Xét nghiệm ADN HPV và test Hybrid Capture 2 trong sàng lọc ung thư cổ tử cung
Tóm tắt
Mặc dù vaccin phòng nhiễm HPV đã và đang được đưa vào sử dụng với độ che phủ tăng dần,
dự phòng ung thư cổ tử cung vẫn đòi hỏi công tác sàng lọc được thực hiện thường xuyên và
rộng khắp. Dựa trên cơ sở các hiểu biết về sinh học phân tử và proteomic của HPV, các test phát
hiện HPV đã được phát triển, đặc biệt các test phát hiện ADN HPV nguy cơ cao đã được ứng
dụng rộng rãi trên thế giới và được chứng minh có giá trị trong dự phòng ung thư cổ tử cung.
Các kỹ thuật phân tử phát hiện ADN HPV có thể được chia thành hai nhóm: có khuếch đại và
không khuếch đại. Test dùng trong nghiên cứu lâm sàng và ứng dụng lâm sàng thường là test
khuếch đại, còn được chia thành 2 nhóm nhỏ là khuếch đại tín hiệu và khuếch đại chính bộ gen
của HPV. Hai test đại biểu cho nhóm test khuếch đại là Hybrid Capture 2 (HC2, Qiagen, USA)
và Polymerase Chain Reaction (PCR).
Hybrid Capture 2 sử dụng phản ứng lai DNA đi kèm với khuếch đại tín hiệu là test được Cơ
quan quản lý thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) và Cộng đồng châu Âu cấp phép lưu hành và
sử dụng rộng rãi trên thế giới. HC2 sử dụng mồi ARN để phát hiện nhiễm bất kỳ týp nào trong
số 13 týp HPV nguy cơ cao (16, 18, 31, 33, 35, 39, 45, 51, 52, 56, 58, 59 và 68).
Bên cạnh phương pháp kinh điển đã được sử dụng lâu nay là tế bào cổ tử cung, ứng dụng test
ADN HPV phối hợp với phương pháp soi cổ tử cung hoặc quan sát cổ tử cung với acid acetic
có thể cho phép triển khai các chiến lược tiếp cận mới với độ che phủ cao hơn và đạt được mục
đích phát hiện – chẩn đoán – điều trị một cách hữu hiệu hơn.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Xét nghiệm ADN HPV và test Hybrid Capture 2 trong sàng lọc ung thư cổ tử cung
11 TỔNG QUAN Y VĂN Xét nghiệm ADN HPV và test Hybrid Capture 2 trong sàng lọc ung thư cổ tử cung Nguyễn Vũ Quốc Huy* * PGS. TS. BS. Giảng viên chính Bộ môn Phụ Sản, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Y Dược Huế. Email: nvqhuy@huemed-univ.edu.vn; nguyenhuy99@gmail.com Tóm tắt Mặc dù vaccin phòng nhiễm HPV đã và đang được đưa vào sử dụng với độ che phủ tăng dần, dự phòng ung thư cổ tử cung vẫn đòi hỏi công tác sàng lọc được thực hiện thường xuyên và rộng khắp. Dựa trên cơ sở các hiểu biết về sinh học phân tử và proteomic của HPV, các test phát hiện HPV đã được phát triển, đặc biệt các test phát hiện ADN HPV nguy cơ cao đã được ứng dụng rộng rãi trên thế giới và được chứng minh có giá trị trong dự phòng ung thư cổ tử cung. Các kỹ thuật phân tử phát hiện ADN HPV có thể được chia thành hai nhóm: có khuếch đại và không khuếch đại. Test dùng trong nghiên cứu lâm sàng và ứng dụng lâm sàng thường là test khuếch đại, còn được chia thành 2 nhóm nhỏ là khuếch đại tín hiệu và khuếch đại chính bộ gen của HPV. Hai test đại biểu cho nhóm test khuếch đại là Hybrid Capture 2 (HC2, Qiagen, USA) và Polymerase Chain Reaction (PCR). Hybrid Capture 2 sử dụng phản ứng lai DNA đi kèm với khuếch đại tín hiệu là test được Cơ quan quản lý thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) và Cộng đồng châu Âu cấp phép lưu hành và sử dụng rộng rãi