Xử trí corticosteroid toàn thân trong đợt cấp COPD: tại sao và thế nào ?
Đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) là một diễn biến thường gặp của COPD và
để lại nhiều hậu quả nặng nề cho người bệnh như suy giảm chất lượng cuộc sống, sụt giảm
nhanh chức năng hô hấp, chiếm phần lớn chi phí điều trị bệnh và là nguyên nhân gây tử
vong chính cho bệnh nhân. Khi đợt cấp xảy ra, quá trình viêm trong đường hô hấp và viêm
toàn thân diễn ra mạnh mẽ hơn với nhiều thay đổi so với giai đoạn ổn định. Corticosteroid
đường toàn thân hiện vẫn là thuốc kháng viêm hiệu quả nhất trong giai đoạn cấp của bệnh
và đang được khuyến cáo sử dụng trong lâm sàng. Bài viết này trình bày các bằng chứng về
hiệu quả và cách sử dụng corticosteroid đường toàn thân trong xử lý đợt cấp COPD.
Bạn đang xem tài liệu "Xử trí corticosteroid toàn thân trong đợt cấp COPD: tại sao và thế nào ?", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Xử trí corticosteroid toàn thân trong đợt cấp COPD: tại sao và thế nào ?
Hướng dẫn tHực HànH 28 Hô hấp số 15/2018 1. GIỚI THIỆU Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) được định nghĩa là bệnh đặc trưng bởi tình trạng giới hạn luồng khí dai dẳng và tiến triển liên quan đến tình trạng đáp ứng viêm quá mức và mạn tính của đường thở và phổi đối với các hạt và khí độc. Tình trạng viêm này diễn ra thường trực trong giai đoạn ổn định và gia tăng (kèm thay đổi đáng kể) khi bệnh nhân vào đợt cấp (1). Về định nghĩa, đợt cấp “là tình trạng nặng lên của các triệu chứng hơn mức dao động hàng ngày tới mức cần phải tăng điều trị” (1). Theo Anthonisen, đợt cấp xảy ra khi người bệnh có ho tăng về tần số và mức độ, tăng thể tích đàm khạc hoặc đàm thay đổi tính chất, tăng khó thở (2) . Đợt cấp COPD là một diễn biến thường gặp của COPD và để lại nhiều hậu quả nặng nề cho người bệnh như suy giảm chất lượng cuộc sống, sụt giảm nhanh chức năng hô hấp, chiếm phần lớn chi phí điều trị bệnh và là nguyên nhân gây tử vong chính cho bệnh nhân. Điều trị đợt cấp COPD ngoại trú và nội trú thường tập trung vào các thuốc dãn phế quản. Bên cạnh đó, corticosteroid toàn thân cũng được dùng phổ biến. Đã có nhiều nghiên cứu chứng minh điều trị đợt cấp COPD với corticosteroid toàn thân đem lại hiệu quả tuy nhỏ nhưng có ích cả đối với bệnh nhân ngoại trú và nội trú. 2. TẠI SAO CẦN SỬ DỤNG CORTICOSTEROID TOÀN THÂN TRONG ĐỢT CẤP BPTMT Tình trạng viêm: Tình trạng viêm xảy ra mạnh mẽ trong đợt cấp của COPD. Ngày nay, nhờ kỹ thuật sinh thiết phổi, phân tích đàm và tử thiết, quá trình viêm mạn tính của đường thở và phổi ở COPD đã được chứng minh (3). Khi các hạt và khí độc có trong khói thuốc lá hay một số chất khác tiếp xúc với niêm mạc đường hô hấp, nó sẽ khởi động một quá trình viêm chuyên biệt ở đường dẫn khí nhỏ và nhu mô phổi với nhiều loại tế bào khác nhau tham gia bao gồm các tế bào lympho mà đặc biệt bạch cầu đa nhân trung tính (BCĐNTT) và đại thực bào (4, 5). Quá trình viêm làm thay đổi cấu trúc và chức năng đường hô hấp qua 4 cơ chế chính (4): (1) Tăng mức độ dày của thành phế quản; (2) Tăng trương lực cơ trơn phế XỬ TRÍ CORTICOSTEROID TOÀN THÂN TRONG ĐỢT CẤP COPD: TẠI SAO VÀ THẾ NÀO? ThS.BS NGUYỄN NHƯ VINH Trung Tâm Đào Tạo Bác Sĩ Gia Đình, Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh BS TRẦN QUỐC TÀI Khoa Thăm Dò Chức Năng Hô Hấp, Bệnh Viện Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh Tóm tắt: Đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) là một diễn biến thường gặp của COPD và để lại nhiều hậu quả nặng nề cho người bệnh như suy giảm chất lượng cuộc sống, sụt giảm nhanh chức năng hô hấp, chiếm phần lớn chi phí điều trị bệnh và là nguyên nhân gây tử vong chính cho bệnh nhân. Khi đợt cấp xảy ra, quá trình viêm trong đường hô hấp và viêm toàn thân diễn ra mạnh mẽ hơn với nhiều thay đổi so với giai đoạn ổn định. Corticosteroid đường toàn thân hiện vẫn là thuốc kháng viêm hiệu quả nhất trong giai đoạn cấp của bệnh và đang được khuyến cáo sử dụng trong lâm sàng. Bài viết này trình bày các bằng chứng về hiệu quả và cách sử dụng corticosteroid đường toàn thân trong xử lý đợt cấp COPD. Từ khóa: Đợt cấp, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, COPD, corticosteroid. Hướng dẫn tHực HànH 29 Hô hấp số 15/2018 quản; (3) Tăng tiết nhày; (4) Mất các cấu trúc đàn hồi. Các cơ chế này hình thành nên hình ảnh bệnh học của COPD và biểu hiện thành các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân. Các nghiên cứu cho thấy quá trình viêm bắt đầu xảy ra ở người hút thuốc lá và tăng dần ở khi người đó mắc COPD (bệnh càng nặng viêm càng nhiều) và đặc biệt là tăng cao trong đợt cấp (hình 1). Những người hút thuốc và mắc COPD giai đoạn ổn định sẽ viêm mạn tính và tiến triển ảnh hưởng đến toàn bộ đường hô hấp và đặc trưng bởi sự gia tăng các đại thực bào và các tế bào lympho T CD 8 trong thành đường hô hấp và bạch cầu đa nhân trung tính trong lòng đường hô hấp. Hình 1. Tình trạng viêm gia tăng ở bệnh nhân COPD so với người hút thuốc lá không bị COPD hay không hút thuốc lá. Khi đã hình thành, quá trình viêm sẽ tiếp diễn dù ngưng hút thuốc lá và viêm xảy ra nhiều hơn khi bệnh nhân có đợt cấp do vi trùng hay virus (5). Đặc điểm về tế bào này thay đổi trong đợt cấp, khi BCAT và bạch cầu trung tính trở thành thành phần chính trong các đáp ứng viêm (6,7). Bất kỳ kích thích nào làm tăng viêm đường hô hấp cấp tính đều có thể dẫn đến tăng trương lực phế quản, tăng phù nề thành phế quản và tăng tạo chất nhầy. Các quá trình này cũng có thể làm trầm trọng thêm sự mất cân bằng giữa thông khí - tưới máu và hạn chế thông khí thở ra. Các biểu hiện lâm sàng tương ứng sẽ bao gồm trao đổi khí khó khăn hơn, khó thở tăng, ho và tăng tiết đàm hay xuất hiện đàm nhầy mủ. Đây là các biểu hiện chủ yếu của một đợt kịch phát. Cơ chế viêm xảy ra trong COPD ở giai đoạn ổn định hay khi vào đợt cấp tương đối phức tạp và hiện chưa được hiểu biết một cách đầy đủ. Tuy nhiên có một cơ chế viêm theo hướng tăng BCAT (BCAT) thường xảy ra khi bệnh nhân mắc COPD vào đợt cấp. Các nghiên cứu dựa trên sinh thiết niêm mạc đường hô hấp cho thấy BCAT ở niêm mạc phế quản tăng 30 lần trong đợt cấp (3) (hình 2) và sản phẩm của BCAT là eosinophilic cationic protein (ECP) - protein tích điện dương của BCAT – cũng tăng trong máu khi bệnh nhân vào đợt cấp (8). Hình 2. Thay đổi BCAT trong đàm từ giai đoạn ổn định sang giai đoạn cấp của bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (3) Sự gia tăng BCAT trong đợt cấp như hình 2 gợi ý rằng có một nhóm bệnh nhân có BCAT gia tăng trong đường thở. Sự gia tăng này trong đợt cấp COPD có thể có liên quan đến nguyên nhân virus gây ra đợt cấp (9, 10). Khi virus xâm nhập vào đường