Xử trí 10 tình huống băng huyết sau sanh nặng thường gặp
Giới thiệu
Điều trị băng huyết sau sanh (BHSS) thường phức tạp, đã có nhiều mô hình được nêu ra. Phần lớn đều tiếp cận trực tiếp đến một nguyên nhân cụ thể của BHSS. Hiếm có tư liệu cho kế hoạch điều trị liên quan đến nhiều nguyên nhân. Căn cứ từ các dữ liệu được công bố liên quan đến trường hợp tử vong do BHSS của các nước Anh,1 Úc,2 Canada3 và Mỹ.4 Karoshi và Palacios đã nhận thấy có 10 tình huống BHSS nặng thường gặp và các cách xử trí.
Bạn đang xem tài liệu "Xử trí 10 tình huống băng huyết sau sanh nặng thường gặp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Xử trí 10 tình huống băng huyết sau sanh nặng thường gặp

1TỔNG QUAN Y VĂN Xử trí 10 tình huống băng huyết sau sanh nặng thường gặp Phan Văn Quyền *, Nguyễn Long *, Lê Anh Thư *, Đào Thanh Hà *, Nguyễn Bình Thành*, Lê Thị Anh Thư *, Nguyễn Thị Ngọc Trúc *. * Bệnh viện Từ Dũ Giới thiệu Điều trị băng huyết sau sanh (BHSS) thường phức tạp, đã có nhiều mô hình được nêu ra. Phần lớn đều tiếp cận trực tiếp đến một nguyên nhân cụ thể của BHSS. Hiếm có tư liệu cho kế hoạch điều trị liên quan đến nhiều nguyên nhân. Căn cứ từ các dữ liệu được công bố liên quan đến trường hợp tử vong do BHSS của các nước Anh,1 Úc,2 Canada3 và Mỹ.4 Karoshi và Palacios đã nhận thấy có 10 tình huống BHSS nặng thường gặp và các cách xử trí.5 Việc xử lý BHSS thường rơi vào tình trạng: QUÁ THIẾU và QUÁ MUỘN. Thiếu thuốc men, dịch truyền, máu, thiếu các chuyên gia kinh nghiệm, ... và muộn do phát hiện hay quyết định không kịp thời. Khi BHSS xảy ra, thường diễn biến qua nhiều giai đoạn và hầu như luôn luôn bất ngờ, người đỡ sanh không được chuẩn bị để đối phó với BHSS thường xuyên và định kỳ. Nhất là khi BHSS xảy ra vào ban đêm, vào cuối tuần, hoặc ngày lễ, hoặc khi bác sĩ, nữ hộ sinh chăm sóc chỉ có một mình trong phòng sanh ca BHSS xuất hiện và không thể tìm được người có khả năng giúp đỡ kịp thời. Hình 1 cho thấy báo cáo phân tích 25 năm các ca tử vong ở Anh cho thấy 60-70 % bệnh nhân (BN) được chăm sóc không đạt tiêu chuẩn. Mười tình huống BHSS các bác sĩ sản khoa thường gặp trên thực tế lâm sàng, tất cả luôn bắt đầu đơn giản nhưng nếu các xử trí thích hợp không thực hiện kịp thời, có thể dẫn đến tình trạng nghiêm trọng hơn và cuối cùng là tử vong. Sẽ vô cùng khó khăn để làm cho mọi việc phức tạp trở thành đơn giản, trong khi dễ dàng để làm những điều đơn giản trở thành phức tạp. Điều này rất đúng trong điều trị BHSS bởi vì, với mười tình huống BHSS cho thấy ngay từ lúc khởi đầu đều có nguyên nhân khác nhau từ đơn giản đến phức tạp, và thậm chí các trường hợp đơn giản cũng trở nên phức tạp chỉ sau một thời gian rất ngắn Do đó trong điều trị BHSS cần lưu ý trọng tâm dưới đây: Thời gian điều trị BHSS càng kéo dài càng làm vấn đề phức tạp hơn vì khi không được điều trị cầm máu thích hợp, đầy đủ và kịp thời sẽ đưa đến rối loạn đông máu (RLĐM). Một khi RLĐM xảy ra là phát sinh thêm bệnh lý mới cần phải điều trị. Do đó các biện pháp khâu ép, thuyên tắc động mạch, điều trị với yếu tố VIIa hoặc thậm chí cắt tử cung (TC) cần thực hiện khi không thể kiểm soát BHSS. Các phân tích hồi cứu những trường hợp BHSS cho thấy rõ là các nhóm điều trị đã không lưu ý hoặc không nỗ lực điều trị chảy máu khi có RLĐM. Bảy trong số mười tình huống được bắt 2THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 76, Số 1, Tháng 6 – 2014 đầu bằng một phác đồ, và các phác đồ được nghiên cứu kết hợp với các đề xuất điều trị cần thiết phát triển từng bước tiếp theo một cách hợp lý. Các phác đồ này giúp hiểu được việc điều trị không chỉ phát triển hợp lý mà còn luôn luôn lưu ý thời gian trôi qua. Nói cách khác, nếu đã điều trị nội khoa bằng cách sử dụng ba hoặc bốn loại