Xu hướng kiểm toán và dịch vụ đảm bảo đối với lưu trữ dữ liệu trên đám mây và kinh nghiệm cho Việt Nam

Lưu trữ dữ liệu trên đám mây bao gồm việc sử dụng các trung tâm dữ liệu từ xa để lưu trữ dữ liệu người dùng mà người dùng thực sự không có quyền kiểm soát. Điều này đã đưa ra yêu cầu tạo điều kiện cho kiểm toán dịch vụ đối với lưu trữ đám mây ra đời, để người dùng có thể dựa vào Kiểm toán viên (KTV) để kiểm tra tính toàn vẹn của dữ liệu được lưu trữ trong đám

mây. Tuy nhiên, KTV không nên đưa ra các mối đe dọa mới đối với sự riêng tư của dữ liệu người dùng và

không nên tăng gánh nặng trực tuyến lên người dùng điện toán đám mây. Bài báo này tổng hợp các đề

xuất từ các nghiên cứu về kế hoạch lưu trữ đám mây an toàn hỗ trợ bảo vệ sự riêng tư của loại hình kiểm

toán dịch vụ này.

pdf 8 trang phuongnguyen 4720
Bạn đang xem tài liệu "Xu hướng kiểm toán và dịch vụ đảm bảo đối với lưu trữ dữ liệu trên đám mây và kinh nghiệm cho Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Xu hướng kiểm toán và dịch vụ đảm bảo đối với lưu trữ dữ liệu trên đám mây và kinh nghiệm cho Việt Nam

Xu hướng kiểm toán và dịch vụ đảm bảo đối với lưu trữ dữ liệu trên đám mây và kinh nghiệm cho Việt Nam
19NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 121 - tháng 11/2017
XU HÖÔÙNG KIEÅM TOAÙN VAØ DÒCH VUÏ
ÑAÛM BAÛO ÑOÁI VÔÙI LÖU TRÖÕ DÖÕ LIEäU TREÂN 
ÑAÙM MAÂY VAØ KINH NGHIEäM CHO VIEäT NAM
ThS. PHùNG ANH THƯ*
*Trường Đại học Nguyễn Tất Thành
Lưu trữ dữ liệu trên đám mây bao gồm việc sử dụng các trung tâm dữ liệu từ xa để lưu trữ dữ liệu người dùng mà người dùng thực sự không có quyền kiểm soát. Điều này đã đưa ra yêu cầu tạo điều kiện cho kiểm toán dịch vụ đối với lưu trữ đám mây ra đời, để người dùng có thể dựa vào Kiểm toán viên (KTV) để kiểm tra tính toàn vẹn của dữ liệu được lưu trữ trong đám 
mây. Tuy nhiên, KTV không nên đưa ra các mối đe dọa mới đối với sự riêng tư của dữ liệu người dùng và 
không nên tăng gánh nặng trực tuyến lên người dùng điện toán đám mây. Bài báo này tổng hợp các đề 
xuất từ các nghiên cứu về kế hoạch lưu trữ đám mây an toàn hỗ trợ bảo vệ sự riêng tư của loại hình kiểm 
toán dịch vụ này. 
Từ khóa: kiểm toán, lưu trữ đám mây.
Auditing trends and assurance for cloud datastore and experience for Vietnam
Cloud datastore includes the use of remote data centres to store user data that the user does not actually 
have control over. This has provided a requirement for service auditing upon cloudstore to be made, so 
that users can rely on the Auditor to verify the integrity of the data stored in the cloud. However, Auditor 
should not present new threats to the privacy of user data and should not expand the burden online on cloud 
computing users. This paper synthesizes recommendations from research into secure cloud hosting plans 
that support the protection of the privacy of this type of service audit. 
keywords: Audit cloudstore.
1.Giới thiệu
Điện toán đám mây (ĐTĐM) đã phát triển như 
là điều tốt nhất tiếp theo trong thế giới Internet, có 
thể cung cấp tất cả mọi thứ, từ khả năng tính toán 
không giới hạn đến không gian sẵn có của cơ sở 
hạ tầng máy tính, các ứng dụng, không gian lưu 
trữ, quy trình kinh doanh để hợp tác cá nhân như 
một dịch vụ cho người dùng bất cứ khi nào và bất 
cứ nơi nào người sử dụng muốn. ‘‘Cloud’’ ở đây có 
nghĩa là mạng máy tính, CPU, thiết bị lưu trữ, phần 
cứng, dịch vụ cộng tác để cung cấp toàn bộ gói tính 
toán như một dịch vụ. Cloud có thể mở rộng, nghĩa 
là nó có khả năng mở rộng và thu nhỏ để phù hợp 
với nhu cầu của các nguồn lực. Nó tạo điều kiện 
cho các giao diện lập trình ứng dụng (API) có sẵn 
được lập hóa đơn theo cách sử dụng (mô hình trả 
tiền khi bạn đi).