thở và bị nhận diện bởi các receptors (Toll- like receptor) trên các tế bào biểu mô và sau đó các tế bào này tạo ra rất nhiều các cytokine tiền viêm (11, 12). Các chemokine lôi kéo BCAT như RANTES (chemokine hóa hướng động với tế bào lympho T, BCAT), eotaxin và interleukin-5 (IL-5) cũng được tìm thấy gia tăng trong suốt đợt cấp (13). RANTES có thể thúc đẩy việc tập kết BCAT làm gia tăng số lượng các tế bào này ở niêm mạc đường hô hấp trong cơn kịch phát (14). Vai trò của BCAT vẫn còn đang được xác định, nhưng một số sản phẩm của BCAT (peroxidase của BCAT, protein cơ bản, eosinophil cationic protein (ECP), metalloproteinase, yếu tố kích hoạt tiểu cầu, và cysteinyl leukotrienes) có thể gây tổn thương đường hô hấp do cơ chế viêm (15) và cùng với histamin có thể gây ra co thắt phế quản. BCAT liên quan nhiều đến đợt cấp và đây là tế bào nhạy cảm nhất với corticosteroid trong đường thở do vậy hiệu quả điều trị của Hướng dẫn tHực HànH 30 Hô hấp số 15/2018 corticosteroid trong đợt cấp chủ yếu liên quan đến nhóm tế bào này. Trong COPD giai đoạn ổn định, số lượng tế bào BCAT cao có liên quan đến đáp ứng với corticosteroid cả đường toàn thân hay đường hít (ICS) (16) và trong giai đoạn cấp, nhiều bằng chứng cho thấy prednisolone và phối hợp ICS/LABA (LABA: thuốc dãn phế quản tác dụng kéo dài) giảm được BCAT trong đàm (17). Corticosteroid đường toàn thân là một kháng viêm có hiệu quả trong điều trị đợt cấp: Cơ chế hoạt động của corticosteroid toàn thân trong đợt cấp COPD chưa được hiểu rõ. Có thể corticosteroid làm giảm phù nề đường dẫn khí hoặc có một kiểu viêm khác trong đợt cấp nhạy với corticosteroid. Trong đợt cấp, số BCAT tăng lên và có khả năng bị ức chế bởi corticosteroid (2) . Các nghiên cứu cho thấy sử dụng corticosteroid toàn thân trong đợt cấp COPD rút ngắn thời gian hồi phục và cải thiện chức năng hô hấp (FEV 1 ). Corticosteroid toàn thân còn giúp cải thiện độ bão hòa oxy (3-5,18), nguy cơ tái phát sớm, thất bại điều trị (6), và thời gian nằm viện (4,7,18). Đối với điều trị ngoại trú, hướng dẫn của Hội Hô hấp Châu Âu (ERS)/Hội Lồng ngực Hoa Kỳ (ATS) rút ra từ phân tích gộp ba thử nghiệm lâm sàng (5,7,19) cho thấy điều trị corticosteroid đường uống làm giảm nhập viện và cải thiện chức năng hô hấp (FEV 1 ). Đối với điều trị nội trú, khi điều trị kèm thuốc dãn phế quản, corticosteroid toàn thân giúp cải thiện triệu chứng và chức năng hô hấp, giảm thời gian nằm viện (1,4,20,21). Một phân tích gộp Cochrane (năm 2014) ở các trường hợp COPD nặng và rất nặng cung cấp các bằng chứng chất lượng cao ủng hộ điều trị đợt cấp COPD với corticosteroid toàn thân qua đường uống hoặc tĩnh mạch. Corticosteroid toàn thân làm giảm nguy cơ thất bại điều trị hơn một nửa so với nhóm giả dược trong 9 nghiên cứu (mức độ chứng cứ cao, điều trị 9 người với corticosteroid toàn thân để tránh 1 người thất bại điều trị). Trong 2 nghiên cứu, nhóm được điều trị corticosteroid toàn thân có tỷ lệ tái phát thấp hơn và FEV 1 đo sau điều trị tới 72 giờ có cải thiện hơn, tuy hiệu quả này không thấy ở các thời điểm sau đó. Đối với tất cả các bệnh nhân nhập viện, thời gian nằm viện ngắn hơn đáng kể khi điều trị với corticosteroid toàn thân, nhưng không có sự khác biệt đối với các bệnh nhân nhập Khoa Hồi sức Tích cực (21). Theo hướng dẫn của Hiệp hội Bác sĩ Lồng ngực Hoa Kỳ (CHEST) và