trên thế giới. HC2 sử dụng mồi ARN để phát hiện nhiễm bất kỳ týp nào trong số 13 týp HPV nguy cơ cao (16, 18, 31, 33, 35, 39, 45, 51, 52, 56, 58, 59 và 68). Bên cạnh phương pháp kinh điển đã được sử dụng lâu nay là tế bào cổ tử cung, ứng dụng test ADN HPV phối hợp với phương pháp soi cổ tử cung hoặc quan sát cổ tử cung với acid acetic có thể cho phép triển khai các chiến lược tiếp cận mới với độ che phủ cao hơn và đạt được mục đích phát hiện – chẩn đoán – điều trị một cách hữu hiệu hơn. Từ khóa: HPV, Hybrid Capture 2, sàng lọc ung thư cổ tử cung. Mở đầu Điều kiện tiên quyết để hình thành tổn thương tiền ung thư và ung thư cổ tử cung (UTCTC) đã được khẳng định là nhiễm HPV nguy cơ cao. Nhiễm HPV mạn tính là giai đoạn trung gian trên con đường phát triển ung thư xâm lấn cổ tử cung. Đây là tình huống duy nhất trong lĩnh vực ung thư học, chưa có một ung thư nào ở người có được một mối quan hệ chặt chẽ với virus như vậy. So sánh với các yếu tố nguy cơ khác đã biết trong các ung thư ở người như hút thuốc lá (ung thư phổi), nhiễm virus viêm gan B (HBV) (ung thư gan), nguy cơ do HPV gây ra cao hơn nhiều. Nguy cơ tương đối của ung thư phổi do hút thuốc lá vào khoảng 10 lần, nhiễm HBV và ung thư gan khoảng 50 lần nhưng lên đến khoảng 300–500 lần giữa nhiễm HPV và ung thư cổ tử cung. Mối liên hệ chặt chẽ giữa nhiễm HPV và UTCTC đã dẫn đến hai dạng dự phòng: (1) sàng lọc nhiễm HPV như là một dấu chỉ điểm của tổn thương tiền UTCTC (CIN), (2) chủng vaccin HPV để dự phòng sự hình thành các tổn thương này.1 12 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 15, Số 1, Tháng 01 – 2015 Đặc điểm sinh học phân tử và miễn dịch học của HPV Đặc điểm sinh học phân tử Papillomavirus là các virus ADN, hình cầu, không có vỏ, đường kính 52–55 nm. Tiểu thể virus gồm một phân tử ADN chuỗi kép có khoảng 8000 cặp base (base-pairs - bp) gắn kết với histon và nằm trong một capsid protein. Capsid được tạo thành từ hai protein cấu trúc —L1 (55 kDa; chiếm 80% tổng protein của virus) và L2 (70 kDa), cả hai được mã hóa bởi các gen của virus. Có thể sản xuất các tiểu thể giống virus (virus-like particles - VLPs) bằng cách tạo ra L1 đơn thuần hoặc phối hợp với L2. Bộ gen của tất cả các týp HPV đều chứa 8 khung đọc mở (ORF). ORF có thể được chia thành 3 vùng chức năng: vùng giải mã sớm (E) mã hóa các protein E1–E7 cần cho sự nhân lên của virus; vùng giải mã muộn (L) mã hóa các protein cấu trúc (L1–L2) cần thiết cho sự tổ hợp hạt virion và một phần không mã hóa, được gọi là vùng kiểm soát dài (LCR), chứa các yếu tố cần thiết cho sự nhân lên và chuyển mã của ADN virus. Protein E1 và E2 của HPV có chức năng yếu tố nhận dạng nguồn gốc của sự nhân lên; E2 cũng là yếu tố điều hòa chính của hoạt động chuyển mã gen. E4 lại tham gia vào giai đoạn muộn hơn trong chu trình cuộc đời của virus, E5 có vai trò trong cả hai giai đoạn sớm và muộn. Các protein E6 và E7 tác động đến một loạt các yếu tố điều hòa âm tính của chu trình tế bào, đặc biệt lên p105Rb và p53. Trong chu kỳ cuộc đời của virus, E6 và E7 đảm bảo cho việc duy trì sự ổn định của cấu trúc và kích thích các tế bào đang biệt hóa vào lại pha S. Các protein L1 và L2 tổ hợp