Xử trí đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính: kháng sinh hay kháng viêm
COPD là một bệnh không đồng nhất. Tính không đồng nhất thể hiện không chỉ ở diễn biến bệnh
mà còn ở các đợt cấp. Các dữ liệu nghiên cứu đã chứng minh được các dạng kiểu hình đợt cấp
có tiên lượng và đáp ứng điều trị khác nhau. Các tài liệu hướng dẫn xử trí đợt cấp hiện nay còn
chưa có các khuyến cáo rõ ràng trong việc xác định và chỉ định kháng sinh, CRS hay cả hai mặc
dù biết rằng việc chỉ định không hợp lý luôn kèm theo những tác dụng không mong muốn. Trong
khi chờ kết quả những nghiên cứu có thiết kế tốt hơn để kết luận, việc nhận dạng kiểu hình trên
nhóm bệnh nhân nhẹ, trung bình điều trị ngoại trú, là nhóm chiếm đa số và tiếp cận điều trị thuốc
phù hợp là rất cần thiết
Bạn đang xem tài liệu "Xử trí đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính: kháng sinh hay kháng viêm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Xử trí đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính: kháng sinh hay kháng viêm
Tổng quan 16 Hô hấp số 13/2017 ĐẶT VẤN ĐỀ Đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) là sự cố (event) thường xảy ra trong tiến trình bệnh. Đợt cấp không chỉ có tác động rất xấu tới diễn biến bệnh mà còn là gánh nặng lớn cho y tế và xã hội (1,2). Hiện nay, với những hiểu biết mới về bệnh học COPD, đợt cấp đang được chú ý nhiều như là một marker XỬ TRÍ ĐỢT CẤP BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH: KHÁNg SINH HAY KHÁNg VIÊM TS.BS Nguyễn Văn Thành PCT Hội Lao và Bệnh phổi Việt Nam E-mail: [email protected] Tóm tắt: COPD là một bệnh không đồng nhất. Tính không đồng nhất thể hiện không chỉ ở diễn biến bệnh mà còn ở các đợt cấp. Các dữ liệu nghiên cứu đã chứng minh được các dạng kiểu hình đợt cấp có tiên lượng và đáp ứng điều trị khác nhau. Các tài liệu hướng dẫn xử trí đợt cấp hiện nay còn chưa có các khuyến cáo rõ ràng trong việc xác định và chỉ định kháng sinh, CRS hay cả hai mặc dù biết rằng việc chỉ định không hợp lý luôn kèm theo những tác dụng không mong muốn. Trong khi chờ kết quả những nghiên cứu có thiết kế tốt hơn để kết luận, việc nhận dạng kiểu hình trên nhóm bệnh nhân nhẹ, trung bình điều trị ngoại trú, là nhóm chiếm đa số và tiếp cận điều trị thuốc phù hợp là rất cần thiết. Từ khóa: Đợt cấp COPD, thuốc kháng sinh, thuốc kháng viêm steroid, phenotype COPD. Summary: TREATMENT FOR ACUTE EXACERBATION OF COPD: ANTIBIOTIC OR CORTICOSTEROID COPD is a heterogeneous disease. Heterogeneity manifests itself not only in the course of disease but also in the acute stages. Research data have demonstrated that the various phenotypes have different prognostic and therapeutic responses. There are no clear recommendations in the guidelines for the definitive treatment of antibiotic, CRS, or both, despite the knowledge that unreasonable indications are always accompanied by undesirable effects. While waiting for the results of better designed studies to conclude, the phenotypic identification in the mild, moderate of acute exacerbation on outpatient that are majority and indication of