Xây dựng mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách định giá chuyển giao trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

TÓM TẮT

Định giá chuyển giao được hiểu là việc thực hiện chính sách giá đối với hàng hóa, dịch vụ và tài

sản được chuyển dịch giữa các các bên liên kết qua biên giới, không theo giá thị trường mà theo

hướng có lợi, nhằm giúp các doanh nghiệp giảm thiểu nghĩa vụ thuế, tối đa hóa lợi nhuận, từ đó

chuyển vốn đầu tư hoặc lợi nhuận về nước, thanh lý các thiết bị, máy móc công nghệ kém hiện đại

với giá cao khi môi trường đầu tư tại những quốc gia tiếp nhận đầu tư không được lành mạnh do

các chính sách về tỷ giá, chính sách giáo dục, môi trường văn hoá, môi trường pháp luật, Từ

thực trạng tại Việt Nam, các nghiên cứu trong và ngoài nước, sử dụng phương pháp nghiên cứu

định tính để tìm kiếm các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách định giá chuyển giao của các doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDIEs) như yếu tố chính sách thuế, lạm phát, chính sách tỷ giá,

chính sách giáo dục, môi trường văn hoá, môi trường pháp luật, thể chế xã hội.

pdf 16 trang phuongnguyen 8600
Bạn đang xem tài liệu "Xây dựng mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách định giá chuyển giao trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Xây dựng mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách định giá chuyển giao trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

Xây dựng mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách định giá chuyển giao trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(03) - 2018 
13 
XÂY DỰNG MÔ HÌNH CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHÍNH SÁCH 
ĐỊNH GIÁ CHUYỂN GIAO TRONG CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN 
ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 
MODELING THE FACTORS AFFECTING TRANSFER PRICING POLICY IN FOREIGN 
DIRECT INVESTED ENTERPRISES (FDIEs) IN VIETNAM 
Ngày nhận bài: 30/03/2018 
Ngày chấp nhận đăng: 28/06/2018 
Phan Đức Dũng 
TÓM TẮT 
Định giá chuyển giao được hiểu là việc thực hiện chính sách giá đối với hàng hóa, dịch vụ và tài 
sản được chuyển dịch giữa các các bên liên kết qua biên giới, không theo giá thị trường mà theo 
hướng có lợi, nhằm giúp các doanh nghiệp giảm thiểu nghĩa vụ thuế, tối đa hóa lợi nhuận, từ đó 
chuyển vốn đầu tư hoặc lợi nhuận về nước, thanh lý các thiết bị, máy móc công nghệ kém hiện đại 
với giá caokhi môi trường đầu tư tại những quốc gia tiếp nhận đầu tư không được lành mạnh do 
các chính sách về tỷ giá, chính sách giáo dục, môi trường văn hoá, môi trường pháp luật, Từ 
thực trạng tại Việt Nam, các nghiên cứu trong và ngoài nước, sử dụng phương pháp nghiên cứu 
định tính để tìm kiếm các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách định giá chuyển giao của các doanh 
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDIEs) như yếu tố chính sách thuế, lạm phát, chính sách tỷ giá, 
chính sách giáo dục, môi trường văn hoá, môi trường pháp luật, thể chế xã hội. 
Từ khoá: định giá, doanh nghiệp, chuyển giao, giao dịch, xã hội. 
ABSTRACT 
Transfer pricing is understood as the implementation of a pricing policy for goods, services and 
assets transferred between cross-border, not market-oriented but beneficial parties, to help 
enterprises reduce the tax obligations, maximize profits, thereby transferring investment capital or 
profits back to the country, liquidating equipment and machinery of modern technology with high 
prices ... as the investment environment in the receiving countries is not healthy due to the policies 
on exchange rates, educational policies, cultural environment and legal environment. From the 
real situation in Vietnam, researches at home and abroad, use qualitative research methods to find 
the factors that influence the transfer pricing policies of foreign direct invested enterprises (FDIEs) 
such as tax policy factors. , inflation, exchange rate policy, education policy, cultural environment, 
legal environment, social order. 
Keywords: valuation, business, transfer, transaction, social. 