để tạo thành capsid bao quanh bộ gen trong giai đoạn hình thành hạt virus. Trong các trường hợp nhiễm trùng tồn tại dai dẳng do HPV nguy cơ cao, ADN HPV có thể tích hợp vào bộ gen tế bào vật chủ, dẫn đến sự cắt bỏ các gen không cần thiết, có tác dụng điều hòa của virus như gen E2, E4, E5, L1 và L2. Do E2 mã hóa protein ức chế chuyển mã của E6 và E7, E2 mất đi làm cho E6 và E7 trở thành các protein được giải mã chính trong tế bào bị nhiễm. Các protein E6 và E7 làm bất hoạt các gen ức chế khối u p53 và retinoblastoma (Rb), phá vỡ điều hòa chu trình tế bào. Từ đó tế bào bị nhiễm HPV nguy cơ cao sẽ mất ổn định bộ gen, có thể dẫn đến sự tiến triển thành ung thư. Đặc điểm miễn dịch học HPV tỏ ra rất hữu hiệu trong việc thoát khỏi hệ thống miễn dịch của vật chủ, do nó không lưu hành trong máu, không gây chết tế bào hay nhiễm hệ thống. Virus nhiễm vào các tế bào đáy, sẽ trưởng thành thành tế bào biểu mô và sau đó diễn ra hiện tượng chết tế bào được lập chương trình. Các virus mới được giải phóng ngay thời điểm chết tự nhiên của tế bào, do đó hệ thống miễn dịch không ghi nhận sự kiện vừa diễn ra như một dấu hiệu nguy hiểm. Kết quả là đáp ứng miễn dịch tại chỗ sẽ không được khởi động. Mặc dù vậy đa số trường hợp nhiễm HPV sẽ được thải trừ một cách tự nhiên. Cơ chế của hiện tượng này chưa được hiểu tường tận, nhưng người ta cho rằng miễn dịch qua trung gian tế bào bẩm sinh đóng một vai trò ban đầu, sau đó là đáp ứng kháng thể. Một thời gian sau nhiễm Bảng 1. Các týp HPV sinh dục và nguy cơ sinh ung thư Nguy cơ thấp 6, 11, 40, 42-44, 53-55, 66 Nguy cơ cao 16, 18, 31, 33, 45, 26, 35, 51-52, 56, 58, 61, 67-70 Hình 1: Bản đồ gen của HPV - 16 13 TỔNG QUAN Y VĂN tự nhiên ban đầu người ta phát hiện kháng thể trung hòa với nồng độ thấp trong huyết thanh và dịch tiết cổ tử cung-âm đạo. Tuy vậy nồng độ kháng thể sau nhiễm tự nhiên không đủ để bảo vệ ở các lần nhiễm sau.2 Dự phòng thứ cấp ung thư cổ tử cung Dự phòng thứ cấp bao gồm phát hiện các tổn thương tiền UTCTC và điều trị chúng. Các phương pháp hiện được dùng trong phát hiện các tổn thương tiền UTCTC bao gồm xét nghiệm tế bào cổ tử cung, quan sát cổ tử cung với dung dịch acid acetic hoặc dung dịch Lugol và xét nghiệm HPV. Sau khi được phát hiện, tổn thương tiền ung thư có thể được điều trị bằng các phương pháp cắt bỏ (khoét chóp bằng dao, dao điện, laser, LEEP) hoặc phá hủy (áp lạnh, hóa hơi bằng laser). Xét nghiệm ADN HPV và test Hybrid capture 2 Xét nghiệm ADN HPV Do không thể nuôi cấy virus HPV theo kiểu kinh điển và các test huyết thanh có độ nhạy rất thấp, chẩn đoán nhiễm HPV đòi hỏi phải phát hiện bộ gen của nó trong mẫu bệnh phẩm từ cổ tử cung. Bệnh phẩm có thể do cán bộ y tế hoặc do chính khách hàng/bệnh nhân tự lấy. Các kỹ thuật phân tử phát hiện ADN HPV có thể được chia thành hai nhóm: có khuếch đại và không khuếch đại. Test dùng trong nghiên cứu lâm sàng và ứng dụng lâm sàng thường là test khuếch đại, còn được chia thành 2 nhóm nhỏ là khuếch đại tín hiệu và khuếch đại chính bộ gen của HPV. Hai test đại biểu cho nhóm test khuếch đại là Hybrid Capture 2 và Polymerase Chain Reaction (PCR).4 Phản ứng PCR dựa trên nguyên lý khuếch đại đoạn ADN