appropriate drug treatment are very necessary. Key words: acute exacerbation of COPD, antibiotics, steroids, COPD phenotype. Tổng quan 17 Hô hấp số 13/2017 lâm sàng quan trọng trong việc xác định kiểu hình bệnh, định hướng và đánh giá mức độ hiệu quả điều trị (3). Định nghĩa đợt cấp mà chúng ta đã quen và thường sử dụng là sự xấu đi cấp tính của triệu chứng hô hấp cần phải có điều trị bổ sung (4) không nói lên được cụ thể bản chất sinh bệnh học vốn rất đa dạng (heterogeneous) (3) trong đợt cấp nên các hướng dẫn về sử dụng thuốc điều trị trong bệnh cảnh này thường không cụ thể và thiếu tính khách quan (5). Hai thuốc quan trọng được chỉ định trong đợt cấp COPD là kháng sinh và kháng viêm steroid và cũng là hai định hướng (target) điều trị quan trọng vào bản chất bệnh học đợt cấp (6). Tuy nhiên khi nào thì chỉ định hai nhóm thuốc này và chỉ định như thế nào còn là những vấn đề cho đến nay chưa có câu trả lời rõ ràng và chắc chắn. Bài viết này nhằm tổng quan các y văn cập nhật và cố gắng đưa ra những quan điểm sử dụng thuốc hợp lý trong bệnh cảnh này. KIỂU HÌNH ĐỢT CẤP VÀ VAI TRÒ KHÁNg SINH, CORTICOSTEROID Diễn biến tự nhiên COPD bị xấu đi bằng những giai đoạn gọi là đợt cấp. Từ nhiều năm nay các tài liệu hướng dẫn (guideline) đều khuyến cáo sử dụng các triệu chứng chính của Anthonisen và cs là tăng khó thở, tăng đàm, tăng đàm mủ làm cơ sở chẩn đoán đợt cấp và định hướng điều trị kháng sinh (7). Bản thân các triệu chứng mà Anthonisen và cs đưa ra cũng đã nói lên tính chất khác nhau về triệu chứng lâm sàng giữa các đợt cấp và đợt cấp giữa các bệnh nhân. Mặc dù tiêu chuẩn phân loại này là đơn giản nhưng khi áp dụng vào thực hành cũng có những trở ngại. Khả năng nhớ chính xác của người bệnh, khả năng định nghĩa thế nào là đàm mủ của người bệnh, thầy thuốc lâm sàng không chú ý và không trực tiếp nhìn thấy đàm của người bệnh là những thực tế làm cho các tiêu chuẩn của Anthonisen trở nên thiếu tính khách quan (8). Điều trị đợt cấp không chỉ hướng tới xử trí làm hết triệu chứng đợt cấp mà còn cần phòng được khả năng xuất hiện đợt cấp mới. Hiểu biết về bệnh học COPD hiện nay đi theo hướng phân tích bản chất nền tảng viêm trong đợt cấp và mối liên quan với nền tảng viêm ở giai đoạn ổn định. Mối liên quan ấy đặt trong sự tác động của yếu tố bên ngoài làm cho đợt cấp trở nên đa dạng, nhiều kiểu hình (phenotpye). Hình 1. Thể hiện tỷ lệ theo tổ hợp sinh học COPD dạng e-lip trên không gian 3 chiều với Th 1 , Th 2 , protein tiền viêm và nghèo tế bào (10). Nguyên nhân nhiễm khuẩn (vi khuẩn, virus) có lẽ là chủ yếu trong đợt cấp mặc dù sự kết hợp giữa nhiễm khuẩn mới và nhiễm khuẩn tồn tại tiềm tàng trên đường thở vẫn còn chưa được hiểu biết rõ (6). Yếu tố dự đoán sẽ xuất hiện đợt cấp mạnh nhất chính là tiền sử đợt cấp của bệnh nhân đã dẫn đến việc phân loại kiểu hình nhiều đợt cấp và ít đợt cấp (9), hình thành khái niệm nhạy cảm với đợt cấp (exacerbation susceptibility) và tìm hiểu kiểu hình đợt cấp. Cho đến nay, hầu hết các nghiên cứu phân loại kiểu hình đợt cấp đều theo hướng xác định các biomarker viêm. Tổng quan 18 Hô hấp số 13/2017 Hurst và CS (năm 2006) (5) nghiên cứu 36 biomarker huyết thanh so sánh cặp với tình trạng trong và ngoài đợt cấp. Trong nghiên cứu này, C-reative protein (CRP), một marker nhiễm khuẩn và tổn thương không đặc hiệu tỏ ra là khác biệt nhất (p<0,001). Mặc dù khi phân tích ROC cho thấy CRP không đủ để xác định độc lập đợt cấp (AUC = 0,73). Tuy nhiên, nếu kết hợp thêm một trong ba triệu chứng của Anthonisen, CRP ở ngưỡng ≥ 8mg/L sẽ có giá trị chẩn đoán đợt cấp có ý nghĩa (AUC=0,88). Các tác giả cũng nhận thấy không có mối liên quan giữa nồng độ của bất kỳ biomarker với mức độ nặng có ý nghĩa. Như vậy các biomarker chưa giúp phân loại đợt cấp về mức độ nặng và căn nguyên gây bệnh. Bafadhel và CS (năm 2011) (10) cũng theo hướng phân tích cặp biomarker máu, huyết thanh ở giai đoạn ổn định và trong đợt cấp theo dõi trong 1 năm để xác định vi khuẩn, virus hoặc có tăng bạch cầu ái toan (BCAT) đã cho thấy 55% các đợt cấp có kết hợp với nhiễm khuẩn, 29% với virus và 28% với tăng BCAT trong đàm. Từ các biomarker, tế bào học đàm và máu, các tác giả phân tích tổ hợp và xác định có bốn căn nguyên ưu thế: Vi khuẩn ưu thế với tăng protein tiền viêm, virus ưu thế với tăng phản ứng thông qua Th 1 , tăng BCAT thông qua Th 2 và phản ứng viêm nghèo (“pauci-inflammatory’’) do có rất ít thay đổi hoạt tính viêm (hình 1). Bệnh nhân sẽ có khả năng đợt cấp nhiễm khuẩn nhiều hơn nếu trong giai đoạn ổn định cấy đàm có vi khuẩn (OR 4.9) và đợt cấp tăng BCAT nếu xét nghiệm đàm giai đoạn ổn định có tăng BCAT (OR 2.7). Cũng như nghiên cứu trước đó, Bafadhel và cs cũng không thấy mối liên quan giữa các tổ hợp và mức độ năng đợt cấp. Từ những nghiên cứu này cho chúng ta ý niệm về sự khác biệt bản chất viêm trong đợt cấp COPD và cần có phân tích dưới nhóm bệnh nhân đợt cấp để có cách tiếp cận điều trị căn nguyên hợp lý và nhất là làm giảm nguy cơ xuất hiện đợt cấp mới. Các bằng chứng khoa học cho đến nay về việc sử dụng corticosteroid (CRS) toàn thân và kháng sinh trong đợt cấp COPD đều lưu ý tính chưa rõ ràng về lợi ích cũng như những nguy cơ có thể xảy ra trên bệnh nhân COPD vốn được xem là đã dễ bị tổn thương (6). Một phân tích Cochrane của Walters JAE và cs (năm 2014) (11) trên 1.787 bệnh nhân so sánh điều trị CRS toàn thân với giả dược (placebo) kết luận rằng có bằng chứng với chất lượng cao trị liệu CRS toàn thân làm giảm thời gian điều trị đợt cấp (OR 0,48), giảm thất bại điều trị và tái phát đợt cấp sau 1 tháng, cải thiện sớm triệu chứng và chức năng phổi trên bệnh nhân không nằm ở khoa chăm sóc tích cực (ICU) và không cần thở máy. Không có bằng chứng về lợi ích sử dụng CRS tĩnh mạch so với CRS uống trong việc làm giảm thất bại điều trị, tái phát và tử vong. Bên cạnh đó cũng có ghi nhận làm gia tăng có ý nghĩa tác dụng phụ của điều trị CRS, nhất là đường tĩnh mạch. Mặt khác, Vollenweider DJ và cs (năm 2012) (12) phân tích trên 2.068 bệnh nhân về lợi ích sử dụng kháng sinh đã nhận định hiệu quả của trị liệu kháng sinh là rõ ràng và ổn định trên tất cả các kết cục (outcome) đối với bệnh nhân nhập ICU. Tuy nhiên đối với bệnh nhân nhập viện không ICU và ngoại trú thì hiệu