1. Giới thiệu 
Trong những năm gần đây, cùng với sự 
phát triển của quá trình toàn cầu hoá, đầu tư 
trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đã tăng 
lên rất mạnh, đóng góp vai trò rất quan trọng 
đối với sự phát triển của nền kinh tế Việt 
Nam, tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt 
được, khu vực kinh tế này không kém phần 
phức tạp, việc thu hút đầu tư nước ngoài 
trong thời gian qua cũng đã lộ ra nhiều bất 
cập: các dự án nước ngoài tập trung vào khai 
thác các ưu đãi đầu tư, tận dụng nguồn nhân 
công giá rẻ, khai thác tài nguyên thô gây ô 
nhiễm môi trường, không chú trọng chuyển 
giao công nghệ, đóng góp ngân sách hạn chế, 
và đặc biệt là nổi lên hiện tượng định giá 
chuyển giao, trốn thuế, núp thuế ở một số tập 
đoàn đa quốc gia, kể cả các tập đoàn hàng 
đầu của thế giới (Nguyễn Thị Liên Hoa, 
2003). Không thể phủ nhận được, đầu tư 
nước ngoài đã góp phần rất lớn vào quá trình 
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công 
Phan Đức Dũng, Trường Đại học Kinh tế-Luật, 
Đại học Quốc gia TP.HCM 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
14 
nghiệp hóa, hiện đại hóa, cải thiện năng lực 
cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước, 
tăng kim ngạch xuất khẩu của nền kinh tế, 
tăng năng suất lao động, tạo việc làm và cải 
thiện thu nhập cho người lao động, đóng góp 
đáng kể cho ngân sách quốc gia, nhưng với 
số lượng các giao dịch thương mại xuyên 
biên giới diễn ra giữa các công ty liên kết 
ngày một tăng, với môi trường cạnh tranh 
ngày càng gay gắt, khốc liệt, vấn đề tối đa 
hoá lợi nhuận cho tổng thể tập đoàn luôn là 
mục tiêu quan tâm hàng đầu của các nhà đầu 
tư nước ngoài. Ngoài việc nỗ lực nâng cao 
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đầu tư, 
định giá chuyển giao hay còn gọi là chuyển 
giá (transfer pricing) được xem là một trong 
những phương pháp mà các nhà đầu tư 
thường áp dụng nhằm mục đích tránh thuế, từ 
đó tổng lợi ích cuối cùng sẽ được gia tăng, là 
một trong những vấn đề còn khá mới mẻ 
trong hoạt động thương mại Việt Nam, 
nhưng gần đây các giao dịch có yếu tố nước 
ngoài ngày càng xuất hiện nhiều dấu hiệu của 
hiện tượng định giá chuyển giao. Hiện tượng 
định giá chuyển giao không chỉ gây thiệt hại 
cho chính phủ nước chủ nhà do bị thất thu 
thuế, giảm phần lợi nhuận của bên góp vốn 
của nước chủ nhà do giá trị góp vốn của họ 
thấp mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến thương 
mại quốc tế theo quan điểm của nước tiếp 
nhận đầu tư. Do các quy luật của thị trường 
tự do, đặc biệt là quy luật cung cầu không 
hoạt động trong các tập đoàn đa quốc gia, 
nên gây ra nhiễu loạn quá trình lưu thông 
quốc tế, dẫn đến tình trạng cạnh tranh không 
lành mạnh (Ngô Quang Trung, 2015). Tại 
Việt Nam, vấn đề định giá chuyển giao dù 
không còn xa lạ nhưng đã bắt đầu trở thành 
một chủ đề được tranh luận sôi nổi kể từ cuối 
năm 2012, khi ngành thuế công bố các báo 
cáo cho thấy một thực trạng báo động về hiện 
tượng định giá chuyển giao đi cùng với 
những nghi án liên quan (Ngọc Ánh, 2013). 
Định giá chuyển giao không phải là khái 
niệm mới đối với nền kinh tế thị trường phát 
triển, khi các quan hệ kinh tế được thiết lập 
đa dạng, có sự liên kết, phối hợp giữa các 
chủ thể kinh doanh, khi mà việc xác định lợi 
ích kinh tế đã vượt ra ngoài phạm vi của một 
chủ thể riêng lẻ, được tính trong lợi ích 
chung của cả tập đoàn hay nhóm liên kết. 
Tuy nhiên, tùy theo cách tiếp cận mà khái 
niệm định giá chuyển giao, được hiểu là một 
hành vi do các chủ thể kinh doanh thực hiện 
nhằm thay đổi giá trị trao đổi hàng hóa, dịch 
vụ trong quan hệ với các bên liên kết (Atul 
Dua, 2005). Đối tượng tác động chính của 
hoạt động định giá chuyển giao chính là giá 
cả (Phương Hà, 2015). Về sâu xa, định giá 
chuyển giao là việc chia quyền đánh thuế 
giữa các quốc gia, theo đó, thu nhập sẽ được 
chuyển về quốc gia, vùng lãnh thổ có thuế 
thấp hoặc nước xuất khẩu tư bản để tính thu 
nhập chịu thuế, động cơ cốt lõi của hành vi 
định giá chuyển giao là lợi nhuận của doanh 
nghiệp (Phan Thị Thành Dương, 2012). Các 
bên liên kết định giá chuyển giao hàng hóa, 
dịch vụ và tài sản với nhau theo hướng có thể 
làm thay đổi tổng nghĩa vụ thuế phải nộp của 
họ, qua đó làm tăng tổng lợi ích cuối cùng. 
Về mặt kỹ thuật, các bên liên kết dùng các 
biện pháp định giá sao cho nghĩa vụ thuế 
được chuyển từ nơi bị điều tiết cao sang nơi 
bị điều tiết thấp hơn. 
