,31 
(1,09 – 1,58) 
* Tỉ suất chênh (TSC) 
chỉ  làm  giảm  nguy  cơ NTT mà  còn  làm  tăng 
chất  lượng  cuộc  sống  của  sản phụ. Thậm  chí, 
một số tác giả đang đặt vấn đề không sử dụng 
thông tiểu cho những trường hợp mổ chủ động 
nhằm  làm  giảm  nguy  cơ  NTT  sau mổ  sanh. 
Năm 2005, Senanayake17 đã báo cáo một nghiên 
cứu trên 334 trường hợp mổ sanh chủ động tại 
Srilanka  không  cần  đặt  thông  tiểu  trước  sanh 
và ghi nhận không có  tai biến xảy ra  trong và 
sau phẫu  thuật  trong khi  tỉ  lệ NTT được giảm 
rất  đáng kể  (6%  so với  0.58%). Tuy nhiên với 
những  thông  tin còn hạn chế, bên cạnh những 
điểm yếu của nghiên cứu trên, rõ ràng chưa đủ 
bằng chứng để kết luận về hiệu quả và nguy cơ 
của biện pháp mổ  sanh không  sử dụng  thông 
tiểu.  
  Bên cạnh thời gian đặt thông tiểu, thời gian 
chuyển dạ và phương pháp vô cảm cũng là yếu 
tố  nguy  cơ  của  NTT  sau mổ  sanh.  Nguy  cơ 
NTT  tăng gấp đôi nếu chuyển dạ kéo dài  trên 
12 giờ. Kết quả của chúng tôi tương tự với một 
số báo cáo trước đây.18,19 Trong một nghiên cứu 
tiền cứu trên 506 sản phụ mổ sanh tại Thái Lan, 
sau  khi  khống  chế  nhiễu,  Pothinam  và  cộng 
sự19 ghi nhận thời gian chuyển dạ kéo dài hơn 
12 giờ  là yếu  tố nguy cơ của nhiễm  trùng hậu 
phẫu,  trong  đó  có  NTT.  Chuyển  dạ  kéo  dài 
đồng nghĩa với có thêm nhiều can thiệp, ví dụ 
như thăm khám âm đạo bằng tay, có thể làm 
gia  tăng  nguy  cơ NTT.  Trong  khi  đó  vô  cảm 
bằng phương pháp gây mê toàn thân làm tăng 
nguy cơ NTT gấp 1,81 lần. Trong thực tế tại BV 
Hùng Vương, biện pháp gây mê  toàn  thân chỉ 
được  thực  hiện  trong  khoảng  5‐10%20  cho 
những  trường  hợp  rất  đặc  biệt  như  suy  thai 
cấp, nhau tiền đạo chảy máu nhiều, sa dây rốn 
hoặc  tai biến sản khoa Mặc dù đã có  tác giả 
nhận định vô cảm bằng biện pháp mê toàn thân 
có  thể  làm  tăng nguy  cơ nhiễm  trùng  sau mổ 
sanh  nói  chung,20  chúng  tôi  không  tìm  được 
báo  cáo  nào  ghi  nhận  có mối  liên  quan  giữa 
biện  pháp  vô  cảm  với NTT  sau mổ  sanh. Cơ 
chế của hiện tượng này không rõ ràng, dù chưa 
thể  loại  trừ  hoàn  toàn  khả  năng  ảnh  hưởng 
(nhiễu)  của một  số  tình  trạng bệnh  lý  của  sản 
phụ.  
Tóm  lại, NTT  sau mổ  sanh  là một biến chứng 
khá thường gặp và liên quan chặt chẽ đến thời 
gian  đặt  thông  tiểu  sau  mổ  sanh,  thời  gian 
chuyển dạ và phương pháp vô  cảm. Sử dụng 
xét nghiệm  tổng phân  tích nước  tiểu 10  thông 
số và cấy nước tiểu chọn lọc cho những trường 
hợp nghi ngờ sau mổ sanh có thể là một chiến 
lược phù hợp và kinh tế để sàng lọc và xác định 
chẩn  đoán NTT  trong  hoàn  cảnh  thực  tế  của 
nước ta. Có thể cân nhắc chỉ định cấy nước tiểu 
cho những bệnh nhân có nguy cơ NTT cao. Đặt 
thông  tiểu  trước  mổ  cần  tuân  thủ  chặt  chẽ 
những  nguyên  tắc  vô  khuẩn  và  nên  hạn  hạn 
chế  lưu  thông  tiểu  lâu  sau mổ  sanh. Những 
bệnh nhân có nguy cơ NTT cao cần được  theo 
dõi và xử trí theo một phác đồ thống nhất của 
bệnh viện.  