thuốc co hồi TC mà không hiệu quả trong vòng 1 giờ, thì không có lý do gì để hy vọng các thuốc đó sẽ hiệu quả trong các giờ tiếp theo. Tương tự, nếu để đến khi bắt đầu có RLĐM mới thực hiện khâu ép TC thì cũng không có kết quả tốt trừ khi RLĐM đã được xử lý. Cần lưu ý là một trong những liệu pháp có thể không thể hiệu quả cho tất cả các nguyên nhân gây BHSS và cần có nhiều cách điều trị khác nhau và được lựa chọn phù hợp với nguyên nhân gây ra chảy máu. Tình huống 1. BHSS sau sanh ngã âm đạo (ÂĐ) Phác đồ 1 Điều quan trọng là ngay lập tức phải nhận ra BHSS khi BN đã mất hơn 500 ml máu hoặc khi chảy máu đã bắt đầu ảnh hưởng đến dấu hiệu sinh tồn. Nếu sản phụ khi bắt đầu chuyển dạ có Hb < 7g/dl thì chỉ cần mất đi 200 ml máu là đã bị BHSS. Điểm quan trọng thứ hai cần phải lưu ý là khi chuyển dạ kéo dài ≥ 24 h, ngoài việc mất máu do đờ TC, cũng còn 2 nguyên nhân khác là chấn thương đường sinh dục và mất nước có thể góp phần làm nặng thêm diễn biến lâm sàng. Đờ TC là nguyên nhân phổ biến nhất của BHSS nên đều trị ban đầu là dùng thuốc co hồi TC. Nói chung, oxytocin, syntocinon, methergin, prostaglandin và carbetocin có mức độ thành công như nhau. Misoprostol uống hay đặt ÂĐ hoặc trực tràng đặc biệt có giá trị ở những nơi không có oxytocin. Tranexamic axit có hiệu quả tốt trong điều trị chấn thương nhưng trong sản khoa ít dùng, mặc dù cũng có một số báo cáo về việc sử dụng rộng rãi tranexamic axit thành công trong điều trị BHSS. Ngoài ra, tranexamic acid thường được sử dụng trong phẩu thuật tim mạch và gan mật để kiểm soát chảy máu. Tranexamic axit giúp ổn định cục máu đông. Nếu chảy máu vẫn tiếp tục hoặc nhiều hơn sau điều trị, cần phải kiểm tra ÂĐ, cổ TC. Cùng lúc đó, cũng cần kiểm tra bánh nhau. Nếu không thấy tổn thương ÂĐ, cổ TC và chảy máu vẫn tiếp tục thì nên đặt bóng chèn. Nếu có tổn thương ÂĐ, có 3 trường hợp xảy ra: - Trường hợp 1: có một hoặc 2 vết rách ÂĐ chỉ cần khâu phục hồi đơn giản - Trường hợp 2: vết rách phức tạp hoặc mô phù nề nhiều, chảy máu nhiều nên chèn bóng nén toàn bộ thành ÂĐ. Nếu không có bóng chèn, có thể chèn gạc tẩm dung dịch khử trùng. - Trường hợp 3: nghiêm trọng nhất, nếu vết Sanh thường BHSS Thuốc gò TC Tranexamic Còn chảy máu Thăm khám Đặt bóng chèn (sau khi đã loại trừ chấn thương) Nếu do tổn thương Có thể tiếp cận Không thể tiếp cận Khâu hoặc chèn gạc Tắc mạch (+/-) nếu không đủ ĐK -> ép ĐMC - PT - PP khác (lưu ý tránh tổn thương niệu quản) 3TỔNG QUAN Y VĂN rách sâu, kéo dài vào ổ bụng dẫn đến tụ máu sau phúc mạc hoặc ảnh hưởng đến đường tiết niệu. Nên nhớ rằng nếu không nhận ra vết rách phức tạp và với một mũi khâu đơn giản có thể che khuất một vết rách sâu ở thành bên ÂĐ, vết rách này có thể kèm theo tổn thương trực tràng, bàng quang và/hoặc niệu quản sẽ dẫn đến kết quả tai hại. Cần phải bộc lộ rõ ràng, có thể cắt rộng tầng sinh môn, sử dụng van thành trước, và thành sau ÂĐ và kẹp Aliss dài để kẹp thành ÂĐ đến gần đỉnh của vết rách. Tốt hơn là nên khâu thành ÂĐ dưới quan sát rõ ràng. Nên khâu một mũi càng cao càng tốt trên đỉnh vết rách và kéo căng liên tục để cầm máu, các mũi tiếp theo phục hồi vết rách ÂĐ. Thông thường, động mạch đang chảy máu dưới thành ÂĐ có thể co rút lại, do đó phải may cao hơn và về phía 2 bên đỉnh của vết rách. Nếu nghi ngờ có chấn thương niệu quản phải soi bàng quang ngay, khi thấy được dòng phun nước tiểu ở cả 2 bên bàng quang chứng tỏ niệu quản còn nguyên vẹn. Nếu không thể soi bàng quang nên chụp cản quang bể thận vào ngày hôm sau. Nếu BHSS sảy ra tại các bệnh viện trung tâm đầy đủ tiện nghi, nên thận trọng điều chỉnh RLĐM và có thể làm thuyên tắc động mạch TC trước khi phẫu thuật (PT). Trong những trường hợp sảy ra tại các bệnh viện tuyến thấp cần phải xem xét chuyển BN