Trong thực tiễn hiện nay, về góc độ quản 
lý nhà nước, thường có cái nhìn không thiện 
cảm về các chính sách định giá chuyển giao 
của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước 
ngoài, điều này hoàn toàn đúng nếu xét về 
hiện tượng. Tuy nhiên, nếu xét về bản chất, 
vấn đề là tại sao các doanh nghiệp có vốn 
đầu tư nước ngoài thường thiết lập một chính 
sách định giá chuyển giao, thì sẽ có cái nhìn 
khách quan hơn. Thông thường, xã hội chỉ 
nhìn vào hiện tượng định giá chuyển giao mà 
kết luận có doanh nghiệp này đang thực hiện 
các hành vi chuyển giá (hàm ý không tốt), 
nhưng lại không nhìn vào bản chất của vấn 
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(03) - 2018 
15 
đề này, chẳng hạn vấn đề bảo toàn vốn đầu tư 
liên quan đến rủi ro về tỷ giá, rủi ro về lạm 
phát, hay rủi ro về thảm hoạ môi trường...., 
thì chính sách định giá chuyển giao là cần 
thiết cho những doanh nghiệp có vốn đầu tư 
nước ngoài (hàm ý tốt). Do vậy, việc lựa 
chọn đề tài xây dựng mô hình nghiên cứu các 
nhân tố ảnh hưởng đến chính sách định giá 
chuyển giao để có cơ sở hơn khi tiến hành 
nghiên cứu định lượng, là những nhân tố nào 
có ảnh hưởng mạnh nhất đối với các doanh 
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trên cơ sở 
kết quả nghiên cứu định tính, và nghiên cứu 
định lượng sau này sẽ giúp cho các bên liên 
quan quan tâm đến vấn đề định giá chuyển 
giao của các doanh nghiệp có vốn đầu tư 
nước ngoài có cái nhìn khoa học hơn, đồng 
thời, giúp cho việc hoàn thiện chính sách 
kinh vĩ mô ngày càng phù hợp hơn, trong đó, 
có các chính sách liên quan nhiều hơn đến 
nội tại của nền kinh tế chứ không chỉ các văn 
bản pháp quy chỉ để kiểm soát các hoạt động 
định giá chuyển giao tại các doanh nghiệp 
này. 
2. Tổng quan các đề tài nghiên cứu có liên 
quan 
Nguyễn Ngọc Thanh, Phan Đức Dũng, 
Nguyễn Thị Liên Hoa (2000a), “Các biện 
pháp chống chuyển giá tại các doanh nghiệp 
có vốn đầu tư nước ngoài tại TP HCM” Đề 
tài nghiên cứu khoa học, Sở khoa học công 
nghệ môi trường TP. Hồ Chí Minh, các tác 
giả đã trình bày các hoạt động của các công 
ty đa quốc gia ở Việt Nam, nêu lên được 
những thực trạng của vấn đề chuyển giá và 
đánh giá các biện pháp chống chuyển giá 
đang được áp dụng tại Việt Nam trong thời 
gian này có phù hợp hay không. Hơn nữa, 
vấn đề chống chuyển giá được Việt Nam 
cũng như các nước trên thế giới quan tâm đó 
là làm cách nào để xác định giá thị trường 
trong các giao dịch liên kết giữa các công ty 
đa quốc gia, thì mới có thể giải quyết được 
phần nào vấn nạn chuyển giá. Điều này đòi 
hỏi cả doanh nghiệp và cơ quan thuế cần phải 
chuẩn bị làm quen để khắc phục dần những 
khó khăn này. Đồng thời, các tả đã tập trung 
tìm hiểu những khái niệm cơ bản liên quan 
đến công ty đa quốc gia cũng như quá trình 
chuyển giá, tác động của việc chuyển giá và 
phương pháp chống chuyển giá. Bên cạnh 
đó, các tác giả cũng đã phân tích ý nghĩa và 
các phương pháp cơ bản để xác định giá thị 
trường trong giao dịch liên kết nhằm phục vụ 
cho quá trình chống chuyển giá. Bên cạnh 
đó, nhóm nghiên cứu tập trung tìm hiểu 
những kinh nghiệm của các quốc gia trên thế 
giới về vấn đề chống chuyển giá để từ đó có 
thể tìm ra những bài học bổ ích, những ứng 
dụng thực tiễn giúp hoàn thiện hơn nữa công 
tác chống chuyển giá ở Việt Nam. Theo 
Nguyễn Thị Liên Hoa (2003), cho rằng 
Chính sách chuyển giá và chiến lược bán phá 
giá tại các công ty có quan hệ liên kết, tác giả 
đã chỉ ra các dấu hiệu nhận biết hoạt động 
chuyển giá, những dấu hiệu vi phạm về chế 
độ kế toán, thống kê và chỉ ra thế nào là có 
mối quan hệ liên kết, theo tác giả là quan hệ 