Hội Lồng ngực Canada (CTS), bệnh nhân bị đợt cấp COPD điều trị ngoại trú hay nội trú cần được điều trị với corticosteroid toàn thân đường uống hoặc tĩnh mạch để ngăn ngừa nhập viện vì đợt cấp COPD tiếp theo trong 30 ngày đầu sau đợt cấp đầu tiên (chứng cứ 2B) và không nên điều trị corticosteroid toàn thân chỉ để ngăn ngừa đợt cấp COPD tiếp theo xuất hiện sau hơn 30 ngày kể từ đợt cấp đầu tiên (chứng cứ 1A) (8). Các yếu tố tiên đoán hiệu quả corticosteroid toàn thân trong đợt cấp COPD: Một số nghiên cứu gần đây cho thấy corticosteroid có thể ít hiệu quả trong điều trị đợt cấp COPD ở bệnh nhân có mức BCAT trong máu thấp (9,10, 22) . Các nghiên cứu vẫn đang được tiến hành để tìm ra các kiểu hình COPD đáp ứng tốt với corticosteroid toàn thân. Một số dữ liệu gợi ý bệnh nhân COPD có số BCAT trong máu cao sẽ đáp ứng nhiều hơn với corticosteroid đường uống so với bệnh nhân có số BCAT trong máu thấp. Một nghiên cứu thử nghiệm ngẫu nhiên tìm ra các bệnh nhân có BCAT trong máu ≥ 2% cải thiện điểm chất lượng cuộc sống và hồi phục nhanh hơn sau khi uống corticosteroid đường uống so với giả dược. Ngược lại, bệnh nhân có BCAT trong máu < 2% điều trị bằng giả dược cải thiện điểm chất lượng cuộc sống hơn nhóm điều trị corticosteroid đường uống (9). Một nghiên cứu khác gộp dữ liệu từ ba thử nghiệm ngẫu nhiên cho thấy các bệnh nhân có BCAT trong máu ≥ 2% được điều trị corticosteroid toàn thân có tỷ lệ thất bại điều trị chỉ 11% (so với 66% khi điều trị giả dược), các bệnh nhân có BCAT trong máu < 2% được điều trị prednisone Hướng dẫn tHực HànH 31 Hô hấp số 15/2018 có tỷ lệ thất bại điều trị là 26% (so với 20% khi điều trị giả dược) (11). 3. CÁCH DÙNG CORTICOSTEROID TOÀN THÂN TRONG ĐỢT CẤP COPD Điều trị ngoại trú: GOLD khuyến cáo sử dụng liều tương đương 40 mg prednisone uống mỗi ngày trong 5 ngày (1) còn NICE (Hướng dẫn của Viện Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia Anh) khuyến cáo dùng liều 30 mg prednisone uống mỗi ngày trong 7-14 ngày (12). Bảng 1 trình bày liều tương đương của các thuốc corticosteroid. Bảng 1. Đặc điểm các thuốc corticosteroid (13) Corticosteroid Liều tương đương Hoạt tính kháng viêm tương đối Thời gian hoạt động (giờ) Tác dụng ngắn Hydrocortisone 20 1 8-12 Cortisone acetate 25 0,8 8-12 Tác dụng tức thì Prednisone 5 4 12-36 Prednisolone 5 4 12-36 Methylprednisolone 4 5 12-36 Triamcinolone 4 5 12-36 Tác dụng dài Dexamethasone 0,75 30 36-72 Betamethasone 0,6 30 36-72 Một số bệnh nhân có thể hưởng lợi từ liều thuốc cao hơn hoặc thời gian dùng dài hơn, tùy thuộc vào mức độ nặng của đợt cấp và mức độ đáp ứng với các liệu trình corticosteroid trước đó. Trong một nghiên cứu thử nghiệm ngẫu nhiên, so với nhóm chứng giả dược, nhóm uống 40 mg prednisone trong 10 ngày ít quay trở lại khoa cấp cứu hay phòng khám do tăng khó thở trong vòng 30 ngày sau đợt cấp. Đồng thời, nhóm uống prednisone giảm mức độ khó thở và cải thiện FEV 1 tốt hơn vào ngày 10 (7). Hình 3. Ước tính Kaplan-Meier xác suất không tái phát sau 30 ngày ở nhóm prednisone và giả dược (7). NICE năm 2010 kết luận nên điều trị corticosteroid đường uống phối hợp với các phương pháp điều trị khác trong tất cả các bệnh nhân nhập viện vì đợt cấp COPD và xem xét ở các bệnh nhân điều trị ngoại trú vào đợt cấp tăng khó thở đáng kể, ảnh hưởng lên sinh hoạt hằng ngày (12). Điều trị nội