Xử trí huyết khối cấp tính van hai lá sinh học
Van tim sinh học ngày càng được chỉ định rộng rãi trên lâm sàng, đặc biệt cho các bệnh nhân có nguy cơ chảy máu cao, điều kiện theo dõi xét nghiệm đông máu kém, phụ nữ trẻ mong muốn có con, bệnh nhân cao tuổi [1]. Chẩn đoán huyết khối van tim sinh học từ lâu nay vẫn được xem một thách thức trong thực hành hàng ngày do tính chất hiếm gặp của bệnh[2]. Một số bài bào trên thế giới trước đây mô tả các trường hợp lâm sàng huyết khối van tim sinh học, ít có các nghiên cứu quy mô về vấn đề này. Nghiên cứu của Egbe và cộng sự trên một số lượng lớn bệnh nhân tại Mayo Clinic gần đây cho chúng ta thấy một số quan điểm khá mới về tỷ lệ mắc bệnh, thời điểm mắc bệnh cũng như yếu tố nguy cơ của bệnh [3]. Các khuyến cáo mới nhất điều trị huyết khối van tim sinh học nhấn mạnh thái độ điều trị dựa vào bệnh cảnh lâm sàng, tình trạng huyết khối của từng người bệnh [1,4]. Bài báo này mô tả thái độ xử trí một trường hợp huyết khối van hai lá sinh học cấp tính được xử trí tại Viện Tim mạch Việt Nam, Bệnh viện Bạch Mai và điểm lại những nét mới về bệnh học cũng như thái độ xử trí dựa của các hướng dẫn điều trị hiện hành
Tóm tắt nội dung tài liệu: Xử trí huyết khối cấp tính van hai lá sinh học
CA LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 78.2017 69 Xử trí huyết khối cấp tính van hai lá sinh học Văn Đức Hạnh*, Vũ Anh Dũng*, Lê Tuấn Minh** Viện Tim mạch Việt Nam*, Trường Đại học Y Hà Nội** MỞ ĐẦU Van tim sinh học ngày càng được chỉ định rộng rãi trên lâm sàng, đặc biệt cho các bệnh nhân có nguy cơ chảy máu cao, điều kiện theo dõi xét nghiệm đông máu kém, phụ nữ trẻ mong muốn có con, bệnh nhân cao tuổi[1]. Chẩn đoán huyết khối van tim sinh học từ lâu nay vẫn được xem một thách thức trong thực hành hàng ngày do tính chất hiếm gặp của bệnh[2]. Một số bài bào trên thế giới trước đây mô tả các trường hợp lâm sàng huyết khối van tim sinh học, ít có các nghiên cứu quy mô về vấn đề này. Nghiên cứu của Egbe và cộng sự trên một số lượng lớn bệnh nhân tại Mayo Clinic gần đây cho chúng ta thấy một số quan điểm khá mới về tỷ lệ mắc bệnh, thời điểm mắc bệnh cũng như yếu tố nguy cơ của bệnh [3]. Các khuyến cáo mới nhất điều trị huyết khối van tim sinh học nhấn mạnh thái độ điều trị dựa vào bệnh cảnh lâm sàng, tình trạng huyết khối của từng người bệnh [1,4]. Bài báo này mô tả thái độ xử trí một trường hợp huyết khối van hai lá sinh học cấp tính được xử trí tại Viện Tim mạch Việt Nam, Bệnh viện Bạch Mai và điểm lại những nét mới về bệnh học cũng như thái độ xử trí dựa của các hướng dẫn điều trị hiện hành. CA LÂM SÀNG Bệnh nhân nữ 61 tuổi, tiền sử phẫu thuật thay van hai lá sinh học (loại van St.Jude Biocor, cỡ van số 27) trước khi nhập viện lần này 12 tháng, bệnh nhân được chỉ định dùng acenocoumarol 6 tháng sau phẫu thuật thay van tim, sau đó không dùng thêm thuốc chống đông hoặc thuốc chống ngưng tập tiều cầu. Bệnh nhân không sốt kéo dài sau phẫu thuật. Siêu âm tim tại thời điểm một tháng trước lần nhập viện này cho thấy van hai lá sinh học đúng vị trí, chênh áp tối đa qua van 7 mmHg và chênh áp trung bình 4 mmHg. Một tuần trước khi nhập viện, bệnh nhân thấy có một cơn đau ngực trái, cảm giác hồi hộp, điện tim đồ có hình ảnh rung nhĩ, đáp ứng tần