quả không ổn định. Đối với kết cục làm giảm nguy cơ thất bại điều trị khi sử dụng kháng sinh không chứng minh được trên bệnh nhân điều trị ngoại trú. Hơn nữa, điều trị kháng sinh không làm giảm có ý nghĩa tỷ lệ tử vong và thời gian nằm viện đối với nhóm bệnh nhân cần nhập viện. Như vậy, để tăng cường được hiệu quả trị liệu và giảm các tác dụng không mong muốn từ trị liệu CRS và kháng sinh trong đợt cấp, cần có phân tích để dự Tổng quan 19 Hô hấp số 13/2017 đoán được phân nhóm bệnh nhân sẽ có lợi thực sự và hơn hẳn so với tác dụng không mong muốn bằng kết hợp triệu chứng lâm sàng và biomarker (6,11,12). Trong Hen và COPD, khi có sự hiện diện của BCAT trong đàm cho thấy sẽ kết hợp với đáp ứng tốt khi trị liệu CRS. Quan trọng hơn, trị liệu CRS hướng tới làm giảm BCAT trong đàm và giảm đợt cấp nhập viện. Siva và cs (năm 2007) (13) thực hiện một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên so sánh điều trị COPD giai đoạn ổn định theo guideline chuẩn (theo British Thoracic Society guideline) và điều trị theo BCAT đàm. Nhóm điều trị theo hướng dẫn BCAT đàm có đợt cấp nặng ít hơn (giảm trung bình 62% /năm), nhưng không có sự khác biệt về số lần đợt cấp nhẹ, trung bình, cũng như số lượng CRS đã sử dụng giữa 2 nhóm. Hiện nay, ý niệm về điều trị theo hướng dẫn BCAT đã được mở rộng ra cho cả đợt cấp. Bafadhel và CS (năm 2012) (14) thực hiện nghiên cứu so sánh ngẫu nhiên có đối chứng (RCT) điều trị có hướng dẫn BCAT máu như là một biomarker cho việc sử dụng CRS uống trong đợt cấp điều trị ngoại trú. Nghiên cứu này đã chứng minh rằng có thể giảm được sử dụng CRS không thích hợp. Trên những bệnh nhân không tăng BCAT mà điều trị CRS sẽ làm tăng tác dụng ngoại ý và làm chậm thời gian bình phục. Điều này cho thấy BCAT là hướng dẫn xác định nhóm bệnh nhân có lợi khi chỉ định CRS. Nghiên cứu này cũng đặt ra việc cần thiết mở rộng nghiên cứu trên nhóm đợt cấp nặng nhập viện. Hình 2 thể hiện triệu chứng của các nhóm trong nghiên cứu: tăng BCAT điều trị bằng CRS, không tăng BCAT điều trị bằng placebo và không tăng BCAT điều trị bằng CRS. Nhóm cuối cùng có sự bình phục lâm sàng chậm nhất. Tác dụng làm chậm thời gian bình phục khi điều trị không thích hợp CRS cũng được nhấn mạnh trong nghiên cứu MEASTRAL (15). Trong nghiên cứu này, nhóm điều trị CRS có lâm sàng nặng hơn và thời gian bình phục lâu hơn. Điều này cho thấy việc nghiên cứu và khẳng định vai trò định hướng của các marker, trong đó BCAT, là quan trọng trong việc chỉ định CRS cho đợt cấp. Hình 2. Cải thiện triệu chứng khi sau khởi đầu đợt cấp trên các nhóm bệnh nhân được chia ngẫu nhiên vào các trị liệu theo BCAT máu ngoại vi kết hợp với trị liệu chuẩn. Triệu chứng cải thiện kém nhất ở nhóm BCAT (-) nhưng được điều trị bằng CRS cho thấy CRS có thể làm cho thời gian bình phục của nhóm này chậm lại (14) . Định hướng điều trị kháng sinh hợp lý đối với đợt cấp COPD nhiễm khuẩn là mục tiêu được nhiều nghiên cứu đặt ra trong thời gian gần đây. Procalcitonin (PCT) và C-reactive protein (CRP) là hai marker được phân tích nhiều nhất (16-18). PCT và CRP đã chứng minh được hiệu quả hướng dẫn