trú: - Liều thuốc: Liều corticosteroid toàn thân tối ưu để điều trị đợt cấp COPD vẫn chưa được xác định rõ (1,14). Liều thường dùng dao động trong khoảng 30-60 mg prednisone mỗi ngày, 60-125 mg methylprednisone 2-4 lần/ngày, tùy vào độ nặng của đợt cấp (16,17,23). Bắt đầu có nhiều bằng chứng ủng hộ sử dụng corticosteroid liều trung bình thay cho liều cao ở tất cả các bệnh nhân COPD vào đợt cấp. Một nghiên cứu so sánh liều trung bình corticosteroid trong hai ngày đầu tiên là 60 mg đường uống và 556 mg đường tĩnh mạch (23). Kết quả cho thấy nguy cơ thất bại điều trị không thấp Hướng dẫn tHực HànH 32 Hô hấp số 15/2018 hơn ở nhóm điều trị liều thấp hơn. Tuy vậy, đây chỉ là nghiên cứu quan sát không phân rõ mức độ nặng của COPD nên có khả năng các bệnh nhân COPD nhẹ được dùng liều thấp đường uống nhiều hơn. Mặt khác, đối với các bệnh nhân đe dọa hay đang có suy hô hấp cấp do đợt cấp COPD, nhiều bác sĩ sử dụng liều cao corticosteroid đường tĩnh mạch, như liều tương đương methylprednisolone 60 mg tĩnh mạch, 1-4 lần/ngày mặc dù bằng chứng ủng hộ cách điều trị này còn hạn chế. Trong một nghiên cứu đoàn hệ quan sát 17.239 bệnh nhân nhập Khoa Hồi sức tích cực do đợt cấp COPD, bệnh nhân được chia làm hai nhóm sử dụng methylprednisolone liều thấp (≤240 mg/ ngày) và nhóm sử dụng liều cao (>240 mg/ngày). Sử dụng methylprednisolone liều thấp không tương quan với giảm tử suất, nhưng tương quan với giảm thời gian nằm viện và nằm Khoa Hồi sức tích cực, chi phí bệnh viện, thời gian thở máy xâm lấn, nhu cầu điều trị insulin và điều trị nấm (17). - Đường dùng: Hướng dẫn GOLD khuyến cáo corticosteroid đường uống có hiệu quả tương đương đường tĩnh mạch (1). Hướng dẫn ERS/ATS khuyến cáo sử dụng corticosteroid đường uống thay cho đường tĩnh mạch ở các bệnh nhân đợt cấp COPD nhập viên nếu đường vào và chức năng dạ dày ruột tốt (khuyến cáo có điều kiện, mức chứng cứ thấp) (14). Một nghiên cứu quan sát lớn trên 80.000 bệnh nhân đợt cấp COPD nhập viện (không nhập khoa Hồi sức tích cực) cho thấy >90% bác sĩ ở Hoa Kỳ thích sử dụng corticosteroid đường tĩnh mạch hơn đường uống (24). Mặt khác, những bệnh nhân được điều trị với corticosteroid đường tĩnh mạch như vậy có thời gian nằm viện lâu hơn, chi trả chi phí cao hơn so với nhóm điều trị corticosteroid đường uống mà không có bằng chứng rõ rệt về hiệu quả bổ sung (kết cục tử vong, nhu cầu thở máy hoặc tái nhập viện sau 30 ngày) (23). Corticosteroid đường uống được hấp thụ nhanh với nồng độ huyết thanh đạt đỉnh sau một giờ uống, sinh khả dụng đạt gần như hoàn toàn và có hiệu quả tương đương corticosteroid đường tĩnh mạch trong điều trị hầu hết các đợt cấp COPD (14,15,21). Khi so sánh giữa điều trị corticosteroid toàn thân đường uống và đường tĩnh mạch, phân tích gộp Cochrane cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa của các chỉ tiêu chính (thất bại điều trị, đợt cấp tái phát, tử suất) hoặc bất cứ chỉ tiêu phụ nào. Đồng thời, dùng đường tĩnh mạch đem lại nhiều tác dụng phụ hơn so với đường uống (21). Corticosteroid đường tĩnh mạch thường được dùng cho các bệnh nhân có đợt cấp nặng không đáp ứng với corticosteroid uống ở nhà, bệnh nhân không thể uống hoặc bệnh nhân giảm hấp thụ do giảm tưới máu tạng (bệnh nhân bị sốc). Chỉ một nghiên cứu có 40 đối tượng tham gia báo cáo tần suất biến cố bất lợi nhiều hơn ở nhóm điều