số thất nhanh 120 chu kỳ/phút. Bệnh nhân nhập viện vì khó thở ngày thứ hai, khám lâm sàng thấy suy tim NYHA III, tim nhịp xoang 110 chu kỳ/phút, phổi có ít ran ẩm 2 đáy phổi. Siêu âm tim qua thành ngực nghi ngờ có tắc nghẽn cơ học tại vị trí van hai lá sinh học (chênh áp qua van tối đa 30 mmHg, chênh áp trung bình 14 mmHg, chỉ số diện tích lỗ van hiệu dụng (iEOA) 0,27 cm2/m2, thời gian bán giảm áp lực qua van hai lá (PHT) 205 ms. Siêu CA LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 78.201770 âm tim qua thực quản thấy van hai lá sinh học hẹp khít do huyết khối mới có kích thước 13x8 mm bám ở cánh van. Bệnh nhân được truyền Heparin, dùng lợi tiểu furosemid đường tĩnh mạch và được phẫu thuật cấp cứu thay van hai lá sinh học loại van St.Jude Biocor cỡ van số 27. Sau phẫu thuật thay van tim, huyết động của bệnh nhân ổn định, siêu âm tim thấy van hai lá sinh học đúng vị trí, chênh áp bình thường, chức năng tâm thu thất trái bình thường (EF 56%). Bệnh nhân được ra viện vào ngày thứ 9 sau khi phẫu thuật và được chỉ định dùng acenocoumarol kèm aspirin. Hình 1. Huyết khối van hai lá sinh học của bệnh nhân nữ 61 tuổi. Huyết khối bám nhiều ở cả ba lá van của hai lá sinh học BÀN LUẬN Tỷ lệ và thời điểm mắc huyết khối van tim sinh học Huyết khối van tim nhân tạo là một biến chứng nặng nề nhưng khá hiếm gặp và có thể ảnh hưởng tới tính mạng người bệnh, tỷ lệ gặp huyết khối van tim nhân tạo (cả cơ học và sinh học) khoảng 0,3 -1,3 %/năm, trong đó huyết khối van tim cơ học hay gặp hơn huyết khối van tim sinh học, huyết khối van tim bên phải hay gặp hơn huyết khối van tim bên trái, huyết khối tại van hai lá hay gặp hơn huyết khối van động mạch chủ và huyết khối không gây kẹt van thường gặp hơn huyết khối gây kẹt van [2]. Hầu hết y văn trên thế giới mô tả tỷ lệ huyết khối van tim sinh học là rất nhiếu gặp, tuy nhiên những số liệu mới cho chúng ta thấy tỷ lệ huyết khối van tim sinh học không hiếm như chúng ta vẫn nghĩ: nghiên cứu của Butnaru và cộng sự từ 2002 đến 2011 cho thấy tỷ lệ huyết khối van hai lá sinh học chiếm khoảng 6% (9/149 bệnh nhân)[5]; Egbe và cộng sự thấy tỷ lệ hiện mắc (prevalence) là 11,6% (46/397 bệnh nhân) khi nghiên cứu từ 1997 đến 2013 tại Mayo Clinic[3]. Quan điểm huyết khối van tim sinh học thường gặp sớm sau khi phẫu thuật do nội mạc tại vị trí vết khâu chưa liền [2] được thay thế bởi các số liệu cho thấy 65% các bệnh nhân huyết khối van tim sinh học xảy ra tại thời điểm sau 12 tháng kể từ thời điểm phẫu thuật, trong đó có 15% xảy ra trong vòng 5 năm sau phẫu thuật, tỷ lệ huyết khối van tim sinh học trong vòng 12 tháng là chỉ chiếm 35% [3]. Parro A và cộng sự gặp huyết khối van sinh học ở 4/111 bệnh nhân (3%), trong đó chỉ có 1 bệnh nhân bị huyết khối trong vòng 12 tháng sau khi phẫu thuật, 3 bệnh nhân còn lại đều gặp sau phẫu thuật > 12 tháng, thời gian mắc huyết khối van sinh học trung bình là 48,7 tháng [6]. Bệnh nhân của chúng tôi bị biến cố huyết khối van hai lá sinh học sau khi phẫu thuật 12 tháng. Yếu tố nguy cơ mắc huyết khối van tim sinh học Một số tác giả trên thế giới báo cáo các trường hợp lâm sàng huyết khối van tim sinh học xảy ra trên cơ địa bệnh nhân có kháng thể kháng phospholipid, bệnh nhân hẹp van tim do thấp tim kèm rung nhĩ hoặc