Xét nghiệm AFP, AFP - L3 và PIVKA - II huyết thanh ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan tại Bệnh viện Bạch Mai

Mục tiêu: Định lượng các chỉ số AFP, AFP - L3 và PIVKA - II huyết thanh của bệnh nhân ung thư biểu mô

tế bào gan.

Đối tượng và phương pháp: Tiến hành phân tích trên máy TasWako - i30 các chỉ số AFP, AFP-L3 và

PIVKA-II trên1931 mẫu huyết thanh của bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan tại bệnh viện Bạch Mai từ năm

2016 đến tháng 3 năm 2019.

Kết quả: Số lượng bệnh nhân nam chiếm đa số, tỷ lệ bệnh nhân có độ tuổi cao mắc HCC cao hơn, trong

đó nhóm bệnh nhân > 60 tuổi chiếm số lượng lớn nhất ở cả 2 giới (48,9% ở nam và 43,2% ở nữ). Chỉ số trung

bình của AFP ở bệnh nhân HCC là 13139, 14ng/mL, của % AFP-L3 là 29,38% và PIVKA-II là 27728,1mAU/mL;

đều cao hơn ngưỡng cut-off value (10, 10, 40). Số bệnh nhân HCC có giá trị AFP và PIVKA-II cao hơn cut-off

value chiếm 54,4% và 56,2%. Số bệnh nhân có cả 3 chỉ số vượt ngưỡng cut-off chiếm 27,6%. Số bệnh nhân

cả 3 chỉ số đều dưới ngưỡng cut-off là 28%.

pdf 6 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Xét nghiệm AFP, AFP - L3 và PIVKA - II huyết thanh ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan tại Bệnh viện Bạch Mai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Xét nghiệm AFP, AFP - L3 và PIVKA - II huyết thanh ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan tại Bệnh viện Bạch Mai