mục tiêu thông qua cơ chế phản ứng enzyme, sử dụng mồi dò cho một đoạn của hệ gene – thường là PGMY9/11 primers hoặc GP5+/6+ primers để khuếch đại vùng L1 của hệ gen HPV. Phản ứng PCR rất nhạy, có thể phát hiện sự hiện diện của virus ở nồng độ 10 copies, tuy nhiên cần có một số điều kiện tiên quyết để đảm bảo chất lượng, đó là ADN phải được tinh sạch, trong quá trình phản ứng không có hiện tượng ức chế emzyme và cần có chứng nội kiểm. Một số trường hợp khi bộ gen của HPV đã tích hợp vào gen tế bào vật chủ sẽ xảy ra hiện tượng mất đoạn ở vùng L1, do đó có thể dẫn đến khả năng âm tính giả. Test Hybrid Capture 2 dựa trên nguyên lý khuếch đại tín hiệu, trong đó phức hợp lai ARN-ADN được phát hiện do liên kết đồng thời với nhiều kháng thể, tín hiệu có thể được khuếch đại lên đến 3000 lần tùy thuộc vào chiều dài của đoạn mục tiêu phát hiện. Mồi dò ARN trong kỹ thuật HC2 là cho toàn hệ gene, vì vậy có thể ngăn chặn kết quả âm tính giả, đặc biệt do đột biến mất đoạn vùng L1. Test Hybrid Capture 2 Hybrid Capture 2 (HC2, Qiagen, USA) sử dụng phản ứng lai ADN đi kèm với khuếch đại tín hiệu là test được Cơ quan quản lý Bảng 2. Các phương pháp sàng lọc ung thư cổ tử cung3 Đặc điểm Tế bào học cổ điển Test HPV VIA Độ nhạy 47-62% 66-100% 67-79% Độ đặc hiệu (phát hiện tổn thương CIN2+) 60-95% 62-96% 49-86% Số lần khám cần thiết để sàng lọc và điều trị ≥ 2 ≥ 2 1 hoặc 2 14 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 15, Số 1, Tháng 01 – 2015 thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) và Cộng đồng châu Âu cấp phép lưu hành và sử dụng rộng rãi trên thế giới. HC2 sử dụng các mồi ARN để phát hiện nhiễm bất kỳ týp nào trong số 13 týp HPV nguy cơ cao (16, 18, 31, 33, 35, 39, 45, 51, 52, 56, 58, 59 và 68). Bệnh phẩm dùng để xét nghiệm HC2 có thể đến từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm mẫu lấy bằng dụng cụ DNA PAP Cervical Sampler, mẫu chứa trong dung dịch Female Swab Collection Kit, dung dịch Hologic ThinPrep System PreservCyt® hoặc dung dịch BD SurePath Preservative Fluid (chỉ dành cho HPV nguy cơ cao). Bên cạnh đó, mẫu sinh thiết cổ tử cung cũng có thể sử dụng để thực hiện HC2. Dụng cụ lấy mẫu DNA PAP Cervical Sampler dạng bàn chải có hình nón xoắn giúp thu thập được nhiều tế bào hơn cách lấy mẫu kinh điển, đồng thời các dữ liệu nghiên cứu đã cho thấy có thể dùng cụ này cho việc tự lấy mẫu. Mẫu được tối ưu hóa cho việc sàng lọc HPV, đồng thời có sẵn mẫu tế bào để cùng làm xét nghiệm tế bào học. Sau khi lấy mẫu, các công đoạn chính của kỹ thuật HC2 bao gồm làm biến tính, lai mồi, bắt giữ phức hợp lai, phát hiện phức hợp lai và tạo tín hiệu. HC2 là test có độ nhạy lâm sàng rất cao. Độ nhạy lâm sàng thể hiện chính xác khả năng của một xét nghiệm để chẩn đoán bệnh lý ở cổ tử cung, bằng cách đo lường giá trị chẩn đoán của test so với đầu ra lâm sàng cuối cùng, là tổn thương từ mức độ CIN2 trở lên ở cổ tử cung. Để đạt được độ nhạy lâm sàng cao, một test phải có giá trị ngưỡng đủ mạnh để phân biệt việc nhiễm HPV có ý nghĩa về mặt lâm sàng với một sự hiện diện ADN HPV mà không liên quan đến bệnh lý cổ tử cung trong tương lai. Dữ liệu từ 16 nghiên cứu đã công bố cho thấy độ nhạy lâm sàng trung bình của kỹ thuật PCR là 82%, HC2 có độ nhạy trong phát hiện tổn thương CIN3 hoặc ung thư xâm lấn lên đến 94% trong thời gian tích lũy 2 năm.5 Số copy ADN virus tối thiểu trong mẫu để có kết quả test HC2 (+) là 5.000 copies, đây là ngưỡng tốt hơn nhiều so với phản ứng PCR có độ nhạy phân tích ở ngưỡng 10-100 copies. Bên cạnh đó HC2 cũng có độ nhạy phân tích thấp nhất, giúp giảm thiểu tối đa nguy cơ lây nhiễm các ADN khác. HC2 cũng là test thương mại được xác nhận lâm sàng nhiều nhất trên toàn thế giới thông qua hơn 300 nghiên cứu với gần 1.000.000 phụ nữ. Giá trị của test Hybrid Capture 2 trong sàng lọc UTCTC Cuzick và cộng sự đã tổng hợp một số nghiên cứu từ châu Âu và Bắc Mỹ cho đến năm 2006 từ Bắc Mỹ và châu Âu, trong đó phụ nữ được sàng lọc thường quy bằng tế bào học và test Hình 2: Các bước cơ bản của kỹ thuật Hybrid Capture 2 15 TỔNG QUAN Y VĂN HPV được thực hiện song song.6 Test HPV có độ nhạy cao hơn đáng kể trong việc phát hiện CIN2+ so với tế bào học (96,1% so với 53,0%) nhưng kém đặc hiệu hơn (90,7% so với 96,3%). Độ nhạy của HPV là tương đương nhau trong tất cả các nghiên cứu từ các vùng khác nhau của châu Âu và Bắc Mỹ, trong khi độ nhạy của tế bào học từ các nghiên cứu này có sự khác biệt lớn. Độ nhạy của HPV cũng đồng nhất ở cả 3 độ tuowir dưới 30, 30-49 cũng như từ 50 trở lên, còn độ nhạy của tế bào học ở nhóm 50 tuổi trở lên tỏ ra tốt hơn (79,3% so với 59.6%). Độ đặc hiệu của cả hai phương phap gia tăng theeo tuổi. Các tác giả kết luận dữ liệu từ các nghiên cứu này ủng hộ cho việc sử dụng test HPV như một test sàng lọc sơ cấp đơn độc, còn tế bào học sẽ dành cho việc khảo sát tiếp tục các trường hợp có test HPV (+). Năm 2007, Mayrand và cộng sự đã so sánh 2 phương pháp xét nghiệm tế bào học và HPV trên 10.154 phụ nữ trong độ tuổi 30 – 69 từ Montreal và St. John’s, Canada được phân ngẫu nhiên vào 1 trong 2 phương pháp. Độ nhạy của test HPV cho CIN 2 hoặc 3 là 94,6% (95%CI, 84,2 - 100), trong lúc độ nhạy của tế bào chỉ là 55,4% (95% CI, 33,6 – 77,2). Độ đặc hiệu của test HPV là 94,1% (95% CI, 93,4 – 94,8) và tế bào học là 96,8% (95% CI, 96,3 – 97,3; P<0.001). Kết hợp hai test cho độ nhạy 100% và độ đặc hiệu 92,5%.7 Năm 2008, Dillner và cộng sự đã công bố nghiên cứu trên 24.295 phụ nữ được sàng lọc bằng test HPV, cho thấy nhóm HPV(-) có tần suất tích lũy CIN3+ rất thấp sau thời gian 6 năm, gợi ý rằng có thể xem xét để sàng lọc bằng test HPV mỗi 6 năm với độ an toàn và tính hữu hiệu chấp nhận được.8 Năm 2009, Sankaranarayanan và cộng sự đã công bố kết quả từ một thử nghiệm ngẫu nhiên, bắt đầu từ năm 1999 để theo dõi tác động của một lần sàng lọc bằng tế bào học, quan sát cổ tử cung với acid acetic và xét nghiệm HPV lên tần suất và tỷ lệ tử vong do UTCTC tại một Quận ở Ấn độ.9 Tổng cộng đã có 131.746 phụ nữ khỏe mạnh trong độ tuổi 30 - 59, được phân ngẫu nhiên thành 4 nhóm, được sàng lọc với xét nghiệm HPV (34.126 phụ nữ) bằng kỹ thuật Hybrid Capture II (Qiagen), tế bào học (32.058), VIA (34.074) hoặc chỉ khám phụ khoa thông thường (31.488, nhóm chứng). Phụ nữ có kết quả sàng lọc bất thường được chỉ định soi cổ tử cung và sinh thiết, tổn thương tiền ung