đang chảy máu đến một trung tâm chuyên khoa có khả năng tắc mạch. Cần lưu ý 2 điều rất quan trọng, một là không được chuyển một BN đang bị sốc, vì tình trạng sẽ xấu đi trong quá trình vận chuyển và chờ đợi các thủ tục. Hai là khi BN bị sốc và RLĐM không thể làm tắc mạch. Thực tế thời gian trung bình để thực hiện kỷ thuật tắc mạch là 1 giờ chưa kể thời gian chuyển bệnh và chuẩn bị BN do đó nên nhớ cần phải có đủ dịch truyền và thuốc cầm máu trong lúc chuyển bệnh và chuẩn bị BN. Tình huống 2: BHSS sau sanh giúp Khi có chảy máu sau sanh giác hút, cần phân biệt được chảy máu là do rách ÂĐ hay đó là do sự kết hợp của 2 yếu tố đờ TC và rách ÂĐ. Nếu do đờ TC, máu sẽ chảy ra từ cổ TC. Điều trị mất máu do đờ TC đã được giới thiệu ở tình huống 1. Phác đồ 2 SANH DỤNG CỤ VÀ BĂNG HUYẾT SAU SANH Sanh kềm và BHSS Nếu không kiểm soát được chảy máu, BN có thể bị RLĐM, vì 2 tình huống chấn thương và đờ TC có thể đi cùng lúc Điều chỉnh và duy trì huyết động bằng cách khâu cầm máu càng sớm càng tốt đưới vô cảm tốt. Nếu cần thiết có thể sử dụng túi chèn ÂĐ. Nếu chảy máu lượng nhiều nên ép ĐM chủ bụng đến khi cầm máu được CT bụng chậu +/- tắc mạch Nếu không sẵn phương tiện CT – tắc mạch hay tình trạng bệnh nhân không cải thiện sớm -> tiến hành PT mở bụng trong khi điều chỉnh rối loạn đông máu đi kèm cùng lúc Sanh giác hút và BHSS Tổn thương đường sinh dục dưới có thể rách tầng sinh môn độ 3-4 Là nguyên nhân của rách hình tròn Khâu phục hồi sớm TSM dưới vô cảm tốt Nếu cần thiết có thể sử dụng túi chèn ÂĐ và điều chỉnh RLĐM và theo dõi ở đơn vị chăm sóc tích cực. Vết rách trong sanh giác hút thường là hình tròn do cấu tạo của nắp hút. Trong quá trình sanh giúp, ống giác hút trượt lên mô ÂĐ gây nên những vết rách. Khác với những vết rách do chấn thương thông thường tạo ra những đường rách thẳng, trong trường hợp này các vết rách có thể làm tróc cả mảng mô ÂĐ. Bởi bản chất dễ trầy xước của vách ÂĐ nên việc 4THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 76, Số 1, Tháng 6 – 2014 chèn gạc cầm máu thường sử dụng những tampon dài được tẩm dung dịch sát khuẩn đặt trong ÂĐ và được rút ra nhẹ nhàng sau 24 giờ. Gần đây việc đặt bóng chèn cũng được sử dụng rất thành công trong những trường hợp chảy máu sau sanh giác hút, cả 2 phương pháp đều tạo được hiệu quả cầm máu nhất định. Tình huống 2A: BHSS sau sanh giác hút Trong sanh giúp, tổn thương trực tràng và bàng quang rất hiếm nhưng vẫn có thể xảy ra (hình 2). Do đó sau sanh giúp bằng giác hút, cần kiểm tra kỹ để xác định không có tổn thương nào lên trực tràng và bàng quang. Việc này rất quan trọng, vì nếu không phát hiện ra vết rách bàng quang hay trực tràng sẽ dẫn đến việc dò bàng quang, rò trực tràng và kéo theo nhiều yếu tố nguy cơ khác. May phục hồi vết rách trực tràng hay bàng quang có thể cần thực hiện dưới gây mê. Truyền máu được thực hiện phụ thuộc vào mức độ mất máu và mức độ suy giảm các chức năng quan trọng của người bệnh. Hình 2. Đặt nắp hút trên chỏm sau sai vị trí gây rách tầng sinh môn độ 4 và dò trực tràng âm đạo. Hình 3. Sơ đồ vị trí chảy máu phần trên lỗ trong S1 và phần dưới S2, S1 cung cấp máu 90% từ nhánh lên động mạch TC và 10% từ động mạch buồng trứng. S2 cung cấp máu từ nhánh xuống động mạch TC và động mạch âm đạo.6 Hình 4. Chèn bóng trong động mạch chậu chung. Tình huống 2B: BHSS sau sanh kềm Chảy máu sau khi sanh ngả ÂĐ bằng kềm có thể xảy ra rất phức tạp bởi các yếu tố không thuận lợi trước khi sanh. Nếu cuộc chuyển dạ kéo dài hoặc có giai đoạn sổ thai kéo dài thì khả năng có nhiều nguyên nhân cùng một lúc gây nên BHSS. Ví dụ như sản phụ có thể sẽ vừa bị mất nước, vừa bị đờ TC và chấn thương đường sinh dục, chính vì vậy nếu chẩn đoán và xử trí thiếu chính xác có thể dẫn đến chảy