Xét nghiệm AFP, AFP - L3 và PIVKA - II huyết thanh ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan tại Bệnh viện Bạch Mai
TIÊU HÓA 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
301 
XÉT NGHIỆM AFP, AFP-L3 VÀ PIVKA-II HUYẾT THANH 
Ở BỆNH NHÂN UNG THƯ BIỂU MÔ TẾ BÀO GAN 
TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI 
PHẠM CẨM PHƯƠNG1, MAI TRỌNG KHOA2, TRẦN ĐÌNH HÀ3, NGUYỄN THUẬN LỢI4, 
NGUYỄN VIỆT5, VÕ THỊ THÚY QUỲNH6, NGUYỄN HẢI LONG6 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Định lượng các chỉ số AFP, AFP - L3 và PIVKA - II huyết thanh của bệnh nhân ung thư biểu mô 
tế bào gan. 
Đối tượng và phương pháp: Tiến hành phân tích trên máy TasWako - i30 các chỉ số AFP, AFP-L3 và 
PIVKA-II trên1931 mẫu huyết thanh của bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan tại bệnh viện Bạch Mai từ nĕm 
2016 đến tháng 3 nĕm 2019. 
Kết quả: Số lượng bệnh nhân nam chiếm đa số, tỷ lệ bệnh nhân có độ tuổi cao mắc HCC cao hơn, trong 
đó nhóm bệnh nhân > 60 tuổi chiếm số lượng lớn nhất ở cả 2 giới (48,9% ở nam và 43,2% ở nữ). Chỉ số trung 
bình của AFP ở bệnh nhân HCC là 13139, 14ng/mL, của % AFP-L3 là 29,38% và PIVKA-II là 27728,1mAU/mL; 
đều cao hơn ngưỡng cut-off value (10, 10, 40). Số bệnh nhân HCC có giá trị AFP và PIVKA-II cao hơn cut-off 
value chiếm 54,4% và 56,2%. Số bệnh nhân có cả 3 chỉ số vượt ngưỡng cut-off chiếm 27,6%. Số bệnh nhân 
cả 3 chỉ số đều dưới ngưỡng cut-off là 28%. 
Kết luận: Số lượng bệnh nhân HCC phân hóa theo giới tính và độ tuổi. Số bệnh nhân trong nghiên cứu có 
các giá trị vượt quá ngưỡng cut-off chiếm số lượng lớn nhưng vẫn còn một nhóm bệnh nhân HCC có cả 3 giả 
trị đều nằm dưới ngưỡng cut - off. 
ABSTRACT 
Quantative test of AFP, AFP-l3 and PIVKA-II for hepatocellular carcinoma patients at Bach Mai Hospital 
Objective: Quantitative test of AFP, AFP-L3 and PIVKA-II for hepatocellular carcinoma patients. 
Objects and method: Conduct analysis using TasWako-i30 on 1931 serum samples from hepatocelullar 
carcinoma patients from 2016 to March 2019. 
Results: Among the patients, male patients were the majority; older patients are more likely to be 
diagnosed with HCC, the percentage of patients >60 year-old was the highest amon both genders (48,9% in 
male and 43,2% in female). Themean value of AFP was 13139.14ng/mL, of % AFP-L3 was 29.38% and 
PIVKA-II was 27728.1mAU/mL; each of these means was higher than the respective cut-off values (10, 10, 40). 
The number of patients who possess AFP và PIVKA-II values higher than the cut-off values was 54.4% and 
56.2%. Percentage of patients with 3 values higher than cut-off values was 27.6%. Percentage of patients with 
3 values lower than cut-off values was 28%. 
Conclusion: Age and gender are the factors that affect the number of HCC patients. The number of 
patients with values exceed cut-off values was high but there was still a large number HCC of patients with 
values lower than cut-off values. 
1
 PGS.TS. Giám đốc Trung tâm Y học Hạt nhân và Ung Bướu, Bệnh viện Bạch Mai 
2