Điều mới mẻ mang tính đột phá của ĐTĐM 
không nằm ở bản chất công nghệ, mà là mô hình 
hướng dịch vụ, và mang lại sự thay đổi trong nhận 
thức về cách cung cấp dịch vụ (cho nhà cung cấp) 
và cách thuê bao sử dụng dịch vụ (cho người sử 
20
CAÙCH MAÏNG COÂNG NGHIEÄP 4.0 VAØ NHÖÕNG TAÙC ÑOÄNG TÔÙI NGAØNH NGHEÀ KEÁ TOAÙN - KIEÅM TOAÙN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 121 - tháng 11/2017
dụng). Tất cả được đưa đến người sử dụng (NSD) 
dưới hình thức dịch vụ, từ nguồn cung ứng điện 
toán hàng ngày, đơn giản giống như những nguồn 
cung ứng điện, nước.
Trong mô hình cung cầu các dịch vụ ĐTĐM, 
vai trò tham gia của các bên bao gồm NSD, Nhà 
cung ứng dịch vụ, Nhà hỗ trợ triển khai dịch vụ và 
Nhà quy hoạch chính sách.
NSD là các đối tượng trả tiền thuê bao để sử 
dụng dịch vụ ĐTĐM, phương thức trả tiền theo 
cách dùng bao nhiêu, trả bấy nhiêu (pay-per-use). 
NSD có thể là một cá nhân (ví dụ một NSD dịch 
vụ hòm thư điện tử của Google, hiện tại dịch vụ 
này đang được cung cấp miễn phí). NSD cũng có 
thể là một tổ chức, hoặc một doanh nghiệp (ví dụ 
một doanh nghiệp muốn sử dụng dịch vụ hệ thống 
thư điện tử của Microsoft, trong trường hợp này 
phí thuê bao tính theo đơn vị số hộp thư và theo 
từng tháng) muốn tận dụng dịch vụ được cung cấp 
sẵn bởi các nhà cung cấp dịch vụ ĐTĐM, thay vì 
họ phải tự đầu tư và vận hành những hệ thống IT 
trong nội bộ để có được những dịch vụ đó. 
Nhà cung ứng dịch vụ là các doanh nghiệp, 
hãng tin học sở hữu và vận hành hệ thống hạ tầng 
cho ĐTĐM để cung cấp các dịch vụ khác nhau trên 
hạ tầng đó đến NSD. Microsoft, IBM, Google... là 
những ví dụ cho vai trò của nhà cung cấp dịch vụ 
ĐTĐM. 
Nhà hỗ trợ triển khai dịch vụ là các công ty tin 
học cung cấp các giải pháp, các sản phẩm và/hoặc 
dịch vụ để thiết lập và hỗ trợ sự cung cấp các dịch 
vụ ĐTĐM. Cisco, Symantec, TrenMicro McAfee...
là những ví dụ cho vai trò hỗ trợ triển khai dịch vụ 
ĐTĐM, khi họ cung cấp các giải pháp cho lộ trình 
hợp nhất và ảo hóa các trung tâm dữ liệu, các kiến 
trúc hạ tầng liên quan (Cisco), hay các giải pháp 
bảo mật thông tin cho những dịch vụ cung cấp qua 
Internet (Cisco, Symantec, Trendmicro). Nhà hỗ 
trợ triển khai dịch vụ ĐTĐM có thể là các công ty 
tin học cung cấp các sản phẩm phần mềm sẵn có để 
Nhà cung ứng dịch vụ đóng gói thành dịch vụ đưa 
đến NSD. Nhà hỗ trợ triển khai dịch vụ cũng có thể 
là các công ty cung cấp dịch vụ chuyển đổi cho một 
tổ chức doanh nghiệp muốn chuyển đổi hệ thống 
đang được chính họ vận hành sang nền tảng đám 
mây của các Nhà cung ứng dịch vụ.
Nhà quy hoạch chính sách là các cơ quan quản 
lý Chính phủ, hoặc các tổ chức chuyên ngành quốc 
tế. Với các điều luật nhất định, những cơ quan, tổ 
chức này sẽ cho phép hoặc không cho phép việc sử 
dụng các dịch vụ ĐTĐM. Ví dụ, khi một tổ chức 
21NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 121 - tháng 11/2017
thuê bao dịch vụ ĐTĐM của nhà cung cấp dịch vụ, 
dữ liệu của họ sẽ được quản lý bởi nhà cung cấp 
dịch vụ. Nếu điều này không được chấp thuận bởi 
cơ quan quản lý chính sách thì tổ chức sẽ không 
được phép thuê bao dịch vụ ĐTĐM. 
Xét trên yếu tố về đối tượng sử dụng, dịch vụ 
ĐTĐM có thể được phân loại thành dịch vụ Cộng 
đồng (Public) hay dịch vụ Riêng biệt (Private). 
Dịch vụ cộng đồng được cung cấp đến tất cả mọi 
đối tượng sử dụng Internet (Amazon Web Services 
là một ví dụ điển hình). Không giống như vậy, dịch 
vụ ĐTĐM riêng biệt chỉ được cung cấp cho một 
nhóm đối tượng nhất định và nhà cung cấp dịch 
vụ chỉ sử dụng những nguồn tài nguyên hạ tầng 
của riêng họ. 