máu kéo dài và không hiệu quả trong kiểm soát mất máu. Chảy máu do đờ TC được mô tả là đoạn chảy máu S1 (hình 3), trên thực tế, chảy máu sẽ xuất phát ở đoạn eo TC, nơi được nuôi chủ yếu bởi các nhánh đi lên của động mạch TC (90%) và động mạch buồng trứng (10%). Cùng một lúc máu sẽ chảy từ vết rách cổ TC hoặc các vết rách ở vách ÂĐ được biểu thị là đoạn chảy máu S2 trên hình. Chảy máu như vậy chủ yếu xuất phát từ 2 điểm: thứ nhất là do các nhánh đi xuống của động mạch TC,thứ hai là do động mạch ÂĐ được tách ra từ nhánh sau của động mạch chậu trong. Trong những trường hợp nếu BN cần được làm thuyên tắc mạch, các bác sĩ X-quang cần phân biệt được động mạch ÂĐ không phải được tách ra từ nhánh trước của động mạch chậu trong và catheter phải đi vào nhánh sau của động mạch chậu trong. Nếu làm tắc hết các phân nhánh sau của động mạch chậu trong để kiểm soát việc chảy máu ÂĐ thì BN có nguy cơ bị tắc các mạch hông dưới, là nguồn nuôi dưỡng các dây thần kinh hông. Để tránh vấn đề này,việc chèn bóng vào 5TỔNG QUAN Y VĂN động mạch chậu gốc trong vòng 90 phút (theo Jose Palacios Jaraquemada) là phương án tối ưu cho các nhà PT kiểm soát vùng chảy máu hoặc sẽ phải can thiệp tắc mạch lần thứ 2 (hình 4). Vết rách ÂĐ có thể là một vết rách đơn giản hoặc cũng có thể là một vết rách rộng, sâu và phức tạp cần được quan sát rõ ràng. Nếu không được cấp cứu và xử trí kip thời những nguyên nhân gây băng huyết thì nguy cơ BN rơi vào tình trạng RLĐM là rất cao. Tùy thuộc vào mức độ mất máu của bệnh nhân, việc chèn ép động mạch chủ có thể được áp dụng trong lúc BN đang được đánh giá về mức độ chảy máu cũng như các biện pháp hồi sức khác đang được tích cực thực hiện như truyền máu, ngừa hạ thân nhiệt và chống nhiễm toan phải được thực hiện cùng một lúc trong khi các biện pháp hồi sức khác đang được thực hiện. Ngoài ra cần phải ghi nhớ rằng việc tiếp tục chảy máu sau các biện pháp cầm máu là dấu hiệu của RLĐM. BN cũng cần được bù máu và fibrinogen. Cắt hoàn toàn TC là giải pháp cuối cùng để giải quyết việc BHSS, nhưng có một vấn đề đặt ra là việc cắt TC chỉ giải quyết được nguyên nhân chảy máu từ đoạn eo TC (đoạn S1) nhưng sẽ không hiệu quả trong việc cầm máu ở đoạn kênh/cổ TC và vùng cùng đồ ÂĐ vì nguyên nhân chảy máu là khác nhau. Trên thực tế, việc cắt TC trong những trường hợp như vậy có thể làm tình trạng bệnh trầm trọng hơn. Hơn nữa việc cắt bỏ TC sẽ làm mất đi ít nhất 1,5 lít máu của người bệnh. Tình huống 3: BHSS tại phòng hồi sức sau mổ lấy thai (MLT) Phác đồ 3 Mổ lấy thai chủ động Thăm khám tại giường. Mạch, huyết áp, nhịp thở, tình trạng TC cungmềm nhão Thuốc co hồi TC Lấy mô nhau – màng nhau Nếu TC mềm nhão, ép TC bằng 2 tay và lấy máu cục, đảm bảo BN được vô cảm tốt và bắt đầu truyền thuốc co hồi TC nếu chưa có hay lập lại lần 2 nếu đã cho Thử CTM tại giường giúp ích cho việc quyết định truyền máu và các chế phẩm của máu. Nếu có sẵn phương tiện, siêu âm tại giường giúp đánh giá buồng TC BHSS Theo dõi tích cực, thường xuyên đánh giá co hồi TC và chảy máu âm đạo Nếu không cầm máu được khi ép TC, khám dưới gây mê sẽ giúp soát lòng TC và lấy được nhiều máu cục hơn. Sử dụng prostaglandins, tranexamic acid và điều chỉnh RLĐM Thực hiện test ép TC với BN ở tư thế treo 2 chân, và theo dõi máu chảy liên tục hay chảy máu cơn. - Nếu chảy máu cơn, sử dụng bóng chèn TC trước khi quyết định PT. - Nếu máu chảy liên tục, cần thiết PT mở bụng, kiểm tra góc TC. Nếu máu chảy từ đáy TC, khâu ép TC. Vài trường hợp sử dụng “kỹ thuật sandwich”, khâu ép TC và đặt bóng chèn. Và chỉ hiệu quả khi RLĐM được điều chỉnh tốt. Nếu máu vẫn tiếp tục chảy, cát TC toàn phần hay sử dụng túi chèn TC. Nên bảo đảm RLĐM được điều chỉnh Theo dõi BN ở đơn vị chăm sóc tích cực. Nếu còn chảy máu