 GS. TS. Đơn vị gen - Tế bào gốc, Trung tâm Y học hạt nhân và Ung Bướu, Bệnh viện Bạch Mai 
3
 PGS.TS. Đơn vị gen - Tế bào gốc, Trung tâm Y học hạt nhân và Ung Bướu, Bệnh viện Bạch Mai 
4
 TS. Đơn vị gen - Tế bào gốc, Trung tâm Y học hạt nhân và Ung Bướu, Bệnh viện Bạch Mai 
5
 ThS. Đơn vị gen - Tế bào gốc, Trung tâm Y học hạt nhân và Ung Bướu, Bệnh viện Bạch Mai 
6
 CN. Đơn vị gen - Tế bào gốc, Trung tâm Y học hạt nhân và Ung Bướu, Bệnh viện Bạch Mai 
TIÊU HÓA 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
302 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Ung thư biểu mô tế bào gan (Hepatocellular 
carcinoma - HCC) là loại bệnh lý ác tính có tỷ lệ mắc 
khá cao trong các loại ung thư. Theo GLOBOCAN 
2018, trên toàn thế giới, ung thư gan đứng thứ 6 
trong số các loại ung thư hay gặp nhất, với 841080 
ca mới (4,7%) và đứng thứ 4 về tỷ lệ tử vong, với 
781631 ca (8,2%). Tại Việt Nam, ung thư gan là loại 
ung thư thường gặp nhất, tổng số ca mới là 25335, 
chiếm 15,4% tổng số ca nhiễm ung thư mới. Ở nam 
giới, ung thư gan cũng đứng đầu về số ca: 19568 ca 
(21,5%) còn ở nữ giới, ung thư gan đứng thứ 5, 
chiếm 7,8% (5767 ca). 
Rất nhiều trường hợp ung thư gan không có 
nguyên nhân rõ ràng. Nhưng trong các nguyên nhân 
đã được xác định, phần lớn là viêm gan B, viêm gan 
C và xơ gan do rượu. Tỷ lệ sống sót sau 5 nĕm của 
ung thư gan dao động từ 10-14% ở bệnh nhân có 
kèm theo xơ gan. Ở bệnh nhân không có xơ gan hay 
các vấn đề sức khỏe khác, tỷ lệ sống sau 5 nĕm là 
trên 50%. Nếu bệnh nhân được phát hiện sớm và 
được cấy ghép gan, con số này có thể lên tới 
60-70%. Do vậy, việc chẩn đoán và phát hiện sớm 
HCC là rất quan trọng. Có nhiều phương pháp đã 
được sử dụng trong chẩn đoán ung thư gan hiện 
nay như chụp CT, chụp cộng hưởng từ, xét nghiệm 
AFP nhưng độ đặc hiệu của các phương pháp này 
vẫn chưa cao. Trên thế giới, đặc biệt tại Nhật Bản, 
xét nghiệm bộ 3 dấu ấn ung thư AFP, AFP - L3 và 
PIVKA-II có ý nghĩa lớn trong sàng lọc phát hiện 
sớm, chẩn đoán; có độ đặc hiệu cao; có khả nĕng 
hỗ trợ đánh giá, theo dõi hiệu quả điều trị. 
AFP (Alpha-fetoprotein) là 1 protein bào thai. 
Ở bào thai, AFP có nồng độ rất cao và nhanh chóng 
giảm xuống 10ng/mL trong vòng 300 ngày sau khi 
sinh. Ở bệnh nhân viêm gan mãn tính nồng độ AFP 
có thể tĕng lên đến 20% và ở bệnh nhân xơ gan 
có thể tĕng lên tới 40%. Bệnh nhân HCC có thể 
có nồng độ AFP dao động từ ngưỡng bình thường 
cho đến >100000 ng/mL(1). AFP có 3 dạng khác 
nhau: AFP-L1, AFP-L2 và AFP-L3. AFP-L3 là dạng 
chủ yếu trong huyết thanh của bệnh nhân HCC. 35% 
số bệnh nhân HCC có khối u nhỏ hơn 2cm được 
chẩn đoán dương tính với AFP-L3(2). Có thể chỉ ra 
tình trạng ung thư gan sớm ở bệnh nhân có chỉ số 
AFP-L3 lớn hơn 10%, đôi khi còn sớm hơn cả sử 
dụng phương pháp chẩn đoán hình ảnh.PIVKA-II 
hay còn gọi là des-gamma-carboxy prothrombin 
(DCP) là prothrombin bất thường do thiếu hụt nhóm 
carboxy ở vị trí gamma trong 10 phân tử glutamic 
acid nằm ở phía đầu amin của prothrombin, nó làm 
giảm khả nĕng gắn kết với ion Ca2+ của prothrombin, 