bệnh nhân có nhĩ trái và tiểu nhĩ trái khổng lồ [7, 8, 9]. Tuy nhiên các báo cáo riêng lẻ này chưa nêu lên được yếu tố nào sẽ làm tăng nguy cơ mắc huyết khối van tim sinh học. Nghiên cứu của Egbe và cộng sự tại Mayo Clinic chỉ ra các yếu tố CA LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 78.2017 71 nguy cơ mắc huyết khối van tim nhân tạo gồm: rung nhĩ kịch phát, INR đạt dưới ngưỡng yêu cầu ở các bệnh nhân cần dùng thuốc kháng vitamin K, các dấu hiệu trên siêu âm tim gồm có: chênh áp qua van tim sinh học tăng trên 50% so với thời điểm ban đầu trong vòng 5 năm kể từ thời điểm phẫu thuật, tăng bề dày lá van sinh học, di động lá van tim sinh học kém. Các yếu tố chưa được chứng minh làm tăng khả năng mắc huyết khối van tim sinh học gồm: rung nhĩ dai dẳng, rung nhĩ xảy ra xung quanh thời điểm phẫu thuật, rung nhĩ dai dẳng kèm INR dưới ngưỡng mục tiêu, tiền sử biến cố huyết khối [3]. Khi xem xét các yếu tố nguy cơ gây mắc huyết khối van tim sinh học ở bệnh nhân của chúng tôi, chúng tôi thấy bệnh nhân có một điện tim đồ thể hiện tình trạng rung nhĩ nhanh, các điện tim đồ tại các thời điểm khác ghi nhận được nhịp xoang bình thường, như vậy, bệnh nhân của chúng tôi có lẽ có các cơn rung nhĩ kịch phát, từ đó hình thành huyết khối và gây huyết khối van tim sinh học. Chẩn đoán huyết khối van tim sinh học Siêu âm tim đóng vai trò rất quan trọng trong chẩn đoán và định hướng điều trị huyết khối van tim nhân tạo. Các dấu hiệu nghi ngờ có huyết khối van tim nhân tạo trên siêu âm tim qua thành ngực bao gồm: thấy dòng chảy bất thường qua van tim, thấy dòng hở trung tâm lớn tại van, tăng chênh áp qua van, giảm diện tích lỗ van hiệu dụng, giảm chỉ số diện tích lỗ van hiệu dụng[2]. Đối với van hai lá nhân tạo, khi chỉ số bán giảm áp lực (PHT: Pressure half-time) ≥ 130 ms gợi ý bệnh nhân bị tắc nghẽn cơ học. Đối với van động mạch chủ nhân tạo các dấu hiệu như chênh áp qua van trung bình > 35 mmHg, vận tốc qua van > 4m/s, chỉ số vận tốc Doppler (DVI: Doppler velocity index) < 0,25, diện tích lỗ van hiệu dụng < 0,8 cm2/m2 hoặc chỉ số diện tích lỗ van hiệu dụng < 0,65 cm2/m2, hoặc thời gian gia tốc tại van > 100ms, đường viền phổ Doppler liên tục tại van có dạng tròn (rounded contour) là những dấu hiệu gợi ý cao có tắc nghẽn cơ học[10]. Khi nghi ngờ bệnh nhân có huyết khối van tim nhân tạo trên siêu âm tim qua thành ngực, siêu âm tim qua thực quản được tiến hành nhằm giúp chẩn đoán xác định và định hướng điều trị, các dấu hiệu có thể tìm thấy trên siêu âm tim qua thực quản bao gồm: van tim sinh học dày, sự di động van tim hạn chế, thấy huyết khối, hoặc các dấu hiệu gián tiếp như dòng hở sinh lý qua van tim nhân tạo, dòng hở trung tâm qua van tim nhân tạo. Tuy nhiên hạn chế của siêu âm tim qua thực quản là khó đánh giá van động mạch chủ hơn so với van hai lá, khó đánh giá mặt thất của van hai lá hơn so với mặt nhĩ [2]. Siêu âm tim qua thực quản cũng góp phần phân biệt huyết khối và pannus, nghĩ đến pannus nếu có tồn tại một khối có đậm độ âm tương đối cao, kích thước của khối thường nhỏ, khác với huyết khối có kích thước thường khá lớn và đậm độ âm thấp [11]. Trên siêu âm tim qua thành ngực, bệnh nhân của chúng tôi có các dấu hiệu nghi ngờ có tắc nghẽn cơ học tại vị trí van tim