thư và ung thư được chỉ định điều trị theo chuẩn. Nhóm xét nghiệm HPV phát hiện được 127 trường hợp ung thư (39 trường hợp từ giai đoạn II trở lên), so với 118 trường hợp ở nhóm chứng (82 trường hợp từ giai đoạn II trở lên); tỷ suất nguy cơ phát hiện ung thư muộn ở nhóm HPV là 0,47 (95% CI, 0.32 - 0.69). Có 34 trường hợp tử vong do UTCTC trong nhóm HPV, so với 64 trường hợp trong nhóm chứng (tỷ suất nguy cơ 0,52; 95% CI, 0.33 - 0.83). Các tác giả kết luận rằng thậm chí trong điều kiện nguồn lực hạn chế, chỉ một vòng sàng lọc bằng xét nghiệm HPV cũng có thể giúp làm giảm số trường hợp UTCTC giai đoạn muộn cũng như số trường hợp tử vong. Ronco và cộng sự (2010) đã báo cáo về thử nghiệm ngẫu nhiên trên 47.001 phụ nữ sàng lọc bằng tế bào và 47.369 phụ nữ bằng test HPV.10 Kết luận rút ra từ thử nghiệm lớn này là sàng lọc bằng HPV hữu hiệu hơn tế bào học trong dự phòng ung thư xâm lấn, bằng cách phát hiện các tổn thương độ cao một cách sớm hơn và cung cấp một khoảng thời gian có nguy cơ thấp dài hơn. Tuy nhiên ở phụ nữ trẻ xét nghiệm HPV sẽ dẫn đến chẩn đoán quá mức các trường hợp CIN2 mà có thể thoái triển về sau. Trong công trình mới nhất do Castle và cộng sự công bố tháng 9/2012, phân tích dữ liệu từ một cohort bao gồm 19.512 phụ nữ sau thời gian theo dõi lên đến 18 năm cho thấy tỷ lệ tần suất tích lũy của tổn thương CIN3+ 16 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 15, Số 1, Tháng 01 – 2015 của các nhóm phụ nữ với kết quả xét nghiệm ban đầu có ASC-US, tế bào học bình thường, HPV (+) và HPV (-) lần lượt là 6,41% (95% CI, 5,00% - 8,21%), 1,27% (95% CI, 1,05% - 1,53%), 5,98% (95% CI, 4,80% - 7,43%) và 0,90% (95% CI, 0,71% - 1,14%).11 Các tác giả kết luận rằng xét nghiệm HPV phối hợp với xét nghiệm tế bào học sau đó nếu HPV(+) để xác định các trường hợp có nguy cơ tức thời có tổn thương CIN3+ là một cách tiếp cận hiệu quả trong sàng lọc ung thư cổ tử cung, đặc biệt ở phụ nữ từ 30 tuổi trở lên. Khuyến cáo sàng lọc UTCTC của USPSTF và ACS/ASCCP/ASCP (2012)12,13 Tháng 3/2012, các tổ chức và cơ quan liên quan ở Hoa Kỳ, bao gồm U.S. Preventive Services Task Force (USPSTF), American Cancer Society (ACS), American Society for Colposcopy and Cervical Pathology (ASCCP); ASCP, American Society for Clinical Pathology (ASCP) thống nhất đưa ra khuyến cáo về sàng lọc UTCTC, trong đó lần đầu tiên USPSTF khuyến cáo việc thực Bảng 3. Khuyến cáo sàng lọc UTCTC của ACS/ASCCP/ASCP và USPSTF (3/2012). Đối tượng Phương pháp sàng lọc Xử trí theo kết quả sàng lọc < 21 tuổi Không sàng lọc 21 – 29 tuổi TBH mỗi 3 năm Xử trí theo Hướng dẫn ASCCP 2007. Tế bào âm tính hoặc HPV(-) + ASC- US: Làm lại tế bào sau 3 năm 30 – 65 tuổi TBH và HPV đồng thời mỗi 5 năm HPV(+) và ASC-US hoặc TBH LSIL trở lên: xử trí theo Hướng dẫn ASCCP 2007. HPV (+), TBH (-): Lựa chọn 1: làm lại 2 test sau 12 tháng Lựa chọn 2: Định danh HPV16 hoặc HPV16/18 Nếu HPV16 hoặc HPV16/18 (+), chuyển soi CTC Nếu HPV16 hoặc HPV16/18 (-), làm lại 2 test sau 12 tháng Cả hai âm tính hoặc HPV(+) và ASC-US: Sàng lọc bằng cả hai sau 5 năm TBH mỗi 3 năm HPV(+) và ASC-US hoặc TBH LSIL trở lên: xử trí theo Hướng dẫn ASCCP 2007. Tế bào âm tính hoặc