và đảo lộn quá trình đông máu bình thường. Chỉ số 
PIVKA có tính đặc hiệu cao trong chẩn đoán ung thư 
biểu mô tế bào gan(3). Chỉ số PIVKA có xu hướng 
cao hơn ở bệnh nhân giai đoạn muộn. Ngoài ra ở 
những bệnh nhân có hiện tượng tái phát HCC sau 
điều trị, chỉ số này cao hơn so với những bệnh có 
chiều hướng thuyên giảm bệnh(4). 
Theo khuyến cáo của Hội gan học Nhật Bản 
(Japan Society of Hepatology-JSH) bổ sung ban 
hành nĕm 2015, cần tầm soát định kỳ cho bệnh 
nhân nguy cơ mắc HCC. Bên cạnh siêu âm, hiệp hội 
này cũng khuyến cáo làm bộ ba xét nghiệm AFP, 
AFP-L3 và PIVKA-II huyết thanh. Khoảng cách giữa 
các lần tầm soát cũng thay đổi tùy theo các nhóm 
nguy cơ. Cụ thể, bệnh nhân nhóm nguy cơ rất cao 
như xơ gan, nên siêu âm và xét nghiệm bộ ba này 
mỗi 3 - 4 tháng. Có thể kết hợp thêm chụp CT hoặc 
MRI mỗi 6 - 12 tháng. Nhóm nguy cơ cao như viêm 
gan B hoặc C, nên siêu âm và xét nghiệm AFP, 
AFP-L3 và PIVKA-II huyết thanh mỗi 6 tháng(5). 
Tại bệnh viện Bạch Mai, Đơn vị Gen trị liệu đã 
tiến hành triển khai thường quy xét nghiệm trên mẫu 
huyết thanh cho bệnh nhân HCC và những người 
nguy cơ cao mắc HCC. Bên cạnh đó, việc xét 
nghiệm trên 3 chỉ số này cũng đem lại ý nghĩa lớn 
cho việc theo dõi, đánh giá hiệu quả điều trị của 
bệnh nhân HCC. 
Chúng tôi làm nghiên cứu này với mục đích 
định lượng các chỉ số AFP, AFP-L3 và PIVKA-II 
huyết thanh của bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào 
gan, mô tả mối tương quan chỉ số cận lâm sàng với 
kết quả xét nghiệm. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
1931 mẫu máu của bệnh nhân HCC đã được 
thực hiện xét nghiệm bộ 3 AFP, AFP-L3 và PIVKA-II 
từ nĕm 2016 đến tháng 3 nĕm 2019 đã được lựa 
chọn để nghiên cứu. Phương pháp xét nghiệm AFP, 
AFP-L3 và PIVKA-II: Xét nghiệm trên máy TasWako-
i30 dựa trên kỹ thuật điện di mao dẫn trên vi chíp 
(microfluidic) do công ty Wako Pure Chemical 
Industries - Nhật Bản.Quy trình thực hiện của 
kỹ thuật bao gồm các bước sau: 
TIÊU HÓA 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
303 
Hình 1. Quy trình xét nghiệm 3 chỉ số AFP, AFP-L3 và PIVKA-II 
Nghiên cứu được tiến hành theo phương 
nghiên cứu mô tả cắt ngang. Điện di mao quản thực 
hiện tự động trên máy TasWako-i30. Dưới tác dụng 
của điện trường, các phân tử AFP, AFP-L3 và 
PIVKA-II di chuyển với tốc độ khác nhau trong mao 
quản. Các phân tử này sẽ được nhận biết và định 
lượng bằng đầu dò huỳnh quang đặt ở cuối mao 
quản. Kết quả sẽ được ghi lại và thông báo trên màn 
hình của máy. 
Các thông số nghiên cứu bao gồm: Tuổi, giới, 
chẩn đoán xác định, HBsAg, Anti-HCV, giá trị AFP, 
AFP-L3 và PIVKA-II. 
KẾT QUẢ 
Bảng 1. Độ tuổi và giới tính bệnh nhân 
Tuổi Nam Nữ 
< 30 11 (0,6%) 10 (3,5%) 
30 - 40 77 (4,7%) 22 (7,7%) 
41 - 50 210 (12,8%) 31 (10,8%) 
51 - 60 543 (33%) 100 (34,8%) 
>60 803 (48,9%) 124 (43,2%) 
Tổng 1644 (100%) 287 (100%) 
Nhận xét: Độ tuổi trung bình của nhóm là 59,3 
Trong đó bệnh nhân trẻ tuổi nhất trong nhóm bệnh 
nhân nam là 22 tuổi, lớn tuổi nhất là 87 tuổi. Ở nhóm 