sinh học như chênh áp tối đa và chênh áp trung bình qua van cao, chỉ số diện tích lỗ van hiệu dụng thấp, thời gian bán giảm áp lực qua van hai lá rất cao với PHT 205 ms. Siêu âm tim qua thực quản thấy van hai lá sinh học hẹp khít nghi ngờ do huyết khối có kích thước 13x8 mm bám ở cánh van. Chúng tôi không thấy sùi van tim hoặc nội mạc cơ tim trên cả siêu âm tim qua thành ngực và siêu âm tim qua thực quản. Điều trị huyết khối van tim sinh học Một nghiên cứu meta-analysis được tiến hành trên 690 bệnh nhân huyết khối van tim nhân tạo so sánh hiệu quả của phẫu thuật và tiêu sợi huyết cho thấy phẫu thuật không tốt hơn tiêu sợi huyết về tiêu chí thành công, tiêu chí tử vong và tiêu chí chảy máu; phẫu thuật chỉ tốt hơn tiêu sợi huyết ở CA LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 78.201772 tiêu chí giảm đột quỵ và giảm huyết khối tái phát tại van tim nhân tạo [12]. Vì vậy, các Hội và Tổ chức quốc tế hiện vẫn chưa thống nhất để đưa ra một phác đồ chung xử trí huyết khối van tim nhân tạo. Trong khi Hội bệnh lý van tim (Society for Heart Valve Disease) năm 2005 chủ yếu khuyến cáo tiêu sợi huyết thì ACCP (American College of Chest Physicians) khuyến cáo nên phẫu thuật cho các bệnh nhân có diện tích huyết khối ≥ 0,8 cm2 trên siêu âm tim qua thực quản (khuyến cáo mức độ 2C)[12]. Hội Tim mạch châu Âu ESC (European Society of Cardiology) 2012 khuyến cáo nên phẫu thuật cho các bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng nặng nhưng không kèm bệnh nặng khác kèm theo (khuyến cáo I, mức độ bằng chứng C), hoặc huyết khối lớn (>10mm) không gây tắc nghẽn (khuyến cáo IIa, bằng chứng C) hoặc huyết khối tồn tại dai dẳng dù đã dùng thuốc chống đông tối ưu [1]. Khuyến cáo Hội Tim mạch Hoa Kỳ và Trường môn Tim mạch Hoa Kỳ (ACC/AHA) 2014 nêu rõ nên tiến hành phẫu thuật cấp cứu cho các bệnh nhân huyết khối van tim có suy tim NYHA III-IV (Khuyến cáo I), nên phẫu thuật cấp cứu cho các bệnh nhân huyết khối lớn ≥ 0,8 cm2 hoặc huyết khối di động (khuyến cáo IIa) [4]. Bệnh nhân của chúng tôi nhập viện trong bệnh cảnh suy tim khá nặng, khó thở NYHA III, phổi có ran ẩm 2 đáy phổi, siêu âm tim qua thực quản thấy huyết khối mới gây tắc nghẽn cơ học tại van hai lá. Hồi cứu các xét nghiệm cũ của bệnh nhân thấy siêu âm tim trước đó một tháng mô tả tình trạng van tim sinh học bình thường, như vậy đây là một trường hợp huyết khối mới gây kẹt cấp tính van hai lá sinh học. Chúng tôi quyết định điều trị nội khoa nội khoa tối ưu trong khi chờ phẫu thuật gồm lợi tiểu furosemid đường tiêm tĩnh mạch, truyền Heparin tĩnh mạch và tiến hành phẫu thuật cấp cứu theo đúng như khuyến cáo của ESC 2012 và ACC/AHA 2014. Kết quả trong phẫu thuật cho thấy, bệnh nhân có nhiều huyết khối lớn bám ở van tim sinh học, bệnh nhân được thay một van hai lá sinh học khác, phẫu thuật ổn định và bệnh nhân được ra viện sau phẫu thuật ngày thứ chín. Do bệnh nhân có tình trạng rung nhĩ cơn và các thuốc chống đông đường uống thế hệ mới chưa có bằng chứng trên van tim nhân tạo nên chúng tôi quyết định dùng acenocoumarol lâu dài cho bệnh nhân. KẾT LUẬN Huyết khối van tim sinh học là một biến chứng nặng nề nhưng không phải là thực sự hiếm gặp trên lâm sàng. Các nghiên cứu mới cho thấy một tỷ lệ cao bệnh nhân bị huyết khối