điều trị kháng sinh trong đợt cấp COPD. Trong khi hiệu quả dự đoán của hai marker này là tương đương (19), do CRP là xét nghiệm có tính khả dụng cao hơn nên có tính thực hành tốt hơn. Trong 1 nghiên cứu khác, phân tích dưới nhóm (subgroup) ở ngưỡng CRP 50mg/L, giá trị dự đoán hiệu quả điều trị kháng sinh tốt hơn chức năng phổi (FEV 1 ), tốt hơn sự hiện diện của vi khuẩn trong đàm ở ngày thứ 10 và thậm trí tốt hơn cả type 1 Anthonisen ở ngày thứ 30 (hình 3) (20). Tổng quan 20 Hô hấp số 13/2017 Đánh giá mức độ nặng: Có nhiều tiêu chuẩn đã được đề xuất nhằm đánh giá mức độ nặng một cách khách quan theo kiểu yếu tố dự đoán tiên lượng tử vong trong viêm phổi cộng đồng (CURB hay PSI) (hình 4, trái) (22). Trong các tiêu chuẩn đánh giá mức độ năng kể trên, Hình 3. Phân tích dưới nhóm kết quả điều trị kháng sinh ở ngày 10 (A) và ngày 30 (B) Theo một hướng khác nhằm phenotype đợt cấp, hướng phân tích tế bào học đàm cũng được tập trung nghiên cứu. Câu hỏi thường được đặt ra là các chất trung gian viêm và sự xâm nhập của tế bào viêm vào đường thở có mối liên quan như thế nào và trong mối liên quan ấy, phổi suy sụp chức năng như thế nào. Trong một nghiên cứu của Pen gao và CS (năm 2013) (21), các tác giả đã chia bệnh nhân đợt cấp COPD theo phân loại tế bào học đàm thành 4 nhóm: ưu thế BCĐNTT, ưu thế BCAT, hỗn hợp và nghèo tế bào. Kết quả trên 83 bệnh nhân đợt cấp có 43% ưu thế BCĐNTT, 12% ưu thế BCAT, 6% hỗn hợp và 39% nghèo tế bào. Những bệnh nhân nhóm tăng BCĐNTT và hỗn hợp có điểm BODE cao hơn (điểm BODE càng cao, tiên lượng càng xấu), nhiều tế bào viêm trong đàm hơn, chức năng phổi kém hơn, thời gian nằm viện lâu hơn, các marker MMP-9, IL-6, CRP đàm cũng như SAA, IL-6 và CRP huyết thanh tăng cao hơn. Đặc biệt 83% bệnh nhân tăng BCĐNTT có bằng chứng nhiễm trùng và nhiều trong số đó đáp ứng kém với điều trị chuẩn. Theo dõi sau đợt cấp tình trạng viêm trên đường thở và chức năng phổi thấp vẫn còn duy trì trên hai nhóm tăng BCAT và hỗn hợp. ÁP DỤNg THỰC HÀNH Trên cơ sở các phân tích như trên, việc phân loại bệnh nhân để tiên lượng đáp ứng điều trị không còn tùy thuộc duy chỉ vào mức độ nặng như chúng ta đã nghĩ. Phenotype để xác định đặc tính viêm là rất quan trọng. Điều thú vị là việc này chúng ta có thể thực hiện ngay ở giai đoạn ổn định như nghiên cứu Bafadhel và cs đã phân tích (10). Hình 4. Các nghiên cứu xây dựng tiêu chuẩn xác định mức độ nặng đợt cấp COPD (22) (hình trái). Sơ đồ phân loại bệnh nhân đợt cấp (E) COPD (hình phải) (8) (hình khung mầu do tác giả bài viết này nhấn mạnh). Tổng quan 21 Hô hấp số 13/2017 BAP-65 là tiêu chuẩn có nhiều khả năng áp dụng trong thực hành do đơn giản và khả thi. BAP-65 được Shorr AF và CS đề xuất năm 2011 (23) gồm 4 yếu tố: tăng BUN, giảm tri giác, mạch >109 lần/phút và tuổi ≥65. Kết cục dự đoán của tiêu chuẩn nặng này là cần thở máy và tử vong trong bệnh viện đã được đánh giá có giá trị dự đoán với diện tích dưới đường cong là 0,79. Theo BAP-65, có 5 nhóm bệnh nhân: Nhóm I: không nguy cơ và tuổi <65; Nhóm II: không nguy cơ và tuổi ≥65; Nhóm III: 1 yếu tố nguy cơ; Nhóm IV: 2 yếu tố nguy cơ và