Xét nghiệm AFP, AFP - L3 và PIVKA - II huyết thanh ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan tại Bệnh viện Bạch Mai
Mục tiêu: Định lượng các chỉ số AFP, AFP - L3 và PIVKA - II huyết thanh của bệnh nhân ung thư biểu mô
tế bào gan.
Đối tượng và phương pháp: Tiến hành phân tích trên máy TasWako - i30 các chỉ số AFP, AFP-L3 và
PIVKA-II trên1931 mẫu huyết thanh của bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan tại bệnh viện Bạch Mai từ năm
2016 đến tháng 3 năm 2019.
Kết quả: Số lượng bệnh nhân nam chiếm đa số, tỷ lệ bệnh nhân có độ tuổi cao mắc HCC cao hơn, trong
đó nhóm bệnh nhân > 60 tuổi chiếm số lượng lớn nhất ở cả 2 giới (48,9% ở nam và 43,2% ở nữ). Chỉ số trung
bình của AFP ở bệnh nhân HCC là 13139, 14ng/mL, của % AFP-L3 là 29,38% và PIVKA-II là 27728,1mAU/mL;
đều cao hơn ngưỡng cut-off value (10, 10, 40). Số bệnh nhân HCC có giá trị AFP và PIVKA-II cao hơn cut-off
value chiếm 54,4% và 56,2%. Số bệnh nhân có cả 3 chỉ số vượt ngưỡng cut-off chiếm 27,6%. Số bệnh nhân
cả 3 chỉ số đều dưới ngưỡng cut-off là 28%.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Xét nghiệm AFP, AFP - L3 và PIVKA - II huyết thanh ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan tại Bệnh viện Bạch Mai
TIÊU HÓA TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 301 XÉT NGHIỆM AFP, AFP-L3 VÀ PIVKA-II HUYẾT THANH Ở BỆNH NHÂN UNG THƯ BIỂU MÔ TẾ BÀO GAN TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI PHẠM CẨM PHƯƠNG1, MAI TRỌNG KHOA2, TRẦN ĐÌNH HÀ3, NGUYỄN THUẬN LỢI4, NGUYỄN VIỆT5, VÕ THỊ THÚY QUỲNH6, NGUYỄN HẢI LONG6 TÓM TẮT Mục tiêu: Định lượng các chỉ số AFP, AFP - L3 và PIVKA - II huyết thanh của bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan. Đối tượng và phương pháp: Tiến hành phân tích trên máy TasWako - i30 các chỉ số AFP, AFP-L3 và PIVKA-II trên1931 mẫu huyết thanh của bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan tại bệnh viện Bạch Mai từ nĕm 2016 đến tháng 3 nĕm 2019. Kết quả: Số lượng bệnh nhân nam chiếm đa số, tỷ lệ bệnh nhân có độ tuổi cao mắc HCC cao hơn, trong đó nhóm bệnh nhân > 60 tuổi chiếm số lượng lớn nhất ở cả 2 giới (48,9% ở nam và 43,2% ở nữ). Chỉ số trung bình của AFP ở bệnh nhân HCC là 13139, 14ng/mL, của % AFP-L3 là 29,38% và PIVKA-II là 27728,1mAU/mL; đều cao hơn ngưỡng cut-off value (10, 10, 40). Số bệnh nhân HCC có giá trị AFP và PIVKA-II cao hơn cut-off value chiếm 54,4% và 56,2%. Số bệnh nhân có cả 3 chỉ số vượt ngưỡng cut-off chiếm 27,6%. Số bệnh nhân cả 3 chỉ số đều dưới ngưỡng cut-off là 28%. Kết luận: Số lượng bệnh nhân HCC phân hóa theo giới tính và độ tuổi. Số bệnh nhân trong nghiên cứu có các giá trị vượt quá ngưỡng cut-off chiếm số lượng lớn nhưng vẫn còn một nhóm bệnh nhân