HPV(-) + ASC- US: Làm lại tế bào sau 3 năm > 65 tuổi Ngưng sàng lọc nếu đủ điều kiện Cắt tử cung Không sàng lọc nếu không có tiền sử CIN2+ Sau tiêm vaccin HPV Như phụ nữ chưa tiêm vaccin 17 TỔNG QUAN Y VĂN hiện đồng thời 2 test tế bào học và HPV cho đối tượng từ 30 tuổi trở lên. Hướng dẫn sàng lọc, điều trị tổn thương tiền ung thư để dự phòng thứ cấp UTCTC (Quyết định 1476/QĐ-BYT ngày 16/5/2011, Bộ Y tế)14 Hiện nay một số test chẩn đoán có thể phát hiện các týp HPV nguy cơ cao sinh ung thư, chúng có thể được sử dụng trong lâm sàng như là test sàng lọc sơ cấp riêng biệt hoặc phối hợp với tế bào cổ tử cung. Kỹ thuật - PCR hoặc Hybrid Capture II (HC II) hoặc bằng bệnh phẩm lấy từ âm đạo – cổ tử cung nhằm phát hiện một nhóm các týp HPV nguy cơ cao sinh ung thư, còn gọi là kỹ thuật đặc hiệu theo nhóm. - PCR được dùng để định týp HPV bằng bệnh phẩm lấy từ âm đạo – cổ tử cung hoặc mảnh sinh thiết cổ tử cung. Xét nghiệm ADN HPV để sàng lọc sơ cấp: Xét nghiệm ADN HPV có độ nhạy cao và giá trị dự báo âm tính cao. Nếu test ADN HPV (-), gần như không có nguy cơ hình thành CIN III trong vòng 6 - 10 năm sau đó. Điều này cho phép giãn thời gian sàng lọc và giảm số lần sàng lọc trong cuộc đời người phụ nữ. Xét nghiệm ADN HPV để sàng lọc bổ sung - Phân biệt các trường hợp có bất thường tế bào: Xét nghiệm HPV không có vai trò trong phân biệt các trường hợp có bất thường tế bào rõ (có tổn thương CIN I-III), do một số lớn các đối tượng này sẽ có kết quả HPV dương tính. Tuy nhiên nếu sử dụng test ADN HPV ở phụ nữ có các thay đổi tế bào không xác định rõ (ASC-US) sẽ có lợi ích lớn; đa số họ sẽ âm tính đối với HPV, không cần soi cổ tử cung và/hoặc sinh thiết; chỉ một nhóm nhỏ phụ nữ có ASC-US bị nhiễm HPV và cần được thăm dò tiếp theo. - Sàng lọc phối hợp bằng tế bào cổ tử cung và xét nghiệm HPV: Phối hợp xét nghiệm HPV và tế bào cổ tử cung có thể giúp tăng nhẹ độ nhạy trong việc phát hiện CIN II-III so với xét nghiệm HPV đơn thuần. Lưu đồ sàng lọc phối hợp điều trị trong dự phòng UTCTC của Tổ chức Y tế thế giới Đầu tháng 12/2014, tại Hội nghị Phòng chống ung thư thế giới tổ chức tại Melbourne, Tổ chức Y tế thế giới đã đưa ra ấn bản lần thứ 2 (cập nhật) của tài liệu “Comprehensive cervical cancer control - A guide to essential practice” với các hướng dẫn và lưu đồ làm cơ sở cho các nhà hoạch định chính sách ra quyết định về các chiến lược tiếp cập trong dự phòng ung thư cổ tử cung.15 Theo cách tiếp cận phối hợp sàng lọc và điều trị, dựa trên sự sẵn có của các phương pháp sàng lọc, xét nghiệm ADN HPV sẽ đóng một vai trò then chốt trong nhiều phương thức tiếp cận khác nhau (xem Sơ đồ 1). Kết luận Mặc dù vaccin HPV đã và đang được đưa vào sử dụng với độ che phủ tăng dần, dự phòng UTCTC vẫn đòi hỏi công tác sàng lọc được thực hiện thường xuyên và rộng khắp. Dựa trên cơ sở các hiểu biết về sinh học phân tử và proteomic của HPV, các test phát hiện HPV đã được phát triển, đặc biệt các test phát hiện ADN HPV nguy cơ cao đã được ứng dụng rộng rãi trên thế giới và được chứng minh có giá trị trong dự phòng ung thư cổ tử cung. Bên cạnh phương pháp kinh điển đã được sử dụng lâu nay là tế bào cổ tử cung, ứng dụng test ADN HPV