Từ quan điểm tính năng dịch vụ (với thành ngữ 
trong tiếng Anh: as-a-service), các sản phẩm ĐTĐM 
có thể được chia thành 3 loại hình chính là IaaS, 
PaaS và SaaS như được minh họa trong Hình 1 [3]. 
- Dịch vụ cung cấp hạ tầng - Infrastructure as 
a Service (IaaS): Dịch vụ này cung cấp cho NSD 
thuê các tài nguyên hạ tầng (ví dụ như các 
máy chủ ảo, dung lượng lưu trữ) theo nhu 
cầu sử dụng. Dịch vụ lưu trữ Amazon S3, 
hay tài nguyên điện toán Amazon EC2, 
IBM Blue Cloud là những ví dụ của IaaS. 
- Dịch vụ cung cấp nền tảng - Platform 
as a Service (PaaS): Dịch vụ này cung cấp 
môi trường phát triển phần mềm đã có sẵn 
để NSD có thể thiết lập và tự phát triển 
trên nền tảng đó các ứng dụng hay các dịch vụ 
của mình. Microsoft Azure, Google App Engine, 
Amazon Relation Databse Services là những ví dụ 
của PaaS. 
- Dịch vụ cung cấp phần mềm - Software as a 
Service (SaaS): Dịch vụ này cung cấp cho NSD 
các ứng dụng đã được cài đặt và cấu hình sẵn trên 
ĐTĐM. NSD chỉ việc dùng từ xa các ứng dụng, 
thay vì phải cài đặt, cấu hình trên các máy trạm 
của họ. Ví dụ cho loại hình này là các ứng dụng 
trên nền Web, hoặc các ứng dụng tại chỗ nhưng sử 
dụng tài nguyên (xử lý, lưu trữ) qua mạng Internet. 
Google Apps, Gmail, Facebook là một vài ví dụ 
điển hình của SaaS.
Hình 1. Các loại hình dịch vụ ĐTĐM
Với việc dùng các dịch vụ ĐTĐM do các nhà 
cung cấp dịch vụ mang lại, ưu điểm nổi trội là NSD 
sẽ trả (thuê bao) tài nguyên theo sát với nhu cầu 
thực sự (pay-as-you-go), tránh được sự cứng nhắc 
về tài nguyên và những lãng phí hoặc không đảm 
bảo chất lượng dịch vụ do sự cứng nhắc đó. Kiểm 
soát chi phí nhờ đó cũng sẽ trở nên linh hoạt và 
theo sát với nhu cầu của doanh nghiệp (Hình 2b).
Hình 2. Tương quan giữa mức tài nguyên được 
NSD đầu tư (hoặc trả tiền thuê bao) và nhu cầu sử 
dụng đầu tư
Bên trái (a): mô hình tự cung cấp dịch vụ bằng hệ 
thống riêng sẽ dẫn đến tình trạng phải đầu tư thừa 
tài nguyên (Mức 1) để đảm bảo chất lượng dịch vụ, 
hoặc đầu tư ít tài nguyên hơn (Mức 2) nhưng phải 
chấp nhận sẽ có sự suy giảm và không đảm bảo về 
chất lượng dịch vụ trong quá trình sử dụng. Bên phải 
(b): Sử dụng dịch vụ ĐTĐM sẽ tránh được sự cứng 
nhắc về đầu tư tài nguyên bằng cách chỉ trả thuê bao 
theo nhu cầu sử dụng thực tế (pay-as-you-go) mà 
vẫn đảm bảo chất lượng dịch vụ. 
Tuy nhiên, việc gia công dữ liệu cho một Nhà 
cung cấp Dịch vụ Đám mây (CSP), một thực thể 
hành chính riêng biệt, vừa giải phóng kiểm soát 
22
CAÙCH MAÏNG COÂNG NGHIEÄP 4.0 VAØ NHÖÕNG TAÙC ÑOÄNG TÔÙI NGAØNH NGHEÀ KEÁ TOAÙN - KIEÅM TOAÙN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 121 - tháng 11/2017
của người dùng qua dữ liệu của mình. Vì vậy, độ 
chính xác của dữ liệu trong đám mây là vấn đề. Một 
số rủi ro có thể được liệt kê dưới đây: 
- Có rất nhiều điều có thể thúc đẩy CSP không 
hành xử trung thực với người dùng về tình trạng 
dữ liệu được thuê ngoài của mình.
- CSP không nên sử dụng dữ liệu của người 
dùng cho lợi ích của họ.
- Mặc dù kiến trúc lưu trữ đám mây an toàn hơn 
và mạnh mẽ hơn các máy tính cục bộ của người sử 
dụng nhưng bên cạnh đó cũng có các mối đe dọa 
từ bên ngoài và bên trong.