sử dụng túi chèn vùng chậu và đóng bụng, điều chỉnh RLĐM, truyền máu và theo dõi ở đơn vị chăm sóc tích cực. Khi tình trạng BN ổn định lấy túi chèn vùng chậu. 6THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 76, Số 1, Tháng 6 – 2014 MLT luôn luôn là PT lớn. Do đó, có thể gây r ... iểm đến tính mạng sản phụ. Sau khi chuyển rạch da đường dọc và trước khi rạch cơ TC cần gọi trợ giúp bác sĩ sản khoa và gây mê hồi sức có kinh nghiệm nhất. Thêm vào đó cần xin máu khẩn cấp và gửi mẫu máu để thử nhóm máu và phản ứng chéo. Mổ bắt em bé an toàn qua đáy TC (hình 7) vì tránh bất kỳ biến chứng chảy máu liên quan đến nhau bám bất thường có thể xâm lấn bàng quang. Sau khi bắt con có thể khâu cơ TC như đã mô tả trong tình huống 6. Không nên cố gắng bóc nhau bằng tay. Cũng như bàng quang và các mô lân cận bị nhau xâm lấn cũng không can thiệp, vì vấn đề có thể được thực hiện sau đó bởi ekip PT kinh nghiệm và chuẩn bị đầy đủ hơn. Không cần thiết PT cắt TC cấp cứu trong tình trạng thiếu thốn nhân lực và phương tiện. Không cần thiết sử dụng methotrexate để hủy bánh nhau, vì bánh nhau có hoạt động phân bào thấp (dưới 1%), tuy nhiên quan niệm này chưa được đồng thuận rộng rãi. Sau PT, BN ổn định, vẫn cần theo dõi sát BN ở đơn vị chăm sóc tích cực. Tại các trung tâm lớn, có 3 hướng xử trí tiếp theo: (1) chừa bánh nhau đến khi tự sổ hay hấp thu hoàn toàn; (2) cắt TC với nguồn lực đầy đủ xử trí các biến chứng được mô tả trong tình huống 6 và (3) thực hiện PT phục hồi TC. Tình huống 8. BHSS từng đợt tiến triển Dạng BHSS này gặp sau sanh thường hay sanh có can thiêp (sanh hút, sanh kềm, MLT), có thể bắt đầu sau sanh vài giờ hay vài tuần. Trong trường hợp khác những đợt chảy máu có thể khởi đầu muộn (có thể vài ngày đến 1 tuần) nhưng diễn tiến giống nhau. Vì hình thức chảy máu hậu sản này tăng dần và từng đợt nên theo dõi và điều trị có thể ít tích cực hơn trường hợp thông thường do: (1) không đánh giá được tổng máu mất theo thời gian của mỗi cơn BHSS từ lúc sanh hay đánh giá sai lượng máu mất khi BHSS; (2) không phát hiện sót màng nhau và/hoặc múi nhau; (3) không theo dõi sát. Mức độ nặng tiềm tàng của tình huống này sẽ tăng nếu không lưu ý các triệu chứng lâm sàng như chóng mặt, cảm giác lạnh hay yếu/ mệt mỏi và không theo dõi lương dịch vào và ra của BN. Khả năng thứ hai sẽ quan trọng hơn nếu BN được truyền dịch lượng nhiều pha sẵn thuốc co hồi TC, và nhân viên y tế chủ quan cho rằng tình hình sẽ ổn. Những yếu tố khác góp phần gây ra BHSS muộn mà đơn giản có thể tránh được bằng khám qua ÂĐ và/hoặc siêu âm ngả bụng hay ngả ÂĐ đặc biệt 24 giờ sau sanh. Trong tình huống muộn khó phân biệt rõ ràng giữa máu cục và mảnh mô nhau vụn còn sót ngay sau sanh vì TC co hồi không tốt. Hơn nữa nhân viên y tế còn có thể đánh giá máu mất thấp hơn thực tế vì tình trạng huyết động và tổng trạng BN được duy trì tốt. Cuối cùng nếu BN được xuất viện, BN và gia đình cũng như nhân viên sức khỏe cộng đồng hay BS gia đình phải được cung cấp thông tin về tình trạng máu mất lượng 11 TỔNG QUAN Y VĂN ít tự nhiên và liên tục. Bất cứ BN nào xuất viện phải nhận được giấy thông tin rõ ràng về những triệu chứng bất thường cần phải quay lại tái khám tại BV. Nếu nhà xa, BN nên được nhận bản xuất viện tóm tắt hay vài ghi chú những vấn đề bất thường cũng như số điện thoại hay email của nhân viên y tế để liên lạc khi triệu chứng tăng nặng. Lưu ý những điểm sau để tối ưu hóa việc theo dõi BN có chảy máu từng đợt. BHSS từng đợt hay tái phát qua ngả ÂĐ sau sanh trong 42 ngày đầu tiên nên được xử trí như BHSS sớm. Thậm chí nếu tổng trạng BN ổn định, cần thiết cho siêu âm ở những trung tâm đủ nhân lực và trang thiết bị. Khi siêu âm điểm quan trọng cần quan sát bụng và ÂĐ để có thể khảo sát