van tim sinh học xảy ra tại thời điểm sau 12 tháng kể từ thời điểm phẫu thuật và vẫn có thể gặp trong vòng 5 năm sau phẫu thuật, chính vì vậy nên tiến hành làm siêu âm tim thường quy cho các bệnh nhân van tim sinh học[13]. Các yếu tố nguy cơ dễ mắc huyết khối van tim sinh học bao gồm: rung nhĩ kịch phát, INR đạt dưới ngưỡng yêu cầu ở các bệnh nhân cần dùng thuốc kháng vitamin K, các dấu hiệu trên siêu âm tim như: chênh áp qua van tim sinh học tăng trên 50% so với thời điểm ban đầu trong vòng 5 năm kể từ thời điểm phẫu thuật, tăng bề dày lá van sinh học, di động lá van tim sinh học kém. Các bệnh nhân nghi ngờ có tắc nghẽn cơ học tại van tim sinh học cần được làm siêu âm tim qua thực quản. Điều trị phẫu thuật hoặc tiêu sợi huyết phải được cân nhắc trên từng cá thể bệnh nhân phụ thuộc vào bệnh cảnh lâm sàng, bệnh lý nội khoa kèm theo, kích thước huyết khối trên siêu âm tim qua thực quản. CA LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 78.2017 73 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Vahanian A et al. Guidelines on the management of valvular heart disease. European Heart Journal 2012; 33, 2451–2496. 2. Roudaut R et al. Thrombosis of prosthetic heart valves: diagnoisis and therapeutic considerations. Heart 2007;93:137–142. 3. Egbe AC et al. Bioprosthetic Valve Thrombosis Versus Structural Failure. JACC 2015, Vol 66, No 21, 2285 – 2294. 4. Nishimura A et al. 2014 AHA/ACC Guideline for the Management of Patients With Valvular Heart Disease. JACC 2014, Vol. 63, No. 22, e57- e185. 5. Butnaru A et al. Diagnosis and Treatment of Early Bioprosthetic Malfunctionin the Mitral Valve Position due to Thrombus Formation. Am J Cardiol 2013;112:1439 -1444. 6. Parro A et al. Bioprosthetic Mitral Valve Thrombosis. Importanceof Transesophageal Echocardiography in the Diagnosis and Follow up After Treatment. Arquivos Brasilleiros de Cardiologia 2004, Vol 84, No 4, 353 - 359. 7. Chamsi-Pasha M A et al. Bioprosthetic Mitral Valve Thrombosis Complicating Antiphospholipid Antibody Syndrome, SuccessfullyTreated with Thrombolysis. Echocardiography 2014;31:E278– E281. 8. Kwon J T et al. Acute thrombosis of bioprosthetic mitral valve. Journal of Cardiothoracic Surgery 2013, 8:185 9. Connors C W et al. Early Degeneration of a BioprostheticMitral Valve Complicated by a LargeLeft Atrial Thrombus. Vascular Anesthesia 2011, 15(3), 112–114. 10. Salomon J et al. Mechanical valve obstruction: Review of diagnostic andtreatment strategies. World J Cardiol 2015, 26; 7(12): 875-881. 11. Tanis W et al. Differentiation of thrombus from pannus as the cause of acquiredmechanical prosthetic heartvalveobstruction bynon-invasive imaging: a reviewof the literature. European Heart Journal Cardiovascular Imaging (2014) 15, 119–129. 12. Karthikeyan G et al. Urgent surgery compared with fibrinolytic therapy for the treatment of left-sided prostheticheart valve thrombosis: a systematic review andmeta-analysis of observational studies. European Heart Journal 2013, 34, 1557–1566. 13. Egbe A C et al. Bioprosthetic valve thrombosis: What we know and what we need to know. The Journal of Thoracic and Cardiovascular Surgery 2016. Doi:
File đính kèm:
xu_tri_huyet_khoi_cap_tinh_van_hai_la_sinh_hoc.pdf