HCC có cả 3 giả trị đều nằm dưới ngưỡng cut - off. ABSTRACT Quantative test of AFP, AFP-l3 and PIVKA-II for hepatocellular carcinoma patients at Bach Mai Hospital Objective: Quantitative test of AFP, AFP-L3 and PIVKA-II for hepatocellular carcinoma patients. Objects and method: Conduct analysis using TasWako-i30 on 1931 serum samples from hepatocelullar carcinoma patients from 2016 to March 2019. Results: Among the patients, male patients were the majority; older patients are more likely to be diagnosed with HCC, the percentage of patients >60 year-old was the highest amon both genders (48,9% in male and 43,2% in female). Themean value of AFP was 13139.14ng/mL, of % AFP-L3 was 29.38% and PIVKA-II was 27728.1mAU/mL; each of these means was higher than the respective cut-off values (10, 10, 40). The number of patients who possess AFP và PIVKA-II values higher than the cut-off values was 54.4% and 56.2%. Percentage of patients with 3 values higher than cut-off values was 27.6%. Percentage of patients with 3 values lower than cut-off values was 28%. Conclusion: Age and gender are the factors that affect the number of HCC patients. The number of patients with values exceed cut-off values was high but there was still a large number HCC of patients with values lower than cut-off values. 1 PGS.TS. Giám đốc Trung tâm Y học Hạt nhân và Ung Bướu, Bệnh viện Bạch Mai 2 GS. TS. Đơn vị gen - Tế bào gốc, Trung tâm Y học hạt nhân và Ung Bướu, Bệnh viện Bạch Mai 3 PGS.TS. Đơn vị gen - Tế bào gốc, Trung tâm Y học hạt nhân và Ung Bướu, Bệnh viện Bạch Mai 4 TS. Đơn vị gen - Tế bào gốc, Trung tâm Y học hạt nhân và Ung Bướu, Bệnh viện Bạch Mai 5 ThS. Đơn vị gen - Tế bào gốc, Trung tâm Y học hạt nhân và Ung Bướu, Bệnh viện Bạch Mai 6 CN. Đơn vị gen - Tế bào gốc, Trung tâm Y học hạt nhân và Ung Bướu, Bệnh viện Bạch Mai TIÊU HÓA TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 302 ĐẶT VẤN ĐỀ Ung thư biểu mô tế bào gan (Hepatocellular carcinoma - HCC) là loại bệnh lý ác tính có tỷ lệ mắc khá cao trong các loại ung thư. Theo GLOBOCAN 2018, trên toàn thế giới, ung thư gan đứng thứ 6 trong số các loại ung thư hay gặp nhất, với 841080 ca mới (4,7%) và đứng thứ 4 về tỷ lệ tử vong, với 781631 ca (8,2%). Tại Việt Nam, ung thư gan là loại ung thư thường gặp nhất, tổng số ca mới là 25335, chiếm 15,4% tổng số ca nhiễm ung thư mới. Ở nam giới, ung thư gan cũng đứng đầu về số ca: 19568 ca (21,5%) còn ở nữ giới, ung thư gan đứng thứ 5, chiếm 7,8% (5767 ca). Rất nhiều trường hợp ung thư gan không có nguyên nhân rõ ràng. Nhưng trong các nguyên nhân đã được xác định, phần lớn là viêm gan B, viêm gan C và xơ gan do rượu. Tỷ lệ sống sót sau 5 nĕm của ung thư gan dao động từ 10-14% ở bệnh