trị corticosteroid đường tĩnh mạch so với nhóm dùng đường uống (11 và 0 trường hợp bị tăng đường huyết, 3 và 0 trường hợp tăng huyết áp nặng hơn) (25). Tuy nhiên, dữ liệu này vẫn là quá ít để đưa ra kết luận chính xác về nguy cơ tác dụng phụ điều trị. - Thời gian điều trị: Thời gian tối ưu điều trị corticosteroid toàn thân không được khuyến cáo rõ và thường dựa vào độ nặng đợt cấp COPD và mức độ đáp ứng với corticosteroid (1,14,26). Hướng dẫn GOLD đề xuất sử dụng corticosteroid toàn thân trong 5 ngày (1), trong khi hướng dẫn của ERS/ATS định nghĩa liệu trình corticosteroid đường uống ngắn ngày là ≤14 ngày và đề xuất điều trị ngắn ngày cho bệnh nhân COPD vào đợt cấp điều trị ngoại trú (14). Một số nghiên cứu gợi ý rằng các liệu trình corticosteroid toàn thân ngắn ngày hơn (như 3 ngày) cũng có hiệu quả như liệu trình dài ngày (27). Thử nghiệm Systemic Corticosteroids in COPD Exacerbations (SCCOPE) (4), so sánh liệu trình 2 tuần và 8 tuần cho thấy điều trị kéo dài không đem lại lợi ích bổ sung. Đồng thời, các bệnh nhân trong nhóm 8 tuần gặp nhiều tác dụng phụ do corticosteroid hơn (4). Thử nghiệm giảm sử dụng corticosteroids trong đợt cấp COPD (REDUCE) phân ngẫu nhiên 314 bệnh nhân vào hai nhóm điều trị 40 Hướng dẫn tHực HànH 33 Hô hấp số 15/2018 1. GOLD. Global Strategy for the Diagnosis, Management and Prevention of COPD. 2018. 2. Saetta M, Di Stefano A, Maestrelli P, et al. Airway eosinophilia in chronic bronchitis during exacerbations. American journal of respiratory and critical care medicine. 1994;150(6):1646-1652. 3. Maltais F, Ostinelli J, Bourbeau J, et al. Comparison of nebulized budesonide and oral prednisolone with placebo in the treatment of acute exacerbations of chronic obstructive pulmonary disease: a randomized controlled trial. American journal of respiratory and critical care medicine. 2002;165(5):698-703. 4. Niewoehner DE, Erbland ML, Deupree RH, et al. Effect of systemic glucocorticosteroids on exacerbations of chronic obstructive pulmonary disease. New England Journal of Medicine. 1999;340(25):1941-1947. 5. Thompson WH, Nielson CP, Carvalho P, Charan NB, Crowley JJ. Controlled trial of oral prednisone in outpatients with acute COPD exacerbation. American journal of respiratory and critical care medicine. 1996;154(2):407-412. 6. Alía I, Miguel A, Esteban A, et al. Efficacy of corticosteroid therapy in patients with an acute mg prednisone mỗi ngày trong 5 ngày và trong 14 ngày (16). Kết quả cho thấy không có sự khác biệt về thời gian tới lần tái phát đợt cấp thứ hai, khả năng bị đợt cấp trong 180 ngày tiếp theo và cải thiện chức năng hô hấp. Tuy liều tích lũy corticosteroid ở nhóm điều trị 14 ngày cao hơn nhưng tác dụng phụ (tăng đường huyết, tăng huyết áp) lại không khác biệt giữa hai nhóm. Một phân tích gộp trên Cochrane vào tháng 3/2018 về thời gian sử dụng corticosteroid toàn thân ngắn hạn (3-7 ngày) và dài hơn (10-15 ngày) (bao gồm cả dữ liệu REDUCE) cho thấy 5 ngày sử dụng corticosteroid đường uống là đã đủ hiệu quả điều trị đợt cấp COPD. Trong 8 nghiên cứu được phân tích, không có sự khác biệt về nguy cơ thất bại điều trị với corticosteroid toàn thân trong thời gian ngắn hạn và thời gian dài hơn. Đồng thời, cũng không có sự khác biệt về nguy cơ tái phát, thời gian tới đợt cấp COPD tiếp theo, khả năng có biến cố bất lợi, thời