bệnh nhân nữ, trẻ tuổi nhất là 22 và lớn tuổi nhất là 
90 tuổi. Phần lớn bệnh nhân là nam giới: nam giới 
chiếm 85,1% và nữ giới chiếm 14,9%. Số lượng 
bệnh nhân HCC tĕng tỷ lệ thuận với độ tuổi và 
tương đồng ở cả hai giới. Nhóm bệnh nhân trên 60 
tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất (48,9% ở nam giới và 43,2% 
ở nữ giới). 
Bảng 2. Kết quả xét nghiệm viêm gan B, viêm gan C 
Tình trạng viêm gan Số bệnh nhân Tỷ lệ (%) 
HBsAg dương tính 291 15,1 
Anti-HCV dương tính 16 0,8 
Không xác định 1624 84,1 
Nhận xét: Phần lớn bệnh nhân HCC đều chưa 
xác định được có nhiễm viêm gan B và C hay không, 
có thể do các yếu tố khác. Bệnh nhân viêm gan B 
thường thấy hơn so với viêm gan C. Bệnh nhân 
viêm gan B chiếm 15,1% tổng số bệnh nhân (291 
bệnh nhân), bệnh nhân viêm gan C chỉ chiếm 0,8% 
tổng số bệnh nhân (16 bệnh nhân). Số bệnh nhân 
không nhiễm viêm gan hoặc chưa rõ tình trạng 
chiếm 84,1% tổng số bệnh nhân (1624 bệnh nhân). 
Bảng 3. Giá trị nồng độ AFP, AFP-L3 và PIVKA 
Các chỉ số Giá trị trung bình Khoảng dao động 
AFP (ng/mL) 13139,14 0,3 - 379753 
% AFP-L3 (%) 29,38 0,5 - 99,5 
PIVKA-II mAU/mL) 27728,1 3,1 - 2166578 
Nhận xét: Cả 3 chỉ số AFP, AFP-L3 và PIVKA-II 
của các bệnh nhân HCC đều có giá trị trung bình 
cao hơn ngưỡng cut-off. AFP: 13139, 14ng/mL 
>10ng/mL; % AFP-L3: 29,38% >10%; PIVKA II: 
27728 mAU/mL >40mAU/mL. 
TIÊU HÓA 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
304 
Bảng 4. Phân bố nồng độ AFP 
Nồng độ AFP Số bệnh nhân Tỷ lệ (%) 
< 10 881 45,6 
10 - 100 486 25,2 
1001 - 1000 280 14,5 
10001 - 100000 227 11,8 
>100000 57 3 
Nhận xét: Số bệnh nhân có giá trị AFP 
>10ng/mL chiếm 54,4% tổng số bệnh nhân HCC, 
trong khi đó số bệnh có giá trị dưới ngưỡng cut-off 
chỉ chiếm 45,6% tổng số bệnh nhân. 
Bảng 5. Phân bố tỷ lệ AFP - L3 
Tỷ lệ AFP - L3 Số bệnh nhân Tỷ lệ (%) 
< 0,5 762 39,5 
0,5 - 10 411 21,3 
>10 758 39,3 
Nhận xét: Giá trị %AFP xuất hiện nhiều nhất là 
10% 
chiếm 39,3% tổng số bệnh nhân. 
Bảng 6. Phân bố nồng độ PIVKA II 
Nồng độ PIVKA II Số bệnh nhân Tỷ lệ (%) 
< 40 845 43,8 
40 - 1000 586 30,3 
1001 - 10000 259 13,4 
10001 - 100000 188 9,7 
>100000 53 2,7 
Nhận xét: Số bệnh nhân có giá trị PIVKA-II dưới 
ngưỡng cut-off là 845 bệnh nhân, chiếm 43,8% tổng 
số bệnh nhân. Bệnh nhân có chỉ số PIVKA-II 
>40mAU/mL chiếm 56,2% tổng số bệnh nhân 
(1086 bệnh nhân). 
Hình 2. Tỷ lệ phần trĕm bệnh nhân có chỉ số vượt quá ngưỡng cut-off 
Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân chỉ có 1 chỉ số AFP, AFP-L3 hoặc PIVKA-II vượt quá ngưỡng cut-off lần lượt là 
7,4%, 2,4%, 11,9%, 5,9% số bệnh nhân có 2 chỉ số AFP và AFP-L3 cùng cao, 13,5% bệnh nhân có 2 chỉ số 
AFP và PIVKA cùng cao, 3,4% bệnh nhân có AFP-L3 và PIVKA cao. 27,6% bệnh nhân có cả 3 chỉ số đều vượt 
quá ngưỡng cut-off, 28% số bệnh nhân có cả 3 chỉ số dưới ngưỡng cut-off. 
7,4% 
3,4% 
27,6% 
5,9% 13,5% 
2,4% 11,9% 
28% dưới ngưỡng cut-of 
TIÊU HÓA 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
305 
BÀN LUẬN 
Ở những bệnh nhân có chỉ số AFP tĕng cao do 
HCC hay do nguyên nhân khác nên được chỉ định 