nhân có kèm theo xơ gan. Ở bệnh nhân không có xơ gan hay các vấn đề sức khỏe khác, tỷ lệ sống sau 5 nĕm là trên 50%. Nếu bệnh nhân được phát hiện sớm và được cấy ghép gan, con số này có thể lên tới 60-70%. Do vậy, việc chẩn đoán và phát hiện sớm HCC là rất quan trọng. Có nhiều phương pháp đã được sử dụng trong chẩn đoán ung thư gan hiện nay như chụp CT, chụp cộng hưởng từ, xét nghiệm AFP nhưng độ đặc hiệu của các phương pháp này vẫn chưa cao. Trên thế giới, đặc biệt tại Nhật Bản, xét nghiệm bộ 3 dấu ấn ung thư AFP, AFP - L3 và PIVKA-II có ý nghĩa lớn trong sàng lọc phát hiện sớm, chẩn đoán; có độ đặc hiệu cao; có khả nĕng hỗ trợ đánh giá, theo dõi hiệu quả điều trị. AFP (Alpha-fetoprotein) là 1 protein bào thai. Ở bào thai, AFP có nồng độ rất cao và nhanh chóng giảm xuống 10ng/mL trong vòng 300 ngày sau khi sinh. Ở bệnh nhân viêm gan mãn tính nồng độ AFP có thể tĕng lên đến 20% và ở bệnh nhân xơ gan có thể tĕng lên tới 40%. Bệnh nhân HCC có thể có nồng độ AFP dao động từ ngưỡng bình thường cho đến >100000 ng/mL(1). AFP có 3 dạng khác nhau: AFP-L1, AFP-L2 và AFP-L3. AFP-L3 là dạng chủ yếu trong huyết thanh của bệnh nhân HCC. 35% số bệnh nhân HCC có khối u nhỏ hơn 2cm được chẩn đoán dương tính với AFP-L3(2). Có thể chỉ ra tình trạng ung thư gan sớm ở bệnh nhân có chỉ số AFP-L3 lớn hơn 10%, đôi khi còn sớm hơn cả sử dụng phương pháp chẩn đoán hình ảnh.PIVKA-II hay còn gọi là des-gamma-carboxy prothrombin (DCP) là prothrombin bất thường do thiếu hụt nhóm carboxy ở vị trí gamma trong 10 phân tử glutamic acid nằm ở phía đầu amin của prothrombin, nó làm giảm khả nĕng gắn kết với ion Ca2+ của prothrombin, và đảo lộn quá trình đông máu bình thường. Chỉ số PIVKA có tính đặc hiệu cao trong chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan(3). Chỉ số PIVKA có xu hướng cao hơn ở bệnh nhân giai đoạn muộn. Ngoài ra ở những bệnh nhân có hiện tượng tái phát HCC sau điều trị, chỉ số này cao hơn so với những bệnh có chiều hướng thuyên giảm bệnh(4). Theo khuyến cáo của Hội gan học Nhật Bản (Japan Society of Hepatology-JSH) bổ sung ban hành nĕm 2015, cần tầm soát định kỳ cho bệnh nhân nguy cơ mắc HCC. Bên cạnh siêu âm, hiệp hội này cũng khuyến cáo làm bộ ba xét nghiệm AFP, AFP-L3 và PIVKA-II huyết thanh. Khoảng cách giữa các lần tầm soát cũng thay đổi tùy theo các nhóm nguy cơ. Cụ thể, bệnh nhân nhóm nguy cơ rất cao như xơ gan, nên siêu âm và xét nghiệm bộ ba này mỗi 3 - 4 tháng. Có thể kết hợp thêm chụp CT hoặc MRI mỗi 6 - 12 tháng. Nhóm nguy cơ cao như viêm gan B hoặc C, nên siêu âm và xét nghiệm AFP, AFP-L3 và PIVKA-II huyết thanh mỗi 6 tháng(5). Tại bệnh viện Bạch Mai, Đơn vị Gen trị liệu đã tiến hành triển khai thường quy xét nghiệm trên mẫu huyết thanh cho bệnh