Vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp và thoái vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp

Mặc dù nắm trong tay một nguồn lực lớn của nền kinh tế và nhận được sự quan tâm, ưu ái của Nhà nước;

tuy nhiên, hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước thường rất thấp, tỷ suất sinh lời trên vốn

không cao. Vì vậy, xu hướng có tính chất phổ biến trên thế giới là việc Nhà nước rút dần vốn (thoái vốn)

đầu tư của mình tại các doanh nghiệp (DN); phạm vi và quy mô vốn nhà nước đầu tư vào DN trong nền

kinh tế cũng ngày càng thu hẹp lại.

Trong bài viết này tác giả trao đổi về vấn đề Nhà nước đầu tư vốn và DN và lý do phải thực hiện thoái

vốn nhà nước đầu tư vào DN.

pdf 6 trang phuongnguyen 40
Bạn đang xem tài liệu "Vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp và thoái vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp và thoái vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp

Vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp và thoái vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp
6 Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
VỐN NHÀ NƯỚC ĐẦU TƯ VÀO DOANH NGHIỆP
 VÀ THOÁI VỐN NHÀ NƯỚC ĐẦU TƯ TẠI DOANH NGHIỆP
1. Kinh tế thị trường và vốn nhà nước đầu 
tư vào doanh nghiệp
Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành 
theo cơ chế thị trường: theo đó, sản xuất cái gì, 
sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai đều được 
quyết định thông qua thị trường. Trong nền kinh 
tế thị trường, quan hệ kinh tế của các cá nhân 
và DN đều thể hiện qua việc mua bán hàng hoá, 
dịch vụ trên thị trường. Kinh tế thị trường là giai 
đoạn phát triển cao của nền sản xuất hàng hoá, là 
sự phát triển lịch sử khách quan của nền kinh tế 
- xã hội loài người, còn cơ chế thị trường là tổng 
thể các nhân tố, quan hệ cơ bản vận động dưới 
sự chi phối của quy luật thị trường; trong đó quy 
luật giá trị giữ vai trò chi phối. Nhân tố cơ bản 
của cơ chế thị trường là quan hệ cung - cầu và 
giá cả thị trường. Kinh tế thị trường có những ưu 
điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, kích thích áp dụng tiến bộ kỹ thuật, 
tăng năng suất lao động. Lợi nhuận là động lực 
của kinh tế thị trường. Để thu được lợi nhuận 
cao đòi hỏi các DN phải thường xuyên áp dụng 
các kỹ thuật công nghệ mới vào quá trình SXKD 
nhằm nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành 
sản phẩm, tăng lợi nhuận.
Thứ hai, kích thích sự đổi mới, sáng tạo, thúc 
đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Trong kinh 
tế thị trường, ai là người đưa hàng hoá ra thị 
trường trước tiên sẽ thu được nhiều lợi nhuận 
hơn; đồng thời, người sản xuất hàng hoá sẽ tự 
dừng lại, không tiến hành sản xuất nữa nếu hàng 
hoá không còn phù hợp với nhu cầu thị trường; 
chính vì vậy, trong kinh tế thị trường luôn diễn ra 
sự đổi mới, nhờ đó, thúc đẩy lực lượng sản xuất 
phát triển.
Thứ ba, thúc đẩy nâng cao trình độ phân 
công lao động ngày càng xã hội. Trong kinh tế 
thị trường người sản xuất hàng hoá tham gia 
quá trình phân công lao động xã hội trên cơ sở 
phát huy thế mạnh về khả năng và điều kiện sản 
Mặc dù nắm trong tay một nguồn lực lớn của nền kinh tế và nhận được sự quan tâm, ưu ái của Nhà nước; 