xét nghiệm định kỳ để theo dõi diễn biến của bệnh, 
đáp ứng đối với điều trị và theo dõi tái phát, di cĕn 
sau điều trị. Hiện tại, xét nghiệm định lượng AFP để 
hỗ trợ chẩn đoán HCC đã được thực hiện thường 
quy tại các bệnh viện trên thế giới cũng như ở 
Việt Nam. Trong thực tế, bên cạnh giải phẫu bệnh là 
tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán xác định HCC, để kết 
luận một trường hợp bệnh nhân HCC chúng ta vẫn 
phải sử dụng kết quả xét nghiệm AFP kết hợp với 
siêu âm hoặc hình ảnh. 
Xét nghiệm AFP đặc biệt có giá trị khi khi dấu 
ấn này được kết hợp với 2 dấu ấn khác là AFP-L3 
và PIVKA-II. Chưa thể khẳng định rằng bệnh nhân bị 
ung thư biểu mô tế bào gan khi chỉ số AFP tĕng vì 
xơ gan, viêm gan, có thai và một số loại ung thư 
khác cũng có thể khiến cho chỉ số AFP tĕng. 
Ngược lại, bệnh nhân vẫn có thể mắc HCC và có 
AFP bình thường. Ngoài ra, 2 chỉ số % AFP-L3 và 
PIVKA-II cũng có sự liên quan chặt chẽ đến quá 
trình diễn tiến của HCC. Do vậy, việc xét nghiệm cả 
3 chỉ số đem lại ý nghĩa lớn trong sàng lọc, chẩn 
đoán, đánh giá đáp ứng điều trị và và theo dõi tái 
phát bệnh ung thư biểu mô tế bào gan. 
Ở Nhật Bản, việc kết hợp bộ 3 chỉ số AFP, 
AFP-L3 và PIVKA-II trong chẩn đoán sớm HCC đã 
nâng cao tỷ lệ điều trị thành công HCC (thời gian 
sống toàn bộ 5 nĕm) cho rất nhiều bệnh nhân. 
Theo Yukio Osaki và Hiroki Nishikawa, tính từ nĕm 
1981 đến 2013 tỷ lệ chẩn đoán sớm HCC (giai đoạn 
I, II) đã tĕng rõ rệt từ 34,1% tĕng lên đến hơn 60%. 
Cùng với đó tỷ lệ điều trị HCC thành công đã tĕng 
đến gần 40%(6). Tại Mỹ, theo một nghiên cứu nĕm 
2011 của El-Serag HB, tỷ lệ chữa khỏi bệnh HCC 
thấp hơn chỉ 12%(7). Sự khác biệt này phần lớn là do 
Nhật Bản áp dụng kết hợp 3 chỉ số AFP, AFP - L3 và 
PIVKA-II trong việc chẩn đoán sớm và theo dõi điều 
trị HCC. 
Trong số 1931 bệnh nhân, số bệnh nhân nam 
chiếm 85% (1644 bệnh nhân) và bệnh nhân nữ 
chiếm 14,9% tổng số bệnh nhân (287 bệnh 
nhân).Nam giới thường tiếp xúc với rượu bia nhiều 
hơn nữ giới. Trong số các bệnh nhân làm xét 
nghiệm, nhóm bệnh nhân ngoài độ tuổi lao động 
(>60 tuổi) chiếm số lượng lớn nhất. Điều này cho 
thấy bệnh nhân càng lớn tuổi càng có khả nĕng mắc 
HCC cao. Nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ như trên rất có 
thể do những bệnh nhân này đã trải qua quá trình 
sinh hoạt và làm việc có tiếp xúc với các yếu tố gây 
ung thư trong một khoảng thời gian dài hơn các 
bệnh nhân trẻ tuổi. Ngoài ra, những bệnh nhân lớn 
tuổi có thể đã mắc viêm gan hoặc xơ gan từ trước, 
những bệnh lý này tiến triển nặng thêm và dẫn tới 
ung thư gan.Nghiên cứu về sự khác biệt về giới và 
độ tuổi trong quần thể bệnh nhân HCC ở Mỹ của 
Pian Liu vào nĕm 2017 cũng cho kết quả tương tự(8). 
Trong tổng số các bệnh nhân HCC làm xét 
nghiệm, mới chỉ xác định được 291 bệnh nhân viêm 
gan B (15,1%) và 16 bệnh nhân nhiễm viêm gan C 
(0.8%). Còn một lượng lớn bệnh nhân chưa rõ tình 
trạng viêm gan hoặc mắc HCC do các yếu tố khác 
(1308 bệnh nhân - 84,1%). Như vậy, chưa thể thiết 