nhân HCC và những người nguy cơ cao mắc HCC. Bên cạnh đó, việc xét nghiệm trên 3 chỉ số này cũng đem lại ý nghĩa lớn cho việc theo dõi, đánh giá hiệu quả điều trị của bệnh nhân HCC. Chúng tôi làm nghiên cứu này với mục đích định lượng các chỉ số AFP, AFP-L3 và PIVKA-II huyết thanh của bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan, mô tả mối tương quan chỉ số cận lâm sàng với kết quả xét nghiệm. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1931 mẫu máu của bệnh nhân HCC đã được thực hiện xét nghiệm bộ 3 AFP, AFP-L3 và PIVKA-II từ nĕm 2016 đến tháng 3 nĕm 2019 đã được lựa chọn để nghiên cứu. Phương pháp xét nghiệm AFP, AFP-L3 và PIVKA-II: Xét nghiệm trên máy TasWako- i30 dựa trên kỹ thuật điện di mao dẫn trên vi chíp (microfluidic) do công ty Wako Pure Chemical Industries - Nhật Bản.Quy trình thực hiện của kỹ thuật bao gồm các bước sau: TIÊU HÓA TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 303 Hình 1. Quy trình xét nghiệm 3 chỉ số AFP, AFP-L3 và PIVKA-II Nghiên cứu được tiến hành theo phương nghiên cứu mô tả cắt ngang. Điện di mao quản thực hiện tự động trên máy TasWako-i30. Dưới tác dụng của điện trường, các phân tử AFP, AFP-L3 và PIVKA-II di chuyển với tốc độ khác nhau trong mao quản. Các phân tử này sẽ được nhận biết và định lượng bằng đầu dò huỳnh quang đặt ở cuối mao quản. Kết quả sẽ được ghi lại và thông báo trên màn hình của máy. Các thông số nghiên cứu bao gồm: Tuổi, giới, chẩn đoán xác định, HBsAg, Anti-HCV, giá trị AFP, AFP-L3 và PIVKA-II. KẾT QUẢ Bảng 1. Độ tuổi và giới tính bệnh nhân Tuổi Nam Nữ < 30 11 (0,6%) 10 (3,5%) 30 - 40 77 (4,7%) 22 (7,7%) 41 - 50 210 (12,8%) 31 (10,8%) 51 - 60 543 (33%) 100 (34,8%) >60 803 (48,9%) 124 (43,2%) Tổng 1644 (100%) 287 (100%) Nhận xét: Độ tuổi trung bình của nhóm là 59,3 Trong đó bệnh nhân trẻ tuổi nhất trong nhóm bệnh nhân nam là 22 tuổi, lớn tuổi nhất là 87 tuổi. Ở nhóm bệnh nhân nữ, trẻ tuổi nhất là 22 và lớn tuổi nhất là 90 tuổi. Phần lớn bệnh nhân là nam giới: nam giới chiếm 85,1% và nữ giới chiếm 14,9%. Số lượng bệnh nhân HCC tĕng tỷ lệ thuận với độ tuổi và tương đồng ở cả hai giới. Nhóm bệnh nhân trên 60 tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất (48,9% ở nam giới và 43,2% ở nữ giới). Bảng 2. Kết quả xét nghiệm viêm gan B, viêm gan C Tình trạng viêm gan Số bệnh nhân Tỷ lệ (%) HBsAg dương tính 291 15,1 Anti-HCV dương tính 16 0,8 Không xác định 1624 84,1 Nhận xét: Phần lớn bệnh nhân HCC đều chưa xác định được có nhiễm viêm gan B và C hay không, có thể do các yếu tố khác. Bệnh nhân viêm gan B thường thấy hơn so với viêm gan C. Bệnh nhân viêm gan B chiếm 15,1% tổng số bệnh nhân (291 bệnh nhân), bệnh nhân viêm gan C chỉ chiếm 0,8% tổng số bệnh nhân (16 bệnh