Nhóm V có 3 yếu tố nguy cơ. Tuy nhiên tiêu chuẩn này chưa được nghiên cứu đánh giá rộng rãi nên cần sử dụng với sự thận trọng (22). gOLD guideline (2017) (4) chưa thể hiện được rõ ràng và thuận lợi trong hướng dẫn sử dụng CRS và kháng sinh. gOLD đề nghị phân loại mức độ nặng đợt cấp theo cách: mức độ nhẹ thì chỉ cần sử dụng thuốc dãn phế quản, mức độ trung bình cần sử dụng CRS và/hoặc kháng sinh và mức độ nặng cần nhập viện hoặc khám cấp cứu. Đối với hướng dẫn chỉ định CRS hay kháng sinh gOLD khuyến cáo từ mức độ trung bình với nhận định cần “xem xét” chỉ định (consider). Về chỉ định kháng sinh, gOLD khuyến cáo theo các triệu chứng của Anthonisen và/hoặc có chỉ định thở máy (xâm lấn hay không). Cho đến nay, chỉ định CRS và kháng sinh từ các guideline cũng đều khá mơ hồ như vậy. Một cách khái quát, thầy thuốc lâm sàng cần tiếp cận đánh giá đợt cấp từ hai góc độ: Biomarker để quyết định điều trị kháng sinh và CRS; Mức độ nặng lâm sàng để quyết định nơi điều trị tốt nhất. Năm 2015, Jose Luis Lopez-Campos và cs (8) đề xuất mô hình tiếp cận xử trí đợt cấp COPD cả từ hai góc độ trên (còn gọi là mô hình 2 trục) (hình 4, phải). Trong mô hình này, các tác giả chia đợt cấp (E=exacerbation) thành 4 nhóm E 1-4 ứng với cả mức độ nặng và chỉ định kháng sinh hay CRS với thái độ dứt khoát: 1) Nhóm E1 (tăng BCAT, nguy cơ thấp): CRS uống hoặc liều cao ICS. 2) Nhóm E2 (nhiễm khuẩn, nguy cơ thấp): Kháng sinh uống. 3) Nhóm E3 (tăng BCAT, nguy cơ cao): Cần nhập viện và CRS toàn thân và 4) Nhóm E4 (nhiễm khuẩn, nguy cơ cao): Cần nhập viện và điều trị kháng sinh. Jose Luis Lopez-Campos và cs cũng cho rằng đề xuất này cần được nghiên cứu đánh giá để được chấp nhận hay không. Tuy nhiên, nhìn dưới góc độ an toàn, bệnh nhân nhóm E1 và E2 (nguy cơ thấp, có thể điều trị ngoại trú) được xem là chiếm khoảng 80% (4) cần được đánh giá có tăng hay không BCAT, có nguy cơ nhiễm khuẩn hay không để quyết định điều trị CRS, kháng sinh và là việc làm cần ưu tiên. Bảng 1. Hướng dẫn tiếp cận điều trị từ xét nghiệm BCAT đàm Triệu chứng BCAT đàm 3% Cải thiện giảm thuốc dãn phế quản giảm thuốc dãn phế quản giảm thuốc dãn phế quản giảm thuốc kháng viêm giữ nguyên thuốc kháng viêm Tăng thuốc kháng viêm Không thay đổi giữ nguyên thuốc dãn phế quản giữ nguyên thuốc dãn phế quản giữ nguyên thuốc dãn phế quản giảm thuốc kháng viêm giữ nguyên thuốc kháng viêm Tăng thuốc kháng viêm Xấu đi Tăng thuốc dãn phế quản Tăng thuốc dãn phế quản Tăng thuốc dãn phế quản giảm thuốc kháng viêm giữ nguyên thuốc kháng viêm Tăng thuốc kháng viêm Tổng quan 22 Hô hấp số 13/2017 KẾT LUẬN COPD là một bệnh không đồng nhất. Tính không đồng nhất thể hiện không chỉ ở diễn biến bệnh mà còn ở các đợt cấp. Các dữ liệu nghiên cứu đã chứng minh được các dạng kiểu hình đợt cấp có tiên lượng và đáp ứng điều trị khác nhau. Các hướng dẫn xử trí đợt cấp hiện nay còn chưa có các khuyến cáo rõ ràng trong việc xác định và chỉ định kháng sinh, CRS hay cả hai mặc dù biết rằng việc chỉ định không hợp lý luôn kèm theo những tác dụng không mong muốn. Trong khi chờ kết quả những nghiên cứu có thiết kế tốt hơn để kết