Việc sở hữu vật lý của dữ liệu được thuê ngoài 
không còn nữa. Việc tải xuống dữ liệu đã lưu trữ 
để kiểm tra tính toàn vẹn của nó có thể không phải 
là một giải pháp kinh tế và thực tế khả thi dựa trên 
chi phí đầu vào/đầu ra cao cũng như chi phí truyền 
tải qua mạng. Hơn nữa, các kích thước dữ liệu có 
thể lớn và truy cập vào toàn bộ tập tin từ các máy 
chủ từ xa có thể tốn kém chi phí I/O cho máy chủ 
lưu trữ. Truyền tệp trên mạng có thể tiêu tốn băng 
thông lớn. Về mặt lịch sử, tốc độ tăng dung lượng 
lưu trữ nhanh hơn tốc độ băng thông mạng. Hơn 
nữa, hoạt động của I/O để thiết lập độ chính xác 
của dữ liệu cũng sử dụng cùng một băng thông của 
máy chủ mà nếu không được sử dụng cho các hoạt 
động thường xuyên của lưu trữ và truy xuất dữ liệu.
Để tiết kiệm cho người dùng khỏi gánh nặng 
tải toàn bộ dữ liệu và kiểm tra tính toàn vẹn của 
nó, cần thận trọng khi cho phép kiểm tra các kho 
lưu trữ trong đám mây để người dùng có thể dựa 
vào một kiểm toán viên không phải là bên thứ ba 
để kiểm toán các nguồn dữ liệu bên ngoài khi cần 
thiết. Cũng như nó tiết kiệm cho các máy chủ đám 
mây khỏi các vấn đề băng thông và quan trọng nhất 
đảm bảo tính toàn vẹn dữ liệu.
Theo nghiên cứu của P. K. Deshmukh, V. R. 
Desale, R. A. Deshmukh (2013), trong thế giới 
ngày nay, cơ chế kiểm tra bên thứ ba (KTV) cho 
tính toàn vẹn dữ liệu ngày càng trở nên quan trọng 
và có thể sớm trở thành không thể tránh được để 
đảm bảo cho bảo vệ dữ liệu và độ tin cậy của dịch 
vụ. Kiểm toán viên bên thứ ba là một chuyên gia 
theo chiều dọc và có khả năng và khả năng cần 
thiết mà người dùng thông thường không có. Kiểm 
toán viên được giao nhiệm vụ đánh giá nguy cơ của 
các dịch vụ lưu trữ đám mây thay mặt người dùng. 
KTV sẽ yêu cầu CSP cung cấp bằng chứng rằng dữ 
liệu an toàn và chưa được sửa đổi.
Kiểm toán dịch vụ có nghĩa là cho phép một cơ 
quan bên ngoài, để đánh giá tính toàn vẹn của dữ 
liệu được thuê ngoài của người dùng. Tuy nhiên, 
theo H. Shacham and B. Waters (2008); Q. Wang, 
C. Wang, K. Ren, W. Lou, and J. Li (2011); C. Wang, 
K. Ren, W. Lou and J. Li, (2010) hầu hết các chương 
trình đều không bảo đảm sự riêng tư của dữ liệu 
người dùng và do đó dữ liệu được tiết lộ cho các 
kiểm toán viên bên thứ ba. Trong khi đó, M.A. 
Shah, M. Baker, J.C. Mogul, and R. Swaminathan 
(2007) M.A. Shah, R. Swaminathan, and M. Baker 
(2007) người dùng cũng muốn quá trình kiểm toán 
để giới thiệu các lỗ hổng mới về rò rỉ dữ liệu cho 
các kiểm toán viên bên thứ ba chỉ để kiểm tra tính 
toàn vẹn của dữ liệu thuê ngoài.
Nghiên cứu này nhằm giải quyết những vấn đề 
trên bằng cách sử dụng kỹ thuật xác thực tuyến tính 
chung dựa trên khóa công khai H. Shacham and B. 
Waters (2008); Q. Wang, C. Wang, K. Ren, W. Lou, 
and J. Li (2011); C. Wang, K. Ren, W. Lou and J. Li, 
(2010), cho phép KTV thực hiện kiểm toán công 
mà không yêu cầu dữ liệu thực tế. Nghiên cứu đã 
tích hợp HLA với sự che phủ ngẫu nhiên để đảm 
bảo rằng KTV không bao giờ có được bất kỳ kiến 
thức về dữ liệu được lưu trữ tại máy chủ dựa trên 
đám mây (CS) trong quá trình kiểm tra.
2. Công việc có liên quan
Công việc đầu tiên của kiểm toán công đã được 
thực hiện bởi Ateniese và cộng sự trong “khả năng 
lưu trữ dữ liệu có thể thực hiện được tại các cửa 
hàng không đáng tin cậy”. Họ đề nghị lấy mẫu ngẫu 
nhiên các dữ liệu được thuê ngoài và sử dụng mô 
hình RSA với các bộ xác thực tuyến tính đồng bộ 
để kiểm tra dữ liệu được thuê ngoài. Vì đây là kế 
hoạch đầu tiên, bảo vệ sự riêng tư của dữ liệu đã 
không được xem xét bởi chúng do đó dữ liệu có thể 
truy cập được bởi kiểm toán viên bên ngoài cho 
mục đích kiểm toán.
23NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 121 - tháng 11/2017
M.A. Shah và cộng sự đã giới thiệu một KTV để 
kiểm tra tính trung thực của bộ lưu trữ trực tuyến 
bằng cách mã hoá tập tin dữ liệu đầu tiên được lưu 
trữ và sau đó một số kết hợp khóa đối xứng được 
đánh giá trước đối với tệp dữ liệu được mật mã sẽ 
được gửi tới kiểm toán viên. Vai trò của kiểm toán 
viên là xác định tính toàn vẹn tập tin dữ liệu và 
khóa giải mã được cam kết trước đó được tổ chức 
tại máy chủ. Điểm mấu chốt của kế hoạch này là 
KTV cần phải duy trì trạng thái và do đó bị hạn chế 
sử dụng, có thể gây gánh nặng thêm cho người tiêu 
dùng khi sử dụng tất cả các bảng cân đối đối xứng. 
Hơn nữa, chương trình này chỉ làm việc cho các tập 
tin dữ liệu được mã hóa. Các nhà nghiên cứu sử 
dụng thuật toán RSA để mã hóa và giải mã dữ liệu 
và thuật toán SHA 512 được sử dụng để kiểm tra 
tính xác thực và toàn vẹn của thông tin. 
Govinda và các cộng sự sử dụng chữ ký số của 
RSA để cho phép KTV kiểm tra tính toàn vẹn của 
dữ liệu được thuê ngoài trong môi trường đám mây 
và bảo vệ sự riêng tư của nó. Thay mặt cho người 
dùng, KTV kiểm tra tính toàn vẹn của dữ liệu 
được thuê ngoài. Điều này tạo điều kiện cho khả 
năng xác minh công khai động lực dữ liệu để bảo 
mật lưu trữ trong đám mây và cũng tạo điều kiện 
kiểm toán về bảo mật tính riêng tư. Tuy nhiên, kế 
hoạch này không thể giúp khôi phục dữ liệu được 
thuê ngoài. Đó là bởi chủ yếu hai lý do được đề cập 
trong nghiên cứu của M.A. Shah, R. Swaminathan, 
and M. Baker (2007). Thứ nhất là sự không khớp 
giữa giá trị được lưu giữ và giá trị tính toán của 
checksum chỉ có thể xác định rằng một trong hai đã 
được sửa đổi nhưng không thể định rõ được, như 
trong nghiên cứu của Farzad Sabahi (2011) “Các 
mối đe dọa và phản ứng về bảo mật máy tính đám 
mây” và có thể tổng kiểm tra được lưu trữ được 
sửa đổi hoặc bị hỏng. Lý do thứ hai là các hàm băm 
(hash functions) miễn phí được sử dụng để tính giá 
trị kiểm tra và do đó dữ liệu không thể được thu 
hồi từ một giá trị kiểm tra nhất định.
3. Vấn đề nghiên cứu
a. Mô hình hệ thống
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đề cập đến ba 
thực thể - người sử dụng điện toán đám mây, máy 
chủ đám mây và kiểm toán viên bên thứ ba. Người 
dùng Đám mây là người sử dụng máy chủ đám mây 
để lưu trữ số lượng lớn các tệp dữ liệu. Nhà cung 
cấp dịch vụ đám mây (CSP) cung cấp dịch vụ lưu 
trữ dữ liệu và có hầu hết các tài nguyên lưu trữ và 
tính toán không giới hạn, có thể mở rộng. Kiểm 
toán viên bên thứ ba (KTV) kiểm tra tính toàn vẹn 
của dữ liệu thay mặt cho người sử dụng điện toán 
đám mây sử dụng một kế hoạch kiểm toán công và 
sau đó KTV gửi báo cáo cho người dùng.
Hình 3. Cấu trúc mô hình hệ thống
Những lợi ích của mô hình hệ thống do người 
dùng chuyển dữ liệu sang đám mây - việc gia 
công dữ liệu ngoài việc giảm chi phí lưu trữ cũng 
giảm bớt sự bảo trì, giảm nguy cơ mất dữ liệu do 
sự cố phần cứng, dữ liệu có thể được truy cập 
từ bất cứ đâu trên thế giới. Để giảm chi phí tính 
toán của người dùng đám mây cũng như để tiết 
kiệm gánh nặng trực tuyến có thể được tạo ra khi 
người dùng kiểm tra tính toàn vẹn, người dùng 
sử dụng KTV để kiểm tra tính toàn vẹn của dữ 
liệu được lưu trữ.
b. Mô hình chỉ dẫn nguy cơ
Mối đe dọa về cơ bản là một sự kiện tiềm ẩn có 
thể là nguy hiểm hoặc ngẫu nhiên, ảnh hưởng đến 
tài nguyên đám mây.