mà bên này trực tiếp hoặc gián tiếp điều 
hành, kiểm soát, góp vốn, hoặc đầu tư vào 
bên kia, hoặc trực tiếp, gián tiếp cùng chịu sự 
điều hành, kiểm soát, góp vốn hoặc đầu tư 
của một bên khác, hoặc cùng tham gia trực 
tiếp, gián tiếp vào điều hành, kiểm soát, góp 
vốn hoặc đầu tư vào một bên khác. Nguyễn 
Thị Quỳnh Giang (2010), đã cho biết chuyển 
giá là một trong những hình thức gian lận 
thương mại khá tinh vi đã được áp dụng ở 
nhiều tập đoàn đa quốc gia trên toàn thế giới 
từ rất lâu và Việt Nam cũng không nằm trong 
các quốc gia ngoại lệ. Theo Henry Fayol 
(1949), “kiểm soát là việc kiểm tra để khẳng 
định mọi việc có được thực hiện theo đúng 
kế hoạch hoặc các chỉ dẫn và các nguyên tắc 
đã được thiết lập hay không, từ đó chỉ ra các 
yếu kém và các sai phạm cần phải điều 
chỉnh, đồng thời ngăn ngừa chúng không 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
16 
được phép tái diễn”. Gravelle, J.G. (2010) 
cho rằng, tài sản vô hình rất khó xác định 
đúng giá trị của nó (như tiền bản quyền, tiền 
sở hữu trí tuệ) và cũng khó xác định giá của 
chúng trong các DNLK. Trên thực tế, 
Gruber, H. (2003) đã phát hiện ra nguy cơ 
định giá chuyển giao trong việc xác định giá 
tài sản vô hình. Các công ty có cơ hội lớn để 
tham gia vào định giá chuyển giao thông qua 
việc chuyển giao tài sản vô hình giữa các 
doanh nghiệp liên kết có mức thuế khác 
nhau. Theo Hatem Elsharawy (2006), mỗi 
quốc gia có một cơ chế chính sách và pháp 
luật khác nhau, do đó lãnh đạo doanh nghiệp 
cần phải hiểu biết về pháp luật tại nước sở tại 
trước khi tiếp nhận nhiệm vụ lãnh đạo tại 
một quốc gia. Khi ban lãnh đạo có trình độ 
cao, hiểu biết về pháp luật và có đạo đức 
kinh doanh thì khả năng gian lận trong định 
giá chuyển giao rất thấp và ngược lại nhận 
thức và hiểu biết các quy định pháp luật của 
Ban lãnh đạo cũng như kế toán trong doanh 
nghiệp liên kết không cao thì khả năng gian 
lận trong định giá chuyển giao rất lớn. Hatem 
Elsharawy (2006) cho rằng môi trường pháp 
lý cũng có ảnh hưởng đến các hoạt động định 
giá chuyển giao. Các yếu tố từ nên kinh tế 
đóng một vai trò quan trọng trong việc ảnh 
hưởng đến các hoạt động định giá chuyển 
giao quốc tế. Vì vậy, cần thiết nghiên cứu các 
yếu tố của nền kinh tế ảnh hưởng đến định 
giá chuyển giao trong các công ty đa quốc 
gia. Đặc điểm về thị trường cạnh tranh ngày 
càng gay gắt, buộc doanh nghiệp phải sử 
dụng công cụ tài chính phái sinh, để: (i) gia 
tăng giá trị doanh nghiệp (Froot và cộng sự, 
1993); (ii) giảm chi phí phá sản dự kiến và 
tăng giá trị doanh nghiệp (Smith và Stulz, 
1985); (iii) giảm nguy cơ rủi ro tiềm ẩn hoặc 
quản lý rủi ro dự kiến; (iv) bù đắp những rủi 
ro kinh doanh vốn có (Danthine, 1978); (v) 
giảm thiểu rủi ro, giảm chi phí vốn vay, ổn 
định thu nhập. Do đó, sử dụng công cụ tài 
chính phái sinh góp phần quản trị rủi ro và 
kiểm soát nền kinh tế. Theo khái niệm bản 
chất xã hội của kế toán (Davis và cộng sự, 
1982), kế toán góp phần mang lại lợi ích cho 
xã hội nhằm duy trì và phát triển bền vững xã 
hội. Tuy nhiên, với sự bất đối xứng thông tin 
kế toán sẽ dẫn đến sự kém phát triển của thị 
trường tài chính hệ quả là ảnh hưởng đến các 
thị trường còn lại. Ngoài ra, theo Young 
(1996), chức năng kế toán là cung cấp thông 
tin minh bạch cho thị trường hoạt động. 
Quan điểm của Hopwood (1994) cho rằng 
trong việc thiết lập các quy định, nguyên tắc, 
chuẩn mực lại được thực hiện bởi nhu cầu 
của thị trường trong đó bao gồm thị trường 
vốn, thị trường hàng hóa, thị trường chứng 
khoán... Theo Watts (2006), kế toán góp 
phần trong quá trình định hướng thị trường. 