luận, việc nhận dạng kiểu hình trên nhóm bệnh nhân nhẹ, trung bình, điều trị ngoại trú và tiếp cận điều trị thuốc phù hợp rất cần được thực hiện. Trên bệnh nhân đợt cấp COPD ngoại trú, Siva R và cs (13) đã chứng minh cách tiếp cận điều trị theo BCAT (bảng 1) có hiệu quả tốt hơn so với điều trị theo phác đồ chuẩn (Hiệp hội Lồng ngực Anh, BTS) (hình 5) (13). Trong tình huống này, nếu bệnh nhân có tăng hay không BCAT máu (hay đàm) sẽ là cơ sở điều chỉnh thuốc dãn phế quản cùng với CRS. Nếu bệnh nhân có đàm đục và/hoặc tăng CRP ≥ 20mg/L (24,25), đây sẽ là các marker chẩn đoán đợt cấp nhiễm khuẩn và cần chỉ định điều trị kháng sinh. Hình 5. Theo dõi số lượng nhập viện trên 2 nhóm điều trị: theo guideline BTS và theo BCAT đàm 1. Wedzicha JA, Seemungal TA. COPD exacerbations: defining their cause and prevention. Lancet 2007; 370(9589): 786-96 2. Seemungal TA, Donaldson GC, Paul EA, Bestall JC, Jeffries DJ, Wedzicha JA. Effect of exacerbation on quality of life in patients with chronic obstructive pulmonary disease. Am J Respir Crit Care Med 1998; 157(5 Pt 1): 1418-22. 3. B. L. Barker, C. E. Brightling. Phenotyping the heterogeneity of chronic obstructive pulmonary disease. Clinical Science (2013) 124, 371–387 4. Global Initiative for Chronic Obstructive Lung Disease. Global Strategy for the Diagnosis, Management, Tài liệu tham khảo Tổng quan 23 Hô hấp số 13/2017 and Prevention of Chronic Obstructive Pulmonary Disease (2017). 5. John R. Hurst, Gavin C. Donaldson, Wayomi R. Perera, et al. Use of Plasma Biomarkers at Exacerbation of Chronic Obstructive Pulmonary Disease. Am J Respir Crit Care Med Vol 174. pp 867–874, 2006 6. Chris E Brightling, Bethan L Barker. Phenotyping chronic obstructive pulmonary disease (COPD) exacerbations: realising personalised medicine. Clinical Medicine 2012, Vol 12, No 6: s52–s56 7. Anthonisen NR, Manfreda J, Warren CP, Hershfield ES, Harding GK, Nelson NA. Antibiotic therapy in exacerbations of COPD. Ann Intern Med 1987;106:196–204 8. Jose Luis Lopez-Campos, Alvar Agustí. Heterogeneity of chronic obstructive pulmonary disease exacerbations: a two-axes classification proposal. Lancet Respir Med 2015; 3: 729–34 9. Hurst JR, Vestbo J Anzueto A et al. Susceptibility to exacerbation in chronic obstructive pulmonary disease. N Engl Med 2010;363:1128–38. 10. Bafadhel M, McKenna S, Terry S et al. Acute exacerbations of chronic obstructive pulmonary disease: identification of biologic clusters and their biomarkers. Am J Respir Crit Care Med 2011;184:662–71. 11. Walters JAE, Tan DJ, White CJ, Gibson PG, Wood- Baker R, Walters EH. Systemic corticosteroids for acute exacerbations of chronic obstructive pulmonary disease. Cochrane Database of Systematic Reviews 2014, Issue 9. Art. No.: CD001288. DOI: 10.1002/14651858.CD001288. pub4. 12. Vollenweider DJ, Jarrett H, Steurer-Stey CA, Garcia-Aymerich J, Puhan MA. Antibiotics for exacerbations of chronic obstructive pulmonary disease. Cochrane Database of Systematic Reviews 2012, Issue 12. Art. No.: CD010257. DOI: 10.1002/14651858.CD010257. 