Nguy cơ từ truy cập đối tượng dữ liệu data - Dữ 
liệu trong bộ nhớ đám mây có thể bị lạc do các 
vấn đề về phần cứng. Nhà cung cấp dịch vụ đám 
mây có thể xóa dữ liệu khi nó không được truy cập 
trong một thời gian dài.
Các cuộc tấn công khác có thể bao gồm - lỗi 
phần mềm, tin tặc, các vấn đề bảo mật trong đường 
24
CAÙCH MAÏNG COÂNG NGHIEÄP 4.0 VAØ NHÖÕNG TAÙC ÑOÄNG TÔÙI NGAØNH NGHEÀ KEÁ TOAÙN - KIEÅM TOAÙN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 121 - tháng 11/2017
dẫn mạng... Đối với danh tiếng của họ, CSP có thể 
giấu những điều này từ người dùng.
 Nguy cơ bảo mật - Có thể là 
dữ liệu được lưu trữ trên máy chủ 
đám mây có chứa thông tin bí mật 
về doanh nghiệp và bên ngoài có 
thể cố gắng truy cập vào nó bằng 
cách thao túng CSP. Cùng với dữ 
liệu này hoặc một phần của nó 
phải được giữ kín từ KTV trong 
quá trình kiểm tra.
c. Mục tiêu thiết kế
Giao thức của chúng tôi nhằm 
đạt được các tính chất sau đây:
- Kiểm toán dịch vụ - KTV có thể xác minh 
an toàn và hiệu quả dữ liệu mà không cần khôi 
phục bản sao của nó.
- Chính xác - Nếu có bất kỳ khối sửa đổi, 
sau đó KTV sẽ có thể phát hiện nó.
- Bảo mật - Bảo toàn - KTV không nên 
truy cập bất kỳ phần nào của dữ liệu trong 
quá trình kiểm toán.
4. Đề xuất
Chúng tôi đã đề xuất một hệ thống sẽ sử 
dụng xác thực homomorphic dựa trên khóa 
công khai cùng với kỹ thuật masking ngẫu 
nhiên để tạo điều kiện bảo mật dữ liệu người dùng 
và cho phép kiểm tra dữ liệu của người dùng được 
lưu trữ trong đám mây. Chúng tôi đề xuất sử dụng 
bộ chứng thực homomorphic dựa trên khóa công 
khai thông qua đó KTV có thể thực hiện nhiệm 
vụ kiểm toán mà không yêu cầu sao chép dữ liệu 
của người dùng và sau đó tích hợp nó với kỹ thuật 
masking ngẫu nhiên, giao thức của chúng tôi hứa 
hẹn rằng KTV sẽ không có thông tin cần thiết để 
xây dựng lại chính xác Nhóm các phương trình 
tuyến tính và do đó không thể có bất kỳ kiến thức 
nào về dữ liệu của người dùng được lưu trữ trong 
máy chủ đám mây trong đề xuất rằng tệp tin phải 
được mã hóa ở phía người dùng và khóa được lưu 
trữ với người dùng trước khi tải tệp lên đám mây. 
Như vậy, quá trình trên sẽ trải qua hai giai đoạn 
như mô hình dưới đây:
Hình 4. Giai đoạn thiết lập Kế hoạch Kiểm toán
Hình 5. Giai đoạn thực hiện kế hoạch Kiểm toán
5. Xu hướng sử dụng điện toán đám mây và 
tiềm năng phát triển kiểm toán đám mây trên thị 
trường Việt Nam
 Việt Nam đang dần tiếp cận các dịch vụ đám 
mây thông qua dự án của một số doanh nghiệp 
nước ngoài như Microsoft, Intel cũng như từ 
những nhà phát triển, cung cấp trong nước như 
FPT, Biaki IBM là doanh nghiệp tiên phong khai 
trương trung tâm điện toán đám mây tại Việt Nam 
vào tháng 9/2008 với khách hàng đầu tiên là Công 
ty Cổ phần Công nghệ và Truyền thông Việt Nam 
(VNTT). Có thể nói Việt Nam là một trong những 
nước đầu tiên ở ASEAN đưa vào sử dụng điện toán 
đám mây.
Công nghệ này được coi là giải pháp cho những 
vấn đề mà nhiều công ty đang gặp phải như thiếu 
25NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 121 - tháng 11/2017
năng lực CNTT, chi phí đầu tư hạ tầng hạn chế... 
Hiện nay, nhiều công ty đang hoang phí tài nguyên 
như: không khai thác hết công suất của hệ thống 
máy chủ, đầu tư quá nhiều về mặt con người. Trong 
khi đó, về lý thuyết, đám mây (cloud computing) sẽ 
cho phép doanh nghiệp không cần tập trung quá 
nhiều cho cơ sở hạ tầng hoặc nâng cấp ứng dụng, 
không đòi hỏi nguồn nhân lực lớn và có thể dễ 
dàng thay đổi quy mô khi cần.