tuy nhiên, hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước thường rất thấp, tỷ suất sinh lời trên vốn 
không cao. Vì vậy, xu hướng có tính chất phổ biến trên thế giới là việc Nhà nước rút dần vốn (thoái vốn) 
đầu tư của mình tại các doanh nghiệp (DN); phạm vi và quy mô vốn nhà nước đầu tư vào DN trong nền 
kinh tế cũng ngày càng thu hẹp lại.
Trong bài viết này tác giả trao đổi về vấn đề Nhà nước đầu tư vốn và DN và lý do phải thực hiện thoái 
vốn nhà nước đầu tư vào DN.
• Từ khóa: tái cơ cấu, thoái vốn nhà nước, doanh nghiệp nhà nước.
Ngày nhận bài: 4/10/2019
Ngày chuyển phản biện: 6/10/2019
Ngày nhận phản biện: 19/10/2019
Ngày chấp nhận đăng: 23/10/2019
Although holding a large amount of resources of 
the economy and receiving significant attention 
and favor of the state, state-owned enterprises 
often show inefficiency in performance, with a 
relatively low rate of return on capital. Therefore, 
the gradual withdrawal of capital by the state 
(divestment) in enterprises, narrowing the scope 
and scale of state-owned capital investment in the 
economy has now become a popular trend in the 
world. 
In this article, the author discusses the current 
status of state capital investment in general and 
the need to withdraw state capital invested in 
enterprises.
• Keywords: restructure, state divestment, state-
owned enterprises.
* Học viện Tài chính
PGS.TS. Bùi Văn Vần*
THOAÙI VOÁN DOANH NGHIEÄP NHAØ NÖÔÙC Soá 11 (196) - 2019
7Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
xuất hàng hoá của địa phương, ngành và vùng 
lãnh thổ trong chuỗi giá trị của sản phẩm; vì 
vậy, kinh tế thị trường luôn gắn liền với vấn đề 
phân công lao động quốc tế, nhằm phát huy lợi 
thế so sánh của các quốc gia trong sản xuất và 
trao đổi hàng hoá.
Thứ tư, tạo điều kiện thoả mãn ngày càng 
phong phú nhu cầu về các loại hàng hoá tiêu 
dùng. Kinh tế thị trường đòi hỏi và thúc đẩy sản 
xuất phải gắn với tiêu thụ; buộc người sản xuất 
phải năng động thích nghi với những biến động 
của thị trường, luôn thay đổi mẫu mã, kiểu dáng 
sản phẩm, sản xuất mặt hàng mới và mở rộng 
thị trường tiêu thụ, mở rộng quan hệ trong kinh 
doanh nhằm thu lợi nhuận. Điều này cho phép 
người tiêu dùng có thể thoả mãn tối đa nhu cầu 
tiêu dùng về các loại sản phẩm, hàng hoá, dịch 
vụ tuỳ thuộc vào khả năng thanh toán của mình.
Thứ năm, đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập 
trung sản xuất. Tích tụ và tập trung sản xuất là 
hai con đường để mở rộng quy mô sản xuất. Một 
mặt các DN làm ăn tốt, hiệu quả cao sẽ thực hiện 
quá trình tích luỹ và tích tụ vốn, mở rộng quy 
mô kinh doanh để thu lợi nhuận. Mặt khác, quá 
trình cạnh tranh đã dẫn tới việc các DN nào chiến 
thắng trong cạnh tranh sẽ trụ vững và mở rộng 
quy mô sản xuất và thị phần; các DN yếu sẽ bị 
đào thải khỏi thị trường. Các công ty xuyên quốc 
gia, đa quốc gia, các tập đoàn kinh tế từ đó cũng 
lần lượt ra đời, là kết quả tất yếu của quá trình 
tập trung hoá sản xuất. 
Bên cạnh những ưu điểm kể trên, nền kinh tế 
thị trường cũng bộc lộ không ít mặt nhược điểm 
và khuyết tật, đó là:
Một là, sự phân bổ mất cân đối, gây lãng phí 
các nguồn lực trong nền kinh tế. Do chạy theo 