nhân). Số bệnh nhân không nhiễm viêm gan hoặc chưa rõ tình trạng chiếm 84,1% tổng số bệnh nhân (1624 bệnh nhân). Bảng 3. Giá trị nồng độ AFP, AFP-L3 và PIVKA Các chỉ số Giá trị trung bình Khoảng dao động AFP (ng/mL) 13139,14 0,3 - 379753 % AFP-L3 (%) 29,38 0,5 - 99,5 PIVKA-II mAU/mL) 27728,1 3,1 - 2166578 Nhận xét: Cả 3 chỉ số AFP, AFP-L3 và PIVKA-II của các bệnh nhân HCC đều có giá trị trung bình cao hơn ngưỡng cut-off. AFP: 13139, 14ng/mL >10ng/mL; % AFP-L3: 29,38% >10%; PIVKA II: 27728 mAU/mL >40mAU/mL. TIÊU HÓA TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 304 Bảng 4. Phân bố nồng độ AFP Nồng độ AFP Số bệnh nhân Tỷ lệ (%) < 10 881 45,6 10 - 100 486 25,2 1001 - 1000 280 14,5 10001 - 100000 227 11,8 >100000 57 3 Nhận xét: Số bệnh nhân có giá trị AFP >10ng/mL chiếm 54,4% tổng số bệnh nhân HCC, trong khi đó số bệnh có giá trị dưới ngưỡng cut-off chỉ chiếm 45,6% tổng số bệnh nhân. Bảng 5. Phân bố tỷ lệ AFP - L3 Tỷ lệ AFP - L3 Số bệnh nhân Tỷ lệ (%) < 0,5 762 39,5 0,5 - 10 411 21,3 >10 758 39,3 Nhận xét: Giá trị %AFP xuất hiện nhiều nhất là 10% chiếm 39,3% tổng số bệnh nhân. Bảng 6. Phân bố nồng độ PIVKA II Nồng độ PIVKA II Số bệnh nhân Tỷ lệ (%) < 40 845 43,8 40 - 1000 586 30,3 1001 - 10000 259 13,4 10001 - 100000 188 9,7 >100000 53 2,7 Nhận xét: Số bệnh nhân có giá trị PIVKA-II dưới ngưỡng cut-off là 845 bệnh nhân, chiếm 43,8% tổng số bệnh nhân. Bệnh nhân có chỉ số PIVKA-II >40mAU/mL chiếm 56,2% tổng số bệnh nhân (1086 bệnh nhân). Hình 2. Tỷ lệ phần trĕm bệnh nhân có chỉ số vượt quá ngưỡng cut-off Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân chỉ có 1 chỉ số AFP, AFP-L3 hoặc PIVKA-II vượt quá ngưỡng cut-off lần lượt là 7,4%, 2,4%, 11,9%, 5,9% số bệnh nhân có 2 chỉ số AFP và AFP-L3 cùng cao, 13,5% bệnh nhân có 2 chỉ số AFP và PIVKA cùng cao, 3,4% bệnh nhân có AFP-L3 và PIVKA cao. 27,6% bệnh nhân có cả 3 chỉ số đều vượt quá ngưỡng cut-off, 28% số bệnh nhân có cả 3 chỉ số dưới ngưỡng cut-off. 7,4% 3,4% 27,6% 5,9% 13,5% 2,4% 11,9% 28% dưới ngưỡng cut-of TIÊU HÓA TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 305 BÀN LUẬN Ở những bệnh nhân có chỉ số AFP tĕng cao do HCC hay do nguyên nhân khác nên được chỉ định xét nghiệm định kỳ để theo dõi diễn biến của bệnh, đáp ứng đối với điều trị và theo dõi tái phát, di cĕn sau điều trị. Hiện tại, xét nghiệm định lượng AFP để hỗ trợ chẩn đoán HCC đã được thực hiện thường quy tại các bệnh viện trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Trong thực tế, bên cạnh giải phẫu bệnh là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán xác định HCC, để kết luận một trường hợp bệnh nhân HCC chúng ta vẫn phải sử dụng kết quả xét nghiệm AFP kết hợp với siêu âm hoặc hình ảnh. Xét nghiệm AFP