gian nằm viện, chức năng hô hấp cuối điều trị giữa nhóm điều trị corticosteroid toàn thân trong thời gian ngắn hạn và thời gian dài hơn. Tuy nhiên, các nghiên cứu chỉ bao gồm COPD mức độ nặng và rất nặng (26). Cuối điều trị, corticosteroid có thể được ngưng đột ngột mà không cần giảm liều dần nếu bệnh nhân đã hồi phục đáng kể. Ngược lại, corticosteroid sẽ được giảm liều dần trong bảy ngày tiếp theo để xác định có cần điều trị corticosteroid kéo dài hơn hay không. Tuy nhiên, điều trị corticosteroid toàn thân kéo dài rất hiếm khi cần thiết cho bệnh nhân COPD ổn định nếu đã được điều trị tối ưu. Còn giảm liều dần corticosteroid vì lo lắng về sự ức chế tuyến thượng thận là không cần thiết nếu thời gian điều trị ngắn hơn ba tuần (thời gian quá ngắn để làm teo tuyến thượng thận) (28). - Tác dụng phụ: Các tác dụng phụ của corticosteroid toàn thân khá phổ biến, không thể tránh khỏi trong điều trị đợt cấp COPD. Nhiều dạng tác dụng phụ được báo cáo trong các nghiên cứu, bao gồm triệu chứng co giật, mất ngủ, tăng cân, lo âu, trầm cảm và tăng đường huyết. Tuy nhiên, cách đánh giá tác hại giữa các nghiên cứu không được khai báo rõ và vì số lượng ít biến cố bất lợi nghiêm trọng nên không thể đánh giá nguy cơ gây hại khi sử dụng corticosteroid đường uống so với giả dược ở bệnh nhân COPD vào đợt cấp điều trị ngoại trú. Hướng dẫn ATS/ERS đánh giá cho thấy hiệu quả của corticosteroid đường uống có thể vượt quá các tác dụng phụ, gánh nặng và chi phí, nhưng kết luận này có độ tin cậy thấp (14). KẾT LUẬN Tóm lại, corticosteroid đường toàn thân là thuốc kháng viêm hiệu quả cho nhiều bệnh nhân vào đợt cấp của COPD với liều, đường dùng và thời gian dùng được tóm tắt như sau: Liều điều trị ngoại trú là 30-40 mg/ ngày. Sử dụng đường uống được ưu tiên hơn tĩnh mạch vì hiệu quả tương đương nhưng dễ sử dụng và kinh tế hơn. Thời gian sử dụng 5-7 ngày được nhiều khuyến cáo vì sử dụng dài ngày hơn chưa có bằng chứng hiệu quả hơn. Tài liệu tham khảo Hướng dẫn tHực HànH 34 Hô hấp số 15/2018 exacerbation of chronic obstructive pulmonary disease receiving ventilatory support. Archives of internal medicine. 2011;171(21):1939-1946. 7. Aaron SD, Vandemheen KL, Hebert P, et al. Outpatient oral prednisone after emergency treatment of chronic obstructive pulmonary disease. New England Journal of Medicine. 2003;348(26):2618-2625. 8. Criner GJ, Bourbeau J, Diekemper RL, et al. Prevention of acute exacerbations of COPD: American college of chest physicians and Canadian thoracic society guideline. Chest. 2015;147(4):894-942. 9. Bafadhel M, McKenna S, Terry S, et al. Blood eosinophils to direct corticosteroid treatment of exacerbations of chronic obstructive pulmonary disease: a randomized placebo-controlled trial. American journal of respiratory and critical care medicine. 2012;186(1):48-55. 10. Hurst JR, Vestbo J, Anzueto A, et al. Susceptibility to exacerbation in chronic obstructive pulmonary disease. New England Journal of Medicine. 2010;363(12):1128-1138. 11. Bafadhel M, Davies L, Calverley PM, Aaron SD, Brightling CE, Pavord ID. Blood eosinophil guided prednisolone therapy for exacerbations of COPD: a further analysis. European Respiratory Journal. 2014;44(3):789-791. 12. NICE. Chronic obstructive pulmonary disease in over 16s: diagnosis and management. Clinical guideline (CG101). Published date: June 2010 (on line: https://www.nice.org.uk/guidance/ cg101/chapter/1-guidance). 