phối hợp với phương pháp soi cổ tử cung hoặc quan sát cổ tử cung với acid acetic có thể cho phép triển khai các chiến lược tiếp cận mới với độ che phủ cao hơn và đạt được mục đích phát hiện – chẩn đoán – điều trị một cách hữu hiệu hơn. 18 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 15, Số 1, Tháng 01 – 2015 Sơ đồ 1: Lưu đồ ra quyết định về các chiến lược sàng lọc phối hợp với điều trị Tài liệu tham khảo 1. World Health Organization. Human papillomavirus and HPV vaccines: technical nformation for policy- makers and health professional 2007; who.int/reproductivehealth/ publications/ cancers/ RHR_08_14/en/. Accessed 16 Sept 2012. 2. Bosch FX, Burchell AN, Schiffman M, Giuliano AR, de Sanjose S, Bruni L, et al. Epidemiology and natural history of human papillomavirus infections and type-specific implications in cervical neoplasia. Vaccine 2008; 26(Suppl 10):K1-16. 3. UICC, UNFPA, JHPIEGO, PATH, IPPF. Comprehensive cervical cancer prevention and control: programme guidance for countries, 2011. 4. Schiffman M et al. Human Papillomavirus testing in the prevention of cervical cancer. J Natl Cancer Inst 2011;103:1–16. 5. Lorincz, HPV Testing by Hybrid Capture. Monsonego J(ed): Emerging Issues of HPV Infections: From Science to Practice. Basel, Karger, 2006: 54-62. 6. Cuzick J, Clavel C, Petry KU, Meijer CJ, Hoyer H, Ratnam S, et al. Overview of the European and North American studies on HPV testing in primary cervical cancer screening. Int J Cancer. 2006 1;119(5):1095-101. 7. Mayrand MH et al. Human Papillomavirus DNA versus Papanicolaou screening tests for cervical cancer. N Engl J Med 2007;357:1579-88. 8. Dillner J, Rebolj M, Birembaut P, Petry KU, Szarewski A, Munk C, et al. Long term predictive values of cytology and human papillomavirus testing in cervical cancer screening: Joint European cohort study. BMJ 2008 Oct;337:a1754. 9. Sankaranarayanan R, Nene BM, Shastri SS, Jayant K, Muwonge R, Budukh A, et al. HPV screening for cervical cancer in rural India. N Engl J Med 2009; 360(14):1385-94. 10. Ronco G et al. Efficacy of human papillomavirus testing for the detection of invasive cervical cancers and cervical intraepithelial neoplasia: a randomised controlled trial. Lancet Oncol 2010; 11: 249–57. 11. Castle PE et al, Clinical Human Papillomavirus Detection Forecasts Cervical Cancer Risk in Women Over 18 Years of Follow-Up. J Clin Oncol. 2012 Sep 1;30(25):3044-50 12. Saslow D et al. American Cancer Society, American Society for Colposcopy and Cervical Pathology, and American Society for Clinical Pathology Screening Guidelines for the Prevention and Early Detection of Cervical Cancer. Ca Cancer J Clin 2012;62:147- 172. 13. U.S. Preventive Services Task Force. Screening for Cervical Cancer. usprevent iveservicestaskforce.org/uspstf / uspscerv.htm, accessed 26 Sept 2014. 14. Bộ Y tế (2011), “Hướng dẫn sàng lọc, điều trị tổn thương tiền ung thư để dự phòng thứ cấp ung thư cổ tử cung”. 15. World Health Organization. Comprehensive cervical cancer control: a guide to essential practice – 2nd ed, 2014, Geneva.
File đính kèm:
- xet_nghiem_adn_hpv_va_test_hybrid_capture_2_trong_sang_loc_u.pdf