Mặc dù điện toán đám mây hiện đang được 
ứng dụng rộng rãi ở nhiều nước phát triển trên thế 
giới bởi lợi ích đáng kể mà nó đem lại, nhưng ở 
Việt Nam các doanh nghiệp vẫn chưa thực sự mặn 
mà với công nghệ này. Tuy nhiên, theo các chuyên 
gia nhận định, đây chính là giải pháp tối ưu để các 
doanh nghiệp nước ta giảm thiểu chi phí cũng như 
tăng hiệu suất làm việc ở mức tối đa. Mô hình sử 
dụng điện toán đám mây tại Việt Nam được khái 
quát hóa như hình 6.
Hình 6. Xu hướng sử dụng điện toán đám mây 
tại Việt Nam
Về thực trạng ứng dụng điện toán đám mây ở 
các doanh nghiệp Việt Nam, có thể rút ra kết luận 
như sau: Hiện nay, đã có một vài doanh nghiệp 
lớn tại Việt Nam đưa điện toán đám mây vào ứng 
dụng và hiệu suất kinh doanh được cải thiện đáng 
kể. Tuy nhiên, số lượng là khá ít. Phần lớn vẫn chỉ 
dừng ở mức quan tâm và tìm hiểu. 
Tuy nhiên, theo khảo sát gần đây của Symantec, 
một công ty phần mềm hàng đầu thế giới, hiện có 
khoảng 46% doanh nghiệp và tổ chức Việt Nam 
đang triển khai ứng dụng công nghệ điện toán đám 
mây và các dự án ảo hóa khác.
Hãng bảo mật Symantec cũng cho rằng các 
doanh nghiệp Việt Nam có mối quan tâm đặc biệt 
đến việc ứng dụng điện toán đám mây và cơ hội 
mà công nghệ mới này đem tới. Kết quả từ cuộc 
khảo sát cho thấy 39% doanh nghiệp trong nước 
hiện đang sử dụng dịch vụ phần mềm ảo tư nhân 
(VPS), trong khi 21% đang ảo hóa máy chủ và cơ 
sở dữ liệu.
Một báo cáo gần đây của nhóm nghiên cứu 
Gartner nhấn mạnh tới sự phát triển của Điện toán 
đám mây trong bối cảnh toàn cầu hóa. Theo khảo 
sát, khoảng 50% doanh nghiệp và các tổ chức trên 
thế giới đang ứng dụng công nghệ hiện đại này 
với tốc độ tăng trưởng 17% mỗi năm. Năm 2011, 
doanh thu dịch vụ điện toán đám mây toàn cầu lên 
tới 2,4 tỷ USD. Gartner dự đoán con số này sẽ tăng 
gần gấp 4 lần trong năm 2012.
Việc ứng dụng công nghệ điện toán đám mây 
trong kinh doanh cũng như trong đời sống là một 
bước phát triển tất yếu với xu thế thời đại. Được dự 
đoán là làn sóng công nghệ mới, sẽ tạo ảnh hưởng 
đến thói quen, tư duy ứng dụng công nghệ hiện 
nay. Điều khó khăn là làm thế nào để các doanh 
nghiệp cũng như cá nhân chấp nhận xu thế đấy.
Đối với phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam 
hiện nay (chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ), rào 
cản ngôn ngữ là trở ngại lớn nhất trong quá trình 
tìm kiếm những công nghệ trợ giúp cho họ. Chính 
vì thế, các nhà cung cấp Việt Nam sẽ là cầu nối cho 
doanh nghiệp trong nước với xu thế công nghệ thế 
giới. Nó yêu cầu một trình độ nhất định về công 
nghệ, sự am hiểu thói quen, văn hóa của doanh 
nghiệp Việt Nam, và trên hết là khả năng đào tạo 
thị trường gắn với công nghệ. Nhà cung cấp Công 
nghệ Điện toán đám mây ở Việt Nam làm tốt cả 3 
điều trên, thì thị trường Việt Nam sẽ không chỉ còn 
là thị trường tiềm năng nữa.
Công nghệ Điện toán đám mây là xu thế chung 
của thời đại, việc đưa ra ứng dụng, phát triển rộng 
rãi là điều tất yếu, nhất là trong bối cảnh toàn cầu 
26
CAÙCH MAÏNG COÂNG NGHIEÄP 4.0 VAØ NHÖÕNG TAÙC ÑOÄNG TÔÙI NGAØNH NGHEÀ KEÁ TOAÙN - KIEÅM TOAÙN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 121 - tháng 11/2017
hóa. Nhưng để theo kịp xu thế, để thị trường phát 
triển mạnh thì còn nhiều điều cấp thiết phải làm. 
Thay đổi một tư duy làm việc, một thói quen hoạt 
động là điều mà các nhà cung cấp phải làm doanh 
nghiệp Việt Nam nhìn ra và chấp nhận.
Bài báo đã đề xuất một hệ thống kiểm toán bên 
thứ ba cho kho dữ liệu dựa trên đám mây đồng 
thời bảo vệ sự riêng tư của dữ liệu của người dùng. 