chính xác đáy và đoạn dưới TC. Nếu siêu âm phát hiện nhau bám vết MLT lần trước, không nên can thiệp bất cứ gì như bóc nhau hay nong nạo, vì nguy cơ nứt vết mổ, tổn thương bàng quang hay xuất huyết nội. Nếu có thể nên tính tổng lượng máu mất từ lúc sanh đến thời điểm thăm khám BN, nên thử huyết đồ nếu cần thiết, đặc biệt trong trường hợp BN than phiền yếu hay mệt. Lượng máu mất không ghi nhận cần được đặc biệt lưu ý, vì có thể mất máu ở bô, ra giường, quần áo hay máu cục trong toilet. Nếu vẫn còn bánh nhau, nên kiểm tra và đếm lại lại từng múi nhau. Nếu cơ sở không có sẵn siêu âm, khi đó nên soát buồng TC có giảm đau để đánh giá lại buồng TC và lấy hết màng nhau mô nhau nếu có. May lại cổ TC rách bị bỏ sót. Nếu có chỉ định nạo buồng TC, phải cẩn thận để tránh thủng vì cơ TC còn rất mềm nên có khi gây thủng mà không nhận biết. Nếu chảy máu nặng và liên tục sau vài tuần hay 1 tháng, hầu hết chẩn đoán không phải sót nhau mà là giả phình của động mạch TC (hình 9). Nên lưu ý bệnh cảnh này khi BN đã từng sanh dụng cụ, nạo sót thai, bắt con khó trong MLT. Nghi ngờ chẩn đoán nếu có 1,2 hay nhiều hơn siêu âm trắng đen. Xác định lại chẩn đoán bằng siêu âm màu hay chụp mạch máu vùng chậu và có thể làm tắc mạch cùng lúc. Không nên nong nạo hay cắt TC vì mô rất bở và có nguy cơ chảy máu nhiều. Hình 9. Giả phình ĐMTC. Tình huống 9. BHSS tiềm ẩn BHSS ẩn là nguyên nhân quan trọng của tử vong mẹ bởi khi trên lâm sàng không nhận ra cho đến khi quá muộn hoặc không kiểm soát chảy máu. Phần này sẽ nêu ra những tài liệu liên quan hơn là trong cách xử trí truyền thống bởi không có 1 lưu đồ cố định. 12 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 76, Số 1, Tháng 6 – 2014 Hình 10. Khối máu tụ sau phúc mạc. Hình 11. May lại bó trong cơ nâng hậu môn. Các tình huống có thể dẫn đến BHSS ẩn: - Sanh giúp thành công nhưng khó khăn gây ra tụ máu khoang Retzius bao gồm dưới phúc mạc/sau phúc mạc/trước phúc mạc (hình 10), làm tổn thương bó cơ mu-trực tràng hoặc cơ ÂĐ ngoài (hình 11). - Sanh giúp thất bại dẫn đến MLT cấp cứu có/không kèm bắt thai khó có thể bị máu tụ trong dây chằng rộng, những chỗ rách sâu ở góc TC làm không thấy được tổn thương vách sau TC khiến PT viên ngần ngại khi khâu góc TC vì sợ cột nhầm niệu quản. - Nếu MLT chủ động trên những sản phụ có cổ TC không mở, các sản phụ này có nguy cơ đờ TC với sự tích tụ lượng lớn huyết cục trong lòng TC trước khi có dấu hiệu xấu trên lâm sàng. Khi có dấu hiệu xấu trên lâm sàng có thể đã quá trễ và BN nguy cơ tử vong. - Một yếu tố góp phần khác dẫn tới đờ TC sau MLT chủ động là thiếu đáp ứng với oxytocin, mặc dù không phổ biến nhưng phải nghĩ tới. Điều trị bao gồm khôi phục trương lực cơ TC và chèn ép chỗ chảy máu. - Vỡ TC là nguyên nhân dễ bỏ sót. Trường hợp điển hình là BN đa sản và khởi phát chuyển dạ với thuốc co TC tự nhiên hay tổng hợp hoặc sau sanh kềm trung bình. Đa số BN ổn trong 1 vài phút sau sanh nhưng chảy máu trong ổ bụng vẫn tiếp tục. Đến khi nhận ra, lâm sàng có thể nghiêm trọng và các biện pháp hồi sức có thể là vô ích. - Tụ máu bao cơ thẳng bụng, máu tích tụ trên khoang bụng mà không chảy máu ra bên ngoài, cũng có thể gây ra diễn biến xấu tương tự. Các yếu tố khác góp phần gây BHSS ẩn: - PT viên thiếu kinh nghiệm. - Sanh ban ngày dễ bị bỏ sót hơn vào ban đêm. - Người phụ kém hay không có kinh nghiệm. - Không đưa TC ra ngoài để kiểm tra vách sau, nhất là sau lấy đầu khó khăn. - PT viên hy vọng lượng chảy máy ít và giảm dần. - Phải PT nhanh, bị sức ép về thời gian, quá nhiều việc phải làm. - Bỏ sót các dấu hiệu xấu trên lâm sàng của BHSS ẩn như nhịp tim càng nhanh thêm, tụt huyết áp, thở nhanh, bụng phình to, lượng nước tiểu ít và BN đau bụng hơn đòi sử dụng thuốc giảm đau. Cách xử trí: - Nếu nghi ngờ vỡ TC, cần tổ chức một đội ngũ ứng phó nhanh chóng và hiệu quả. Bao gồm bác sĩ sản khoa, nữ hộ sinh và gây mê và mọi người phụ trách ngân hàng máu, liên lạc, vận chuyển đều giữ vai trò then chốt. - Theo dõi sát những BN đã có chỉ định PT. - Các phương tiện tại giường như đo hemoglobin bằng dụng cụ Hemacue giúp phát hiện nhanh dấu hiệu suy sụp BN. - Theo dõi sát mạch, huyết áp, lượng máu mất, tri giác các BN có nguy cơ. - Đào tạo và huấn luyện đội ngũ can thiệp tức thời. 13 TỔNG QUAN Y VĂN - Giải thích cho BN hiểu MLT cũng có tai biến dù MLT cấp cứu hay chủ động. - Các bác sĩ cần tìm các nguyên nhân gây ra suy sụp thể lực của BN. - Nếu nghi vỡ TC và tình trạng BN cho phép có thể siêu âm tại giường giúp xác định xuất huyết nội. Tuy nhiên không nên phí thời gian tìm nguyên nhân mà cần xử trí nhanh chóng. - Nếu nghi có khối máu tụ lan rộng trong dây chằng rộng, có thể tiến hành chụp CT hay thực hiện tắc mạch. Nếu cần phải mở bụng để cầm máu, có thể khó khăn vì các mô bở. Nếu BN phải mổ lại, các bước cần thiết phải làm: - Hồi sức, xác định lượng máu mất. - Nếu thiếu các yếu tố đông máu cần truyền các yếu tố đông máu. - Cần có 1 đội gồm các bác sĩ, chuyên gia có kinh nghiệm từ sản khoa, gây mê, huyết học, chăm sóc tích cực, chuyên gia hình ảnh can thiệp. - Khi mở bụng lại, cần quan sát kỹ mỗi lớp thành bụng, nên đưa TC ra ngoài và kiểm tra lòng TC. Nếu đờ TC là nguyên nhân dẫn đến tình trạng xấu đi của BN, có thể khâu ép hay đặt bóng chèn. - Nếu chảy máu trong dây chằng rộng và có tổn thương niệu quản trong khi cầm máu nên mời các bác sĩ niệu khoa giúp đỡ. - Nếu thời gian và điều kiện BN cho phép, nên tư vấn BN biết nguy cơ cắt TC. BN cũng nên được biết có 1 số trường hợp không xác định được nơi chảy máu và dù đã cắt TC vẫn còn chảy máu. Trong tình huống đó có thể phải đặt túi gạc trong bụng để chèn cầm máu và BN được theo dõi sát trong đơn vị chăm sóc đặc biệt. Khi tình trạng lâm sàng của BN cải thiện, sẽ mổ lấy túi sau 24 giờ. Một số trường hợp cần thực hiện tắc mạch chậu. Tình huống 10. Lộn TC và BHSS Lộn TC hầu như xảy ra do kéo dây rốn quá mạnh khi nhau còn bám ở đáy TC. Vấn đề không phải nhau bám bất thường mà do kéo dây rốn quá mạnh và quá sớm (trước khi nhau bong). Lộn TC có thể tránh bằng cách đơn giản: kéo dây rốn khi có dấu hiệu nhau bong (dây rốn dài ra, máu vọt ra, sản phụ muốn rặn). Một tay đặt ở đáy TC, 1 tay kéo dây rốn có kiểm soát. Trong trường hợp lộn TC, tỉ lệ tử vong là 1/6 nếu không điều trị kịp thời. Phải nghĩ tới lộn TC khi BN đột ngột sốc ngay sau sinh mà không tìm thấy nguồn chảy máu. Lộn TC có thể 1 phần hay hoàn toàn. Hình dưới minh họa trường hợp lộn TC độ 3 không hoàn toàn trong đó dấu hiệu lâm sàng quan trọng nhất là TC gợn sóng. Lộn TC chia làm 4 độ, trong độ 3, 4, đáy TC nằm ngoài ÂĐ, độ 1, 2 nguy hiểm hơn bởi bất kỳ chậm trễ nhận ra tình trạng lộn TC và xử trí không đúng dẫn đến tử vong cho BN. Triệu chứng: Triệu chứng ban đầu tùy thuộc vào mức độ nặng của lộn TC. Nếu lộn TC chỉ 1 phần, BN thấy đau dữ dội bụng dưới và dấu hiệu sốc nhẹ, mạch nhanh và tụt huyết áp, có thể là dấu hiệu ban đầu, không chảy máu nhiều. Ngược lại lộn TC hoàn toàn đi kèm triệu chứng sốc thần kinh và BHSS. Sốc chủ yếu là do kích thích thần kinh đối giao cảm vì lực kéo trên phúc mạc gây kích thích thần kinh trong các dây chằng treo TC. Xử trí: Cần phải nhận ra ngay tình trạng lộn TC và xử trí kịp thời. Khi thấy TC là một khối thịt màu hồng/tím đậm) nằm ngoài âm hộ ngay sau khi sinh. Nếu nhau vẫn chưa bong, cố gắng lộn lại TC bằng tay mà không lấy nhau. Nếu nhau không bong và nếu tình trạng này bị bỏ sót, BN sẽ chảy máu ồ ạt và dẫn đến sốc nặng. Lập tức gọi người giúp đỡ và đẩy TC vào trở lại ngay. Nếu như không thể lộn