đặc biệt có giá trị khi khi dấu ấn này được kết hợp với 2 dấu ấn khác là AFP-L3 và PIVKA-II. Chưa thể khẳng định rằng bệnh nhân bị ung thư biểu mô tế bào gan khi chỉ số AFP tĕng vì xơ gan, viêm gan, có thai và một số loại ung thư khác cũng có thể khiến cho chỉ số AFP tĕng. Ngược lại, bệnh nhân vẫn có thể mắc HCC và có AFP bình thường. Ngoài ra, 2 chỉ số % AFP-L3 và PIVKA-II cũng có sự liên quan chặt chẽ đến quá trình diễn tiến của HCC. Do vậy, việc xét nghiệm cả 3 chỉ số đem lại ý nghĩa lớn trong sàng lọc, chẩn đoán, đánh giá đáp ứng điều trị và và theo dõi tái phát bệnh ung thư biểu mô tế bào gan. Ở Nhật Bản, việc kết hợp bộ 3 chỉ số AFP, AFP-L3 và PIVKA-II trong chẩn đoán sớm HCC đã nâng cao tỷ lệ điều trị thành công HCC (thời gian sống toàn bộ 5 nĕm) cho rất nhiều bệnh nhân. Theo Yukio Osaki và Hiroki Nishikawa, tính từ nĕm 1981 đến 2013 tỷ lệ chẩn đoán sớm HCC (giai đoạn I, II) đã tĕng rõ rệt từ 34,1% tĕng lên đến hơn 60%. Cùng với đó tỷ lệ điều trị HCC thành công đã tĕng đến gần 40%(6). Tại Mỹ, theo một nghiên cứu nĕm 2011 của El-Serag HB, tỷ lệ chữa khỏi bệnh HCC thấp hơn chỉ 12%(7). Sự khác biệt này phần lớn là do Nhật Bản áp dụng kết hợp 3 chỉ số AFP, AFP - L3 và PIVKA-II trong việc chẩn đoán sớm và theo dõi điều trị HCC. Trong số 1931 bệnh nhân, số bệnh nhân nam chiếm 85% (1644 bệnh nhân) và bệnh nhân nữ chiếm 14,9% tổng số bệnh nhân (287 bệnh nhân).Nam giới thường tiếp xúc với rượu bia nhiều hơn nữ giới. Trong số các bệnh nhân làm xét nghiệm, nhóm bệnh nhân ngoài độ tuổi lao động (>60 tuổi) chiếm số lượng lớn nhất. Điều này cho thấy bệnh nhân càng lớn tuổi càng có khả nĕng mắc HCC cao. Nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ như trên rất có thể do những bệnh nhân này đã trải qua quá trình sinh hoạt và làm việc có tiếp xúc với các yếu tố gây ung thư trong một khoảng thời gian dài hơn các bệnh nhân trẻ tuổi. Ngoài ra, những bệnh nhân lớn tuổi có thể đã mắc viêm gan hoặc xơ gan từ trước, những bệnh lý này tiến triển nặng thêm và dẫn tới ung thư gan.Nghiên cứu về sự khác biệt về giới và độ tuổi trong quần thể bệnh nhân HCC ở Mỹ của Pian Liu vào nĕm 2017 cũng cho kết quả tương tự(8). Trong tổng số các bệnh nhân HCC làm xét nghiệm, mới chỉ xác định được 291 bệnh nhân viêm gan B (15,1%) và 16 bệnh nhân nhiễm viêm gan C (0.8%). Còn một lượng lớn bệnh nhân chưa rõ tình trạng viêm gan hoặc mắc HCC do các yếu tố khác (1308 bệnh nhân - 84,1%). Như vậy, chưa thể thiết lập được mối liên hệ giữa tình trạng dương tính viêm gan virus B và C với tình trạng ung thư của bệnh nhân. Chỉ số của cả 3 dấu ấn sinh học AFP, AFP-L3 và PIVKA-II đều có ngưỡng dao động rất lớn. Ngoài tỷ lệ bệnh nhân có chỉ số % AFP-L3 cao (>10%) chỉ đạt 39,3%, số bệnh nhân