Theo quan điểm này, việc tuân thủ các quy 
định kế toán nhằm thực hiện công bố báo cáo 
tài chính sẽ làm cân bằng các mục tiêu của 
các đối tượng khác nhau, dựa vào các thị 
trường khác nhau chẳng hạn như việc sử 
dụng báo cáo tài chính cho các hợp đồng, đầu 
tư, định giá Có thể dễ nhận diện nhân tố 
thị trường là nhân tố có ảnh hưởng đến kế 
toán tài chính, giữa hàng hóa – kế toán và 
nhân tố thị trường có mối quan hệ tương 
quan cùng chiều. Như vậy, một thị trường 
cạnh tranh hoàn hảo và hoạt động hiệu quả 
với đầy đủ thông tin về giá cả, chất lượng sẽ 
làm tăng khả năng áp dụng kế toán công cụ 
tài chính phái sinh và ngược lại. Thị trường 
sẽ phân bổ vốn và phòng ngừa rủi ro hiệu 
quả trong điều kiện thông tin kế toán hoàn 
hảo. Do đó, kế toán tài chính đóng vai trò 
quan trọng để đảm bảo các thông tin có liên 
quan và đáng tin cậy được công bố (Merino 
và Neimark, 1982). Nhân tố pháp lý là cơ sở 
không thể thiếu để mô tả, đánh giá, phân tích, 
góp phần th ... diện mạo 
của nền công nghiệp nước nhà, nhưng làn 
sóng đầu tư này cũng đang khiến cho Việt 
Nam nhận về những hệ lụy không nhỏ cho 
môi trường kinh doanh và cho cả nền kinh tế 
trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư nước 
ngoài. Xuất phát từ thực tế đó, tác giả đã cố 
gắng đưa ra mô hình nghiên cứu các nhân tố 
ảnh hưởng đến chính sách định giá chuyển 
giao của các FDIEs, để có một góc nhìn 
khách quan hơn trong việc tạo môi trường 
kinh doanh thuận lợi cũng như kiểm soát 
được các hành vi gian lận của những FDIEs. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Adams, M. B. (1994). Agency theory and the internal audit. Managerial Auditing Journal, 9(8), 
8-12. 
Atul Dua (2005), Tranfer Pricing-Atax: Corporate and Securities Perspective, IPBA Journal, số 
40, tr.22. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(03) - 2018 
25 
Anh Vũ (2015), Bóc trần thủ đoạn định giá chuyển giao của Metro Việt Nam, 
 554476.html. 
Burns, J. (1980): Transfer Pricing in U. S. Multinational Corporations, Journal of International 
Business Studies, 11(2): 23-39. 
Bộ Tài Chính, Thông tư số 117/2005/TT-BTC hướng dẫn thực hiện việc xác định giá thị trường 
trong giao dịch kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết. 
Bộ Tài Chính, Thông tư số 13/2001/TT-BTC hướng dẫn thực hiện quy định về thuế đối với các 
hình thức đầu tư theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. 
Bộ Tài Chính, Thông tư số 201/2013/TT-BTC hướng dẫn việc áp dụng thỏa thuận trước về 
phương pháp xác định giá tính thuế (APA) trong quản lý thuế. 
Bộ Tài Chính, Thông tư số 66/2010/TT-BTC hướng dẫn thực hiện việc xác định giá thị trường 
trong giao dịch kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết. Bộ Tài Chính, Thông tư số 
74/1997/TT-BTC hướng dẫn về thuế đối với nhà đầu tư nước ngoài. 
Bộ Tài Chính, Thông tư số 89/1999/TT-BTC hướng dẫn thực hiện quy định về thuế đối với các 
hình thức đầu tư theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. 
Canri Chan; Steven P. Landry; Terrance Jalbert (2000): Effects of Exchange Rates On 
International Transfer Pricing Decisions. 
Chính phủ (2016), Nghị định số 20/2017/NĐ-CP quy định về Quản lý thuế đối với doanh 
nghiệp có giao dịch liên kết ban hành ngày 24/2/2017. 
Danthine, J. P., (1978). Information, futures prices, and stabilizing speculation. Journal of 
Economic Theory, 17 (1), 79-98. 
Davis, S. W, Menon, K., Morgan, G., (1982). The images that have shaped accounting theory. 
Accounting, Organizations and Society, 7(4), 307-318. 
Davenport, T. H. (2000). The Future of Enterprise System-Enabled Organizations. Information 
Systems Frontiers, 2(2), 163-180. 
Đoàn Thanh Nga & Tạ Thu Trang (2017): “Nâng cao khả năng áp dụng cơ chế thỏa thuận trước 
về phương pháp xác định giá tính thuế (APA) tại Việt Nam” Hội thảo khoa học tổ chức tại 
trường Đại học Kinh tế TP.HCM. Mã số ĐKXB: 3417-2017/CXBIPH/51-70/HĐ cấp ngày 
05 tháng 10 năm 2017 và ISBN: 978-604-89-1299-4. 
Elliott, R. K. (1992). The Third Wave Breaks on the Shores of Accounting. Accounting 
Horizons, 6(2), 61-85. 
Elliott, R. K. (1994b). Confronting the future: Choices for the attest function. Accounting 
Horizons, 8(3), 106-124. 