lại đáy TC và sốc vẫn còn, một liều duy nhất atropine 14 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 76, Số 1, Tháng 6 – 2014 nên được tiêm tĩnh mạch để chống sốc đối giao cảm. Các nỗ lực ban đầu để lộn lại đáy TC đòi hỏi phải đẩy qua ÂĐ qua cổ TC. Nếu BN đang truyền hoặc sắp dùng thuốc co hồi TC (oxytocin) trong xử trí tích cực giai đoạn 3 chuyển dạ, phải được dừng lại ngay. Một kỹ thuật điển hình trong lộn lại đáy TC là tay của người đỡ sanh được đặt bên trong ÂĐ (đối với giai đoạn 3) hoặc trên đáy TC cho giai đoạn 4, với đáy của lòng TC bị lộn ngược trong lòng bàn tay của người đỡ và các ngón tay hướng hướng về các dây chằng TC cùng. Đẩy mạnh đáy TC vào bên trong khoang bụng trên mức rốn và giữ ở vị trí đó trong 3-5 phút cho đến khi các dây chằng TC hoàn toàn phục hồi vị trí bình thường. Không dùng sức trên các ngón tay vì gây thủng TC. Hình 12. Dùng lực thủy tĩnh bơm qua nắp giác hút đẩy đáy TC về vị trí bình thường. Nếu tái định vị không thành công, dùng áp lực thủy tĩnh10 là lựa chọn tiếp theo. Thực hiện bằng cách dùng nắp giác hút nhựa đường kính 6 cm, đẩy nắp giác hút vào giữa ÂĐ và sau đó đẩy cho đến khi nắp được đặt vừa khít với phần dưới ÂĐ. Bơm nước muối tăng dần sẽ gây áp lực ép trên nắp hút bám khít với âm đạo. Có thể dùng thuốc giảm co để làm giãn cổ TC, cần lưu ý tránh đẩy nắp giác hút sâu bên trong ÂĐ (hình 12) . Đôi khi cố gắng đẩy đáy TC bằng tay hoặc bằng áp lực thủy tĩnh thất bại và BN cần được mở bụng phục hồi tư thế TC bình thường. Ngay sau khi TC được phục hồi lại vị trí và hình dáng bình thường, TC có thể tiếp tục đờ và gây BHSS. Cần truyền thuốc co hồi TC, thuốc bắt đầu dùng khi người đỡ sanh duy trì đáy TC ở vị trí giải phẫu bình thường. Khi đáy TC trở về đúng vị trí giải phẫu, người đỡ sẽ ép TC bằng 2 tay để giúp TC co hồi cho đến khi TC gò tốt. Trong một số trường hợp cần dùng bóng chèn. BN được tiếp tục theo dõi sát để tránh lộn TC trở lại sau đó ■ Tham khảo 1. Confidential Enquires into Maternal Deaths. Saing Mothers Lives (2006–2008). BJOG 2011;118:1– 203 2. Sullivan EA, King JF, eds. Maternal Deaths in Austrailia 2000–2002. Sydney, Australia: Australian Institute of Health and Welfare, National Perinatal Statistics Unit, 2006 3. Special Report on Maternal Mortality and Severe Morbidity in Canada: Canadian Perinatal Surveilance System. Canada: Minister of Health, Minister of Public and Government Services, 2004 4. Minister of Health, Minister of Public and Government Services, 2004 Amnesty International. Deadly Delivery: The Maternal Health Care Crisis in the USA. New York: Amnesty Inter- national USA, 2010; pdf/Deadly Delivery.pdf 5. Karoshi M., Palacios-Jaraquemada J.M., Keith L.G., Managing the Ten Most Common Life- Threatening Scenarios Associated with Postpartum Hemorrhage in A comprehensive textbook of Postpartum hemorrhage An essential clinical reference for effective management 2nd edit. 2012, Ch.1. 6. Palacios Jaraquemada JM, Mónaco RG, Barbosa NE, et al. Lower uterine blood supply: extrauterine anastomotic system and its application in surgical devascularization techniques. Acta Obstet Gynecol Scand 2007;86:228–34 7. Palacios-Jaraquemada JM. Placental Adhesive Disorders, 1st edn. Berlin, Germany: De Gruyter, 2012;1 8. Palacios-Jaraquemada J, Fiorillo A. Conservative approach in heavy postpartum hemorrhage associated with coagulopathy. Acta Obstet Gynecol Scand 2010;89:1222–5 9. Palacios-Jaraquemada JM. Diagnosis and management of placenta accreta. Best Pract Res Clin Obstet Gynaecol 2008;22:1133–48 10. Tan KH, Luddin NS. Hydrostatic reduction of acute uterine inversion. Int J Gynaecol Obstet 2005;91:63–4
File đính kèm:
xu_tri_10_tinh_huong_bang_huyet_sau_sanh_nang_thuong_gap.pdf