Hệ thống xác thực tuyến tính đơn vị và sự che phủ 
ngẫu nhiên đã được sử dụng để đảm bảo rằng KTV 
sẽ không thể truy cập vào các nội dung dữ liệu 
được lưu trữ trên máy chủ đám mây mà không ảnh 
hưởng đến hiệu quả của quy trình kiểm toán. Điều 
này loại bỏ gánh nặng của nhiệm vụ kiểm toán từ 
người sử dụng điện toán đám mây và cũng làm 
giảm nỗi lo sợ của người dùng rằng dữ liệu từ bên 
ngoài của họ có thể bị truy cập bởi một bên không 
tin tưởng. Vấn đề này mở ra cho các nghiên cứu 
ứng dụng và thực hiện kiểm toán đám mây – một 
mô hình dịch vụ khá mới đối với thị trường kiểm 
toán Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. G. Ateniese, R. Burns, R. Curtmola, J. Herring, 
L. Kissner, Z. Peterson, and D. Song, “Provable 
Data Possession at Untrusted Stores,” in Proc. 
ACM CCS, 2007, pp. 598–610.
2. C. Wang, Q. Wang, K. Ren, and W. Lou, 
“Privacy-Preserving Public Auditing for Data 
Storage Security in Cloud Computing,” in 
Proc. IEEE INFOCOM, 2010, pp. 525–533. 
3. H. Shacham and B. Waters, “Compact 
Proofs of Retrievability,” in Proc. Int’l Conf. 
Theory and Application of Cryptology and 
Information Security: Advances in Cryptology 
(Asiacrypt), vol. 5350, pp. 90-107, Dec. 2008. 
4. B. Wang, B. Li, and H. Li, “Oruta: 
Privacy-Preserving Public Auditing for 
Shared Data in the Cloud” University of 
Toronto, Tech. Rep., pp. 295-302, 2011. 
5. Q. Wang, C. Wang, K. Ren, W. Lou, and 
J. Li, “Enabling Public Auditability and 
Data Dynamics for Storage Security in 
Cloud Computing” IEEE Trans. Parallel 
and Distributed Systems, vol. 22, no. 5, pp. 
847-859, May 2011. 
6. S. Galbraith, “Supersingular curves in 
cryptography” (Asiacrypt) volume 2248 
of Lecture Notes in Computer Science, 
SpringerVerlag , pages 495–513., 2001. 
7. C. Wang, K. Ren, W. Lou and J. Li, “Towards 
Publicly Auditable Secure Cloud Data 
Storage Services” IEEE Network Magazine, 
vol. 24, no. 4, pp. 19-24, July/Aug. 2010. 
8. M.A. Shah, M. Baker, J.C. Mogul, and R. 
Swaminathan, “Auditing to Keep Online 
Storage Services Honest,” in Proc. 11th 
USENIX Workshop Hot Topics in Operating 
Systems (HotOS ’07), pp. 1-6, 2007. 
9. M.A. Shah, R. Swaminathan, and M. Baker, 
“Privacy-Preserving Audit and Extraction of 
Digital Contents,” Cryptology ePrint Archive, 
Report 2008/186, 2008. 
10. Govinda V, Gurunathaprasad and H 
Sathshkumar, “Third Party Auditing For 
Security Data Storage in cloud through 
digital signature using RSA” IJASATR, issue 
2,vol-4, Issn 2249-9954, 2012. 
11. Farzad Sabahi,“Cloud Computing Security 
Threats and Responses” IEEE conference, 
978-1-61284-486-2/111, 2011. 
12. D. Boneh, B. Lynn, and H. Shacham. 
“Short signatures from the Weil pairing,” In 
Asiacrypt, volume 2248 of Lecture Notes in 
Computer Science, pp. 514+, 2001.
13. T. Okamoto and D. Pointcheval, “The 
gap-problems: A new class of problems for 
the security of cryptographic schemes,” In 
Public Key Cryptography, LNCS 1992, pp. 
104–118, 2001. 
14. Ben Lynn, “On the implementation of 
pairing-based cryptosystems” Thesis, 
Stanford University, Unites States, 2007. 
15. M. Armbrust, A. Fox, R. Griffith, A. D. Joseph, R. 
H. Katz, A. Konwinski, G. Lee, D. A. Patterson, 
A. Rabkin, I. Stoica, and M. Zaharia, “A View 
of Cloud Computing” Communications of the 
ACM, vol. 53, no. 4, pp. 50–58, April 2010. 
16. Bhagat and R. K. Sahu, “Using Third 
Party Auditor for Cloud Data Security: A 
Review” International Journal of Advanced 
Research in Computer Science and Software 
Engineering 3(3), pp. 34-39, March – 2013. 
17. P. K. Deshmukh, V. R. Desale, R. A. Deshmukh, 
“Investigation of KTV (Third Party Auditor 
Role) for Cloud Data Security”, IJSER, vo. 4, 
no. 2,ISSN 2229-5518, Feb 2013.

File đính kèm:

  • pdfxu_huong_kiem_toan_va_dich_vu_dam_bao_doi_voi_luu_tru_du_lie.pdf