lập được mối liên hệ giữa tình trạng dương tính 
viêm gan virus B và C với tình trạng ung thư của 
bệnh nhân. 
Chỉ số của cả 3 dấu ấn sinh học AFP, AFP-L3 
và PIVKA-II đều có ngưỡng dao động rất lớn. Ngoài 
tỷ lệ bệnh nhân có chỉ số % AFP-L3 cao (>10%) 
chỉ đạt 39,3%, số bệnh nhân có chỉ số AFP và 
PIVKA-II cao hơn ngưỡng cut-off value đều chiếm 
đa số (54,4% và 56,2%). Nghiên cứu của Choi JY về 
giá trị chẩn đoán của AFP và PIVKA-II trên bệnh 
nhân HCC cho kết quả tương tự(9). Tuy nhiên trong 
nghiên cứu này ngưỡng cut-off value của AFP là 
>20ng/mL. Kết quả nghiên cứu của Choi JY cho thấy 
tỷ lệ bệnh nhân có giá trị AFP < 20ng/mL là 42,2%, 
từ 20 đến 200ng/mL là 22,2% và bệnh nhân có giá 
trị AFP >200ng/mL chiếm 35,6% tổng số bệnh nhân. 
Ngưỡng cut-off value của chỉ số PIVKA-II ở nghiên 
cứu này cũng lấy giả trị >40mAU/mL. 
KẾT LUẬN 
Trong 1931 bệnh nhân làm xét nghiệm bộ 3 dấu 
ấn sinh học AFP, AFP-L3 và PIVKA-II, nam giới 
chiếm đa số (nam giới chiếm 85,1% và nữ giới 
chiếm 14,9%) tỷ lệ bệnh nhân HCC cao tuổi lớn hơn 
bệnh nhân trẻ tuổi. Giá trị trung bình của AFP là 
13139,14ng/mL, của % AFP-L3 là 29,38%, của 
PIVKA-II là 27728,1 mAU/mL, đều cao hơn ngưỡng 
cut-off. Số bệnh nhân HCC có chỉ số cao hơn 
ngưỡng cut-off chiếm đa số, trong đó có 533 bệnh 
nhân có 3 chỉ số vượt mức cut-off value và 541 bệnh 
nhân có cả 3 chỉ số thấp hơn mức cut-off value. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Eldad S. Bialecki and Adrian M. Di Bisceglie. 
(2005). Diagnosis of hepatocellular carcinoma. 
HPB (Oxford); 7(1): 26 - 34. 
1. Taketa K et al. (1993). A collaborative study for 
the evaluation of lectin-reactive alpha-
fetoproteins in early detection of hepatocellular 
carcinoma. Cancer Res; 53(22):5419 - 23. 
2. Liebman HA, Furie BC, Tong MJ et al. (1984) 
Des-gamma-carboxy (abnomal) prothrombin as 
a serum marker of primary hepatocellular 
carcinoma. N Engl J Med; 310:1427 - 1431. 
TIÊU HÓA 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
306 
3. Rentao Yu et al. (2017). Effectiveness of PIVKA-
II in the detection of hepatocellular carcinoma 
based on real-world clinical data. BMC Cancer; 
17: 608. 
4. Kokudo N, Hasegawa K, Akahane M et al. 
(2015) Evidence-based Clinical Practice 
Guidelines for Hepatocellular Carcinoma: The 
Japan Society of Hepatology 2013 update 
(3rd JSH - HCC Guidelines). Hepatol Res; 45. 
5. Yukio Osaki and Hiroki Nishikawa (2015). 
Treatment for hepatocellular carcinoma in Japan 
over the last three decades: Our experience and 
published work review. Hepatol Res; 45(1): 
59 - 74. 
6. El-Serag HB (2011). Hepatocellular carcinoma. 
N Engl J Med; 365:1118 - 1127. 
7. Pian Liu. (2017). Age-specific sex difference in 
the incidence of hepatocellular carcinoma in the 
United States. Oncotarget; 8(40): 68131 - 68137. 
8. Choi JY et al. (2013). Diagnostic value of AFP-
L3 and PIVKA-II in hepatocellular carcinoma 
according to total-AFP. World J Gastroenterol; 
19(3):339 - 46. 

File đính kèm:

  • pdfxet_nghiem_afp_afp_l3_va_pivka_ii_huyet_thanh_o_benh_nhan_un.pdf