13. Liu D, Ahmet A, Ward L, et al. A practical guide to the monitoring and management of the complications of systemic corticosteroid therapy. Allergy, Asthma & Clinical Immunology. 2013;9(1):30. 14. Wedzicha JA, Miravitlles M, Hurst JR, et al. Management of COPD exacerbations: A European respiratory society/American thoracic society guideline. European Respiratory Journal. 2017;49(3):1600791. 15. de Jong YP, Uil SM, Grotjohan HP, Postma DS, Kerstjens HA, van den Berg JW. Oral or IV Prednisolone in the Treatment of COPD Exacerbations. Chest. 2007;132(6):1741-1747. 16. Leuppi JD, Schuetz P, Bingisser R, et al. Short- term vs conventional glucocorticosteroid therapy in acute exacerbations of chronic obstructive pulmonary disease: the REDUCE randomized clinical trial. Jama. 2013;309(21):2223-2231. 17. Kiser TH, Allen RR, Valuck RJ, Moss M, Vandivier RW. Outcomes associated with corticosteroid dosage in critically ill patients with acute exacerbations of chronic obstructive pulmonary disease. American journal of respiratory and critical care medicine. 2014;189(9):1052-1064. 18. Davies L, Angus R, Calverley P. Oral corticosteroids in patients admitted to hospital with exacerbations of chronic obstructive pulmonary disease: a prospective randomised controlled trial. The Lancet. 1999;354(9177):456-460. 19. Bathoorn E, Liesker JJ, Postma DS, et al. Anti- inflammatory effects of combined budesonide/ formoterol in COPD exacerbations. COPD: Journal of Chronic Obstructive Pulmonary Disease. 2008;5(5):282-290. 20. Quon BS, Gan WQ, Sin DD. Contemporary management of acute exacerbations of COPD: a systematic review and metaanalysis. Chest. 2008;133(3):756-766. 21. Walters JA, Tan DJ, White CJ, Gibson PG, Wood- Baker R, Walters EH. Systemic corticosteroids for acute exacerbations of chronic obstructive pulmonary disease. The Cochrane Library. 2014. 22. Bafadhel M, McKenna S, Terry S, et al. Acute exacerbations of chronic obstructive pulmonary disease: identification of biologic clusters and their biomarkers. American journal of respiratory and critical care medicine. 2011;184(6):662-671. 23. Lindenauer PK, Pekow PS, Lahti MC, Lee Y, Benjamin EM, Rothberg MB. Association of corticosteroid dose and route of administration with risk of treatment failure in acute exacerbation of chronic obstructive pulmonary disease. Jama. 2010;303(23):2359-2367. 24. Krishnan JA, Mularski RA. Acting on comparative effectiveness research in COPD. JAMA. 2010;303(23):2409-2410. 25. Ceviker Y, Sayiner A. Comparison of two systemic steroid regimens for the treatment of COPD exacerbations. Pulmonary pharmacology & therapeutics. 2014;27(2):179-183. 26. Walters J, Tan D, White C, Wood-Baker R. Different durations of corticosteroid therapy for exacerbations of chronic obstructive pulmonary disease. The Cochrane database of systematic reviews. 2018;3:CD006897-CD006897. 27. Sayiner A, Aytemur ZA, Cirit M, Ünsal İ. Systemic glucocorticosteroids in severe exacerbations of COPD. Chest. 2001;119(3):726-730. 28. Stoller JK. Management of exacerbations of chronic obstructive pulmonary disease. 2018. Accessed April 2018.
File đính kèm:
xu_tri_corticosteroid_toan_than_trong_dot_cap_copd_tai_sao_v.pdf