Elliott, R. K. (1995). The Future of Assurance Services: Implications for Academia. 
Accounting Horizons, 9(4), 118-127. 
Elliott, R. K. (1997). Assurance Service Opportunities: Implications for Academia. Accounting 
Horizons, 11(4), 61-74. 
Elliott, R. K. (2002). Twenty-first century assurance. Auditing: A Journal of Practice & Theory, 
21(1), 139-146. 
Edmund Malesky (2014): Mười kết quả chú ý từ việc điều tra PCI-FDI và hiệp định TPP. Đại 
học Duke 
Froot, K., Scharfstein, D., Stein, J., (1993). Risk management: coordinating corporate 
investment and financing policies. The Journal of Finance, 48 (5), 1629-1658. 
Greene, J. and M.G. Duerr (1970): Intercompany Transactions in the Multinational Firm, New 
York: The Conference Board. 
Gipper, B., Lombardi, B. J., Skinner D. J., (2013). The politics of accounting standard-setting: 
A review of empirical research. Australian Journal of Management, 38(3) 523–551. 
Gravelle, J.G. (2010), Tax Havens: International Tax Avoidance and Evasion, CRS Report for 
Congres, CRS Washington DC. 
Gruber, H. (2003), Intangible income, Intercompany transactions, income shifting and the 
choice of location, National Tax Journal 56 (1, Part 2), 221-242. 
Geoffrey Hodgson (2006) “What Are Institutions?” Journal of Economic Issues, XL:1, 1-25. 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
26 
Hatem Elsharawy (2006), Developing Controlling and Performance Evaluation of 
Multinational Companies Operating in Egypt, Gottingen University, Egypt. 
Hall, B. H. (2004). Innovation and Diffusion. Trong J. Fagerberg, D. C. Mowery, & R. R. 
Nelson (Các biên tâp̣ viên), The Oxford Handbook of Innovation (trang 459-484). Oxford: 
Oxford University Press. 
Hall, B. H., & Khan, B. (2003). Adoption of New Technology. Berkley: University of 
California Working Papers No: E03-330 (May). 
Henry Fayol (1949), General and Industrial Management, Pitman Publishing, New York. 
Hill, C. W., & Jones, T. M. (1992). Stakeholder-Agency Theory. Journal of Management 
Studies, 29(2), 131-154. 
Hopwood, A. G., (1994). Some reflections on “The harmonization of accounting within the 
EU’’. The European Accounting Review, 3(2), 241–253. 
Huỳnh Thị Xuân Thùy (2013), “Giải pháp vận dụng giá trị hợp lý để thực hiện đo lường các 
khoản đầu tư chứng khoán tại các Công ty cổ phần niêm yết trên sở giao dịch chứng 
khoán TP.Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh. 
John, J. F., 1992. Corporate Governance and Disclosure Quality. Accounting and Business 
Research, 22(86), 111-124. 
Jensen, M. C., & Meckling, W. H. (1976). Theory of the firm: Managerial behavior, agency 
costs, and ownership structure. Journal of Financial Economics, 3(4), 305-360. 
Johnson, W. A. & R. J. Kirsch (1991) International Transfer Pricing and Decision Making in 
United States Multinationals, International Journal of Management, June, 8(2): 554- 561. 
Kothari S. P., Ramanna K., Skinner D. J., (2010). Implications for GAAP from an analysis of 
positive research in accounting. Journal of Accounting & Economics, 50, 246–286. 
Ken Milani PhD., CPA, And Juan Rivera PhD., CPA (2004): The Rigorous Business of 
Budgeting for International Operations (Effects of Inflation in the Transfer Pricing). 
Lê Thị Kim Dương (2013), “Vận dụng giá trị hợp lý để trình bày thông tin trên BCTC của các 
doanh nghiệp Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh. 
Lê Thị Mộng Loan (2013), “Giá trị hợp lý ảnh hưởng đến sự cân bằng giữa độ tin cậy và thích 
hợp các thông tin trên báo cáo tài chính của các công ty tại Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ, 
Trường Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh. 
Lê Văn Sua (2015), Cơ sở pháp lý chống định giá chuyển giao và vấn đề hoàn thiện pháp luật 
về chống định giá chuyển giao ở Việt Nam, 
cuutrao-doi.aspx?ItemID=1896 
Motiwalla, L. F., & Thompson, J. (2009). Enterprise Systems for Management (1st ed.). Upper 
Saddle River, New Jersey: Pearson Education, Inc. 
Merino, B. D., Neimark, M. D., (1982). Disclosure regulation and public policy: A 
sociohistorical appraisal. Journal of Accounting and Public Policy, 1(1), 33–57. 
Macionis, J. Jonhn (1987): Xã hội học - Nhà xuất bản Thống kê. 
Nguyễn Thị Mai Anh (2017): “Bản chất và đặc điểm hoạt động chuyển giá trong các doanh 
nghiệp”. Hội thảo khoa học tổ chức tại trường Đại học Kinh tế TP.HCM. Mã số ĐKXB: 
3417-2017/CXBIPH/51-70/HĐ cấp ngày 05 tháng 10 năm 2017 và ISBN: 978-604-89-
1299-4. 