13. Siva R, Green RH, Brightling CE et al. Eosinophilic airway inflammation and exacerbations of COPD: a randomised controlled trial. Eur Respir J 2007;29:906–13. 14. Bafadhel M, McKenna S, Terry S, Mistry V, Pancholi M, Venge P, Lomas DA, Barer MR, Johnston SL, Pavord ID, et al. Blood eosinophils to direct corticosteroid treatment of exacerbations of COPD: a randomized placebo controlled trial. Am J Respir Crit Care Med 2012;186:48–55 15. Wilson R, Anzueto A, Miravitlles M, Arvis P, Alder J, Haverstock D, Trajanovic M, Sethi S. Moxifloxacin versus amoxicillin/clavulanic acid in outpatient acute exacerbations of COPD: MAESTRAL results. Eur Respir J 2012;40:17–27. 16. Christ-Crain M, Jaccard-Stolz D, Bingisser R, Gencay MM, Huber PR, Tamm M, Mu¨ ller B. Effect of procalcitonin-guided treatment on antibiotic use and outcome in lower respiratory tract infections: cluster-randomised, single-blinded intervention trial. Lancet 2004; 363:600–607. 17. Bafadhel M, Clark TW, Reid C, Medina MJ, Batham S, Barer MR, Nicholson KG, Brightling CE. Procalcitonin and C-reactive protein in hospitalized adult patients with community- acquired pneumonia or exacerbation of asthma or COPD. Chest 2011;139: 1410–1418. 18. Schuetz P, Christ-Crain M, Thomann R, Falconnier C, Wolbers M, Widmer I, Neidert S, Fricker T, Blum C, Schild U, et al. Effect of procalcitonin-based guidelines vs standard guidelines on antibiotic use in lower respiratory tract infections: the ProHOSP randomized controlled trial. JAMA 2009;302:1059– 1066. 19. Bafadhel M, Clark TW, Reid C, Medina MJ, Batham S, Barer MR, Nicholson KG, Brightling CE. Procalcitonin and C-reactive protein in hospitalized adult patients with community-acquired pneumonia or exacerbation of asthma or COPD. Chest 2011;139: 1410–1418 20. Daniels, Snijders, de Graaff, et al. Antibiotic Therapy for Acute Exacerbations of COPD. Am J Respir Crit Care Med Vol 181. pp 150–157, 2010 21. Gao P, Zhang J, He X, Hao Y, Wang K, et al. (2013) Sputum Inflammatory Cell-Based Classification of Patients with Acute Exacerbation of Chronic Obstructive Pulmonary Disease. PLoS ONE 8(5): e57678. doi:10.1371/journal.pone.0057678 22. Aran Singanayagam, Stuart Schembri, James D. Chalmers. Predictors of Mortality in Hospitalized Adults with Acute Exacerbation of Chronic Obstructive Pulmonary Disease. A Systematic Review and Meta-analysis. Ann Am Thorac Soc Vol 10, No 2, pp 81–89, Apr 2013 23. Shorr AF, Sun X, Johannes RS, et al. Validation of a novel risk score for severity of illness in acute exacerbations of COPD. Chest 2011; 140: 1177– 83. 24. René Lutter, Henk M. Jansen, Wim G. Boersma et al. Procalcitonin versus C-reactive protein as predictive markers of response to antibiotic therapy in acute exacerbations of COPD. DOI 10.1378/ chest.09-2927 Chest; Prepublished online June 24, 2010; 25. Peng C, Tian C, Zhang Y, Yang X, Feng Y, Fan H. C-reactive protein levels predict bacterial exacerbation in patients with chronic obstructive pulmonary disease. Am J Med Sci. 2013 Mar; 345(3):190-4.
File đính kèm:
xu_tri_dot_cap_benh_phoi_tac_nghen_man_tinh_khang_sinh_hay_k.pdf