mục tiêu lợi nhuận tối đa; vì vậy, các nhà sản 
xuất hàng hoá dịch vụ thường tập trung đầu tư 
vào những ngành nghề, hàng hoá và dịch vụ có 
khả năng mang lại tỷ suất sinh lời cao, thời hạn 
thu hồi vốn ngắn; trong khi đó, những ngành 
nghề, sản phẩm, dịch vụ có tỷ suất sinh lời thấp, 
chậm hoàn vốn đầu tư, thường không hấp dẫn 
các nhà đầu tư mặc dù rất cần cho xã hội và nền 
kinh tế. Do vậy, luôn tiềm tàng nguy cơ mất cân 
đối giữa cung và cầu về các loại hàng hoá trên 
thị trường; trong khi hàng hoá, dịch vụ có tỷ suất 
sinh lời cao rơi vào tình trạng khủng hoảng thừa 
do cung vượt cầu, thì những mặt hàng có tỷ suất 
sinh lời thấp lại trong tình trạng khủng hoảng 
thiếu do cung thấp hơn cầu.
Hai là, tính tự phát dẫn đến tập trung hoá cao, 
sinh ra độc quyền, thủ tiêu cạnh tranh, làm giảm 
hiệu quả chung và tính tự điều chỉnh của nền 
kinh tế. Kinh tế thị trường luôn có tính tự phát và 
tìm kiếm lợi nhuận bằng bất cứ giá nào, không 
đi đúng định hướng của Nhà nước và mục tiêu 
về phát triển kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Đây là 
một trong những khuyết tật lớn nhất của nền kinh 
tế thị trường. 
Ba là, làm gia tăng các tiêu cực và tệ nạn xã 
hội. Kinh tế thị trường luôn gắn liền với khủng 
hoảng kinh tế, các DN thất bại trong cạnh tranh 
bị phá sản, nhiều người lao động rơi vào tình 
trạng thất nghiệp, không có việc làm, sự phân 
hoá giàu - nghèo trong xã hội ngày càng sâu sắc, 
phúc lợi xã hội giảm sút... khiến cho xã hội phát 
sinh nhiều tiêu cực, tệ nạn xã hội gắn liền với 
tình trạng kinh tế sa sút, làm trầm trọng thêm sự 
bất ổn trong xã hội.
Bốn là, khai thác, sử dụng tài nguyên quốc 
gia không có kế hoạch, huỷ hoại môi trường sinh 
thái. Việc chạy theo lợi nhuận cao, tìm kiếm lợi 
nhuận bằng mọi giá đã khiến không ít các nhà 
kinh doanh không coi trọng đạo đức kinh doanh 
và trách nhiệm xã hội, cắt giảm chi phí bằng cách 
bỏ qua vấn đề xử lý chất thải, gây ra hậu quả tàn 
khốc về môi trường sinh thái, tàn phá tài nguyên, 
huỷ hoại môi trường sống của cộng đồng, làm 
giảm tốc độ tăng trưởng bền vững của quốc gia.
Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước có 
chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân. 
Để phát huy những mặt tích cực, hạn chế những 
mặt tiêu cực và khắc phục những khuyết tật của 
kinh tế thị trường đòi hỏi Nhà nước phải thực 
hiện sự can thiệp vào nền kinh tế để đảm bảo sự 
ổn định, công bằng và hiệu quả. 
Hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng Nhà nước 
đóng vai trò quan trọng trong hệ thống kinh tế thị 
trường hiện đại hoạt động hiệu quả (mà cốt lõi 
là khu vực kinh tế tư nhân), với vai trò thúc đẩy, 
điều tiết trong việc khắc phục các thất bại của thị 
trường và cung cấp một sân chơi bình đẳng cho 
THOAÙI VOÁN DOANH NGHIEÄP NHAØ NÖÔÙCSoá 11 (196) - 2019
8 Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
mọi DN và cá nhân. Theo Paul A.Samuelson thì: 
“... Bàn tay vô hình đôi khi có thể dẫn nền kinh 
tế đi lầm đường lạc lối”. “Để đối phó với những 
khuyết tật này của cơ chế bàn tay vô hình các 
nền kinh tế hiện đại là hỗn hợp giữa thị trường 
và “bàn tay hữu hình” của thuế má, chi tiêu và 
luật lệ của Chính phủ... Chính phủ là người đề 