Tài liệu tham khảo 
1. Trung tâm Bảo vệ Bà mẹ Trẻ em và KHHGĐ Tp. Hồ Chí 
Minh. Báo cáo tổng kết tình hình chăm sóc sức khoẻ bà 
mẹ trẻ em Tp.HCM năm 2000, 2001, 2002, 2003, 2004, 
2005, 2006. 
2. Nguyễn Trọng Hiếu, Trần Sơn Thạch. Yếu tố tác động 
đến mổ sanh tại Tp Hồ Chí Minh. Thời sự Y Dược học 
2005;Số 5: 261-264. 
3. Lê Anh Tuấn, Phạm Phương Lan, Đoàn Thị Quỳnh Liên. 
Các phương pháp đẻ và các yếu tố dự báo trong mổ lấy 
thai tại bệnh viện Phụ sản Trung ương. 
4. Schwartz MA, Wang CC, Eckert LO, Critchlow CW. 
Risk factors for urinary tract infection in the postpartum 
period. Am J Obstet Gynecol. 1999 Sep;181(3):547-53. 
5. Givens CD, W.R., Catheter-associated urinary tract 
infections in surgical patients: a controlled study on the 
excess morbidity and costs. J Urol. 1980;124: 646-8. 
6. Tran ST, Jamulitat S, Chongsuvivatwong V, Geater A. 
Risk Factors for Post-cesarean Surgical Site Infection. 
Obstet Gynecol. 2000; 95(3): 367-71. 
7. Van Ham MA, Mulder J. Maternal consequences of 
Caesarean section: A retrospective study of intra-
operative and postoperative maternal complications of 
Caesarean section during a 10-year period. Eur J Obstet 
Gynecol Reprod Biol. 1997;74: 1-6. 
8. Litta P, V.P., Konishi de Toffoli J, Onnis GL., Risk 
factors for complicating infections after cesarean 
section. Clin Exp Obstet Gynecol.1995; 22(1):71-5. 
9. Parrott T, Evans AJ, Lowes A, Dennis KJ. Infection 
following caesarean section. J Hosp Infect. 1989 
May;13(4):349-54. 
10. Henderson E Incidence of hospital-acquired infections 
associated with caesarean section. J Hosp Infect. 
1995;29:245-55. 
11. Tangtrakul S, T.S., Suthutvoravut S, Linasmita V., Post-
cesarean section urinary tract infection: a comparison 
between intermittent and indwelling catheterization. J 
Med Assoc Thai. 1994;77(5):244-8. 
12. Garner JS, Emori TG, Horan TC, Hughes JM. CDC 
definition for nosocomial infections. Am J Infect 
Control, 1988. 16: p. 128-140. 
13. Schwartz DS, Barone JE. Correlation of urinalysis and 
dipstick results with catheter-associated urinary tract 
infections in surgical ICU patients. Intensive Care Med. 
2006;32(11):1797-801 
14. St John A, Boyd JC, Lowes AJ, Price CP. The use of 
urinary dipstick tests to exclude urinary tract infection: a 
systematic review of the literature. Am J Clin Pathol. 
2006;126(3):428-36. 
15. Ha US, Cho YH. Catheter-associated urinary tract 
infections: new aspects of novel urinary catheters. Int J 
Antimicrob Agents. 2006 Dec;28(6):485-90. 
16. Danchaivijitr S, Dhiraputra C, Cherdrungsi R, 
Jintanothaitavorn D, Srihapol N. Catheter-associated 
urinary tract infection. J Med Assoc Thai. 2005 Dec;88 
Suppl 10:S26-30. 
17. Senanayake H. Elective cesarean section without urethral 
catheterization. J Obstet Gynaecol Res. 2005;31(1):32-
7. 
18. Anteby SO, Birkenfeld A, Weinstein D. Post cesarean 
section urinary tract infections, risk factors and 
prophylactic antibiotic treatment. Clin Exp Obstet 
Gynecol. 1984;11(4):161-4. 
19. Pothinam S, C.T., Lumbiganon P., Post-cesarean section 
puerperal morbidity. The incidence and risk factors at 
Srinagarind Hospital. J Med Assoc Thai. 1992;75(3): 
173-7. 
20. Lê Minh Tâm. Phương pháp vô cảm trong mổ sanh do 
suy thai. Hội thảo khoa học BV Hùng Vương năm 
2006;21-26.

File đính kèm:

  • pdfyeu_to_nguy_co_cua_nhiem_trung_tieu_sau_mo_sanh.pdf