Mai Phương (2017), Chống định giá chuyển giao vẫn khó, 
gia-van-kho-492678-492678.html. 
Ngô Thị Thùy Trang (2012), “Phương hướng và giải pháp vận dụng giá trị hợp lý trong kế toán 
doanh nghiệp Việt Nam” 
Nguyễn Hữu Ánh, Nguyễn Thị Phương Hoa, Nguyễn Thị Hồng Thúy (2016), Định giá chuyển 
giao và kiểm soát định giá chuyển giao trong các doanh nghiệp ở Việt Nam, NXB Đại học 
Kinh tế quốc dân. 
Ngọc Ánh (2013), Phát hiện nhiều vụ định giá chuyển giao tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư 
nước ngoài (FDI) ở Bình Dương, CAND online ngày 12/3/2013 ( 
com.vn/ vi-VN/kinhte/2013/3/193886.cand) 
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(03) - 2018 
27 
Nguyễn Thị Quỳnh Giang (2010), “Chuyển giá trong các công ty đa quốc gia ở Việt Nam” 
Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh. 
Nguyễn Thị Liên Hoa (2003): “Vấn đề chuyển giá trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước 
ngoài tại Việt Nam” Đề tài nghiên cứu khoa học, mã số đề tài nghiên cứu: CS-2004-14. 
Nguyễn Thị Mỹ (2017): “Chuyển giá trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Thực 
trạng và Giải pháp”. Hội thảo khoa học tổ chức tại trường Đại học Kinh tế TP.HCM. Mã 
số ĐKXB: 3417-2017/CXBIPH/51-70/HĐ cấp ngày 05 tháng 10 năm 2017 và ISBN: 978-
604-89-1299-4. 
Ngô Quang Trung (2015): Vấn đề định giá chuyển giao của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp 
nước ngoài tại Việt Nam hiện nay, Viện Chính sách Nghiên cứu & Phát triển. 
Nguyễn Xuân Trường, Trần Lâm Thảo My và Nguyễn Dạ Thảo (2017) “Kinh nghiệm chống 
chuyển giá của một số nước Châu á và bài học cho Việt Nam”. Hội thảo khoa học tổ chức 
tại trường Đại học Kinh tế TP.HCM. Mã số ĐKXB: 3417-2017/CXBIPH/51-70/HĐ cấp 
ngày 05 tháng 10 năm 2017 và ISBN: 978-604-89-1299-4. 
Nguyễn Thanh Tùng (2014), “Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến việc vận dụng giá trị hợp lý 
trong kế toán tại các doanh nghiệp Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Kinh tế 
TP.Hồ Chí Minh. 
Nguyễn Ngọc Thanh, Phan Đức Dũng, Nguyễn Thị Liên Hoa (2000a): “Các biện pháp chống 
chuyển giá tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại TP HCM” Đề tài nghiên cứu 
khoa học, Sở khoa học công nghệ môi trường TP. Hồ Chí Minh. 
Nguyễn Ngọc Thanh, Phan Đức Dũng, Nguyễn Thị Liên Hoa (2000b) “Vấn đề chuyển giá tại 
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh.” Tài liệu tham 
khảo. Nhà xuất bản tài chính năm 2000. 
Nguyễn Văn Trình & Phan Đức Dũng (2005) “Chi phí nghiên cứu phát triển của các công ty đa 
quốc gia trong chính sách định giá chuyển giao” Tạp chí phát triển kinh tế số 171, 
01/2005. 
OECD. (2005). Oslo Manual: Guidelines For Collecting And Interpreting Innovation Data (lần 
xuất bản 3rd). Paris: OECD and Eurostat. 
OECD (2010), Transfer Pricing Guidelines for Multinational Enterprises and Tax 
Administration. 
Peltzman S., (1976). Toward a more general theory of regulation. Journal of Law & 
Economics, 19, 211–240. 
Posner, R. A., (1974). Theories of economic regulation. NBER Working paper series. 
Phan Thị Thành Dương (2012) Pháp luật về kiểm soát định giá chuyển giao ở Việt Nam (Law 
on control of transfer pricing in Vietnam). 
Phan Đức Dũng (1998): “Chính sách chuyển giá của các Công ty đa quốc gia,” Thời báo tài 
chính Việt Nam, Số 9 (Số 43) 15/9/1998. 
Phan Đức Dũng (2004): “Thông tư 128/2003/TT-BTC và vấn đề kế toán chênh lệch tỷ giá” Tạp 
chí kế toán, Số 47 (4/2004) 15/4/2004 
Phan Đức Dũng (2017): “Mua bán và sáp nhập doanh nghiệp là xu hướng tất yếu trong bối 
cảnh hội nhập quốc tế khi Việt Nam là thành viên hợp tác kinh tế 
Châu Á - Thái Bình Dương (APEC)” Hội thảo khoa học tổ chức tại trường Đại học Thủ 
Dầu Một, ngày 14/4/2017 
Phương Hà (2015): Chống định giá chuyển giao, cần hơn một đội đặc nhiệm, Enternews. 