ra luật lệ đi đường. Những chức năng đặc biệt 
có tính chất kinh tế là gì? Có ba chức năng: hiệu 
quả, công bằng và ổn định. Hành động của Chính 
phủ về hiệu quả là cố gắng sửa chữa những thất 
bại của thị trường (như độc quyền). Các chương 
trình của Chính phủ nhằm thúc đẩy công bằng, 
dùng các biện pháp như phân phối lại thu nhập 
để phản ánh quan tâm của xã hội đối với người 
nghèo và bất hạnh. Chính sách ổn định hoá nhằm 
làm sòng phẳng chu trình kinh doanh vốn đầy 
rẫy những thăng trầm, làm giảm thất nghiệp, lạm 
phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế”. 
Như vậy, để thực hiện vai trò quản lý vĩ mô 
nền kinh tế quốc dân, Nhà nước phải thực hiện 
đồng thời 4 chức năng: Định hướng, phối hợp, 
kích thích, kiểm soát và điều tiết kinh tế và chính 
sách xã hội.
Để định hướng nền kinh tế thị trường phát 
triển theo mục tiêu kế hoạch của Nhà nước, một 
mặt đòi hỏi Nhà nước phải xây dựng và thực thi 
các chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - 
xã hội trung và dài hạn của quốc gia nhằm định 
hướng và khuyến khích sự phát triển kinh tế; mặt 
khác Nhà nước phải thực hiện hoạt động đầu 
tư xây dựng các cơ sở kinh tế, phát triển những 
ngành nghề, sản phẩm có tính chiến lược đối với 
sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của một 
quốc gia như năng lượng, giao thông, viễn thông 
liên lạc, khai thác tài nguyên...
Tóm lại, để thực hiện và phát huy vai trò 
quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế quốc dân 
trong điều kiện kinh tế thị trường, ở hầu hết 
các quốc gia trên thế giới đều diễn ra việc Nhà 
nước thực hiện đầu tư vốn vào các DN. Việc 
Nhà nước đầu tư vốn vào các DN đã hình thành 
nên thuật ngữ “Vốn nhà nước đầu tư tại DN” 
Vốn nhà nước đầu tư tại DN là một bộ phận cấu 
thành vốn chủ sở hữu của DN có nguồn gốc từ 
ngân sách Nhà nước.
Các DN được Nhà nước đầu tư vốn vào được 
gọi là DN có vốn đầu tư Nhà nước. Nếu Nhà 
nước đầu tư toàn bộ vốn điều lệ của DN thì Nhà 
nước sẽ là chủ sở hữu duy nhất của DN. Trường 
hợp Nhà nước chỉ đầu tư một phần vốn điều lệ 
của DN thì Nhà nước chỉ là một trong các đồng 
chủ sở hữu của DN. Đối với DN mà Nhà nước 
đầu tư 100% vốn điều lệ thì DN đó đương nhiên 
là DNNN (DNNN). Ở nhiều quốc gia, ngoài các 
DN mà Nhà nước đầu tư 100% vốn, trường hợp 
Nhà nước hoặc nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, 
hoặc Nhà nước chỉ đầu tư dưới 50% vốn điều 
lệ nhưng nếu nắm giữ quyền chi phối đối với 
hoạt động của DN thì DN đó cũng được gọi là 
DNNN. 
Nhà nước thực hiện đầu tư vốn vào DN dưới 
nhiều hình thức khác nhau, cụ thể như sau:
Vốn bằng tiền: Đây là việc Nhà nước sử dụng 
vốn NSNN đầu tư trực tiếp thành lập một DN 
mới hoặc đầu tư vốn bổ sung vào DN. Ngoài ra, 
Nhà nước có thể sử dụng một phần hoặc toàn bộ 
số lợi nhuận được chia từ việc góp vốn điều lệ 
vào DN để tái đầu tư tại DN.
Giá trị quyền sử dụng đất: Luật pháp các 
nước đều quy định Nhà nước là chủ sở hữu của 
đất đai và các nguồn tài nguyên khoáng sản kim 
loại và phi kim loại trên lãnh thổ quốc gia; vì 
vậy, Nhà nước có thể góp vốn bằng giá trị quyền 
sử dụng đất có thời hạn và lâu dài vào DN tuỳ 
thuộc vào việc Nhà nước là chủ sở hữu một phần 