có chỉ số AFP và PIVKA-II cao hơn ngưỡng cut-off value đều chiếm đa số (54,4% và 56,2%). Nghiên cứu của Choi JY về giá trị chẩn đoán của AFP và PIVKA-II trên bệnh nhân HCC cho kết quả tương tự(9). Tuy nhiên trong nghiên cứu này ngưỡng cut-off value của AFP là >20ng/mL. Kết quả nghiên cứu của Choi JY cho thấy tỷ lệ bệnh nhân có giá trị AFP < 20ng/mL là 42,2%, từ 20 đến 200ng/mL là 22,2% và bệnh nhân có giá trị AFP >200ng/mL chiếm 35,6% tổng số bệnh nhân. Ngưỡng cut-off value của chỉ số PIVKA-II ở nghiên cứu này cũng lấy giả trị >40mAU/mL. KẾT LUẬN Trong 1931 bệnh nhân làm xét nghiệm bộ 3 dấu ấn sinh học AFP, AFP-L3 và PIVKA-II, nam giới chiếm đa số (nam giới chiếm 85,1% và nữ giới chiếm 14,9%) tỷ lệ bệnh nhân HCC cao tuổi lớn hơn bệnh nhân trẻ tuổi. Giá trị trung bình của AFP là 13139,14ng/mL, của % AFP-L3 là 29,38%, của PIVKA-II là 27728,1 mAU/mL, đều cao hơn ngưỡng cut-off. Số bệnh nhân HCC có chỉ số cao hơn ngưỡng cut-off chiếm đa số, trong đó có 533 bệnh nhân có 3 chỉ số vượt mức cut-off value và 541 bệnh nhân có cả 3 chỉ số thấp hơn mức cut-off value. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Eldad S. Bialecki and Adrian M. Di Bisceglie. (2005). Diagnosis of hepatocellular carcinoma. HPB (Oxford); 7(1): 26 - 34. 1. Taketa K et al. (1993). A collaborative study for the evaluation of lectin-reactive alpha- fetoproteins in early detection of hepatocellular carcinoma. Cancer Res; 53(22):5419 - 23. 2. Liebman HA, Furie BC, Tong MJ et al. (1984) Des-gamma-carboxy (abnomal) prothrombin as a serum marker of primary hepatocellular carcinoma. N Engl J Med; 310:1427 - 1431. TIÊU HÓA TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 306 3. Rentao Yu et al. (2017). Effectiveness of PIVKA- II in the detection of hepatocellular carcinoma based on real-world clinical data. BMC Cancer; 17: 608. 4. Kokudo N, Hasegawa K, Akahane M et al. (2015) Evidence-based Clinical Practice Guidelines for Hepatocellular Carcinoma: The Japan Society of Hepatology 2013 update (3rd JSH - HCC Guidelines). Hepatol Res; 45. 5. Yukio Osaki and Hiroki Nishikawa (2015). Treatment for hepatocellular carcinoma in Japan over the last three decades: Our experience and published work review. Hepatol Res; 45(1): 59 - 74. 6. El-Serag HB (2011). Hepatocellular carcinoma. N Engl J Med; 365:1118 - 1127. 7. Pian Liu. (2017). Age-specific sex difference in the incidence of hepatocellular carcinoma in the United States. Oncotarget; 8(40): 68131 - 68137. 8. Choi JY et al. (2013). Diagnostic value of AFP- L3 and PIVKA-II in hepatocellular carcinoma according to total-AFP. World J Gastroenterol; 19(3):339 - 46.
File đính kèm:
xet_nghiem_afp_afp_l3_va_pivka_ii_huyet_thanh_o_benh_nhan_un.pdf