Phạm Huyền (2013), Phi vụ định giá chuyển giao ngàn tỷ bậc nhất của Keangnam, 
Phạm Huyền (2013), Vô địch định giá chuyển giao trắng trợn hơn cả Keangnam 
Phan Hiển Minh & Phan Trần Trung Quang (2017): “Phân tích và đánh giá tính minh bạch, 
hiệu quả và bền vững của các chính sách và hoạt động kiểm soát chuyển giá hiện tại của 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
28 
các cơ quan quản lý nhà nước” Hội thảo khoa học tổ chức tại trường Đại học Kinh tế 
TP.HCM. Mã số ĐKXB: 3417-2017/CXBIPH/51-70/HĐ cấp ngày 05 tháng 10 năm 2017 
và ISBN: 978-604-89-1299-4. 
Riley, J. G. (2001). Silver Signals: Twenty-Five Years of Screening and Signaling. Journal of 
Economic Literature, 39(2), 432–478. 
Rogers, E. M. (1983). Diffusion of Innovations (3rd ed.). New York: The Free Press. 
Rogers, E. M. (2003). Diffusion of Innovations (lần xuất bản 5th). New York: The Free Press. 
Ross, S. A. (1973). The Economic of Theory of Agency: The Principal's Problem. American 
Economic Review, 63(2), 134-139. 
Smith, C., Stulz, R., 1985. The determinants of firms’ hedging policies. The Journal of 
Financial and Quantitative Analysis, 20 (4), 391-405. 
Shulman, J.S. (1966): Transfer Pricing in Multinational Business, unpublished DBA Thesis, 
Harvard University. 
Stigler, G. J., 1971. The Theory of Economic Regulation. The Bell Journal of Economics and 
Management Science, 2(1), 3-21 
Stiglitz, J. E. (1975). The Theory of ''Screening,'' Education, and the Distribution of Income. 
The American Economic Review, 65(3), 283-300. 
Stiglitz, J. E. (2000). The contributions of the economics of information to twentieth century 
economics. Quarterly Journal of Economics, 115(4), 1441-1478. 
Stiglitz, J. E. (2002). Information and the Change in the Paradigm in Economics. The American 
Economic Review, 92(3), 460-501. 
Stiglitz, J. E., & Walsh, C. E. (2006). Economics (4th ed.). New York: W. W. Norton & 
Company. 
Shaefer, T. Richard (2003): Xã hội học - Nhà xuất bản Thống kê. 
Tang, R.Y.W. and Chan, K.H. (1979): Environmental Variables of International Transfer 
Pricing: A Japan-United States Comparison, Abacus, June, 5: 3-12. 
Tang, R.Y.W. (1981): Multinational Transfer Pricing: Canadian and British Perspectives, 
Toronto: Butterworths and Co. Ltd. 
Tang, R.Y.W. (1982): Environmental Variables of Multinational Transfer Pricing, Journal of 
Business Finance and Accounting, 9(2): 179-89. 
Tang, R.Y.W. (1993) Transfer Pricing in the 1990’s: Tax and Management Perspectives, 
Westport: Quorum Books. 
Trần Thị Phương Thanh (2012), “Các giải pháp mang tính định hướng cho việc xác lập khung 
pháp lý về giá trị hợp lý áp dụng trong hệ thống kế toán doanh nghiệp tại Việt Nam” 
Võ Thành Hiệu và Phan Đức Dũng (1998) “Đầu tư liên doanh với nước ngoài – Những vấn đề 
đặt ra,” Thời báo Tài chính Việt Nam, Số 5 (Số 39) 15/5/1998. 
Vũ Ngọc Nhung & Phan Đức Dũng (1998) “Sử dụng lạm phát như một phương thuốc giúp tăng 
trưởng kinh tế,” TT kinh tế ngân hàng, Số 10/98 ngày 15/10/1998. 
Watts, R. L, 2006. What has the invisible hand achieved? Accounting and Business Research, 
36, 51–61. 
Wernerfelt, B., 1984. A resource-based view of the firm. Stragic Management Journal, 5(2), 
171-180. 
Watts, R. L., & Zimmerman, J. L. (1983). Agency Problems, Auditing, and the Theory of the 
Firm: Some Evidence. Journal of Law and Economics, 26(3), 613-633. 
Young, J. J., 1996. Institutional thinking: the case of financial instruments. Accounting 
Organizations and Society, 21(5), 487–512. 
Yunkers, P.J. (1983): A Survey Study of Subsidiary Autonomy, Performance Evaluation and 
Transfer Pricing in Multinational Corporations, Columbia Journal of World Business, Fall, 
19: 51-64. 

File đính kèm:

  • pdfxay_dung_mo_hinh_cac_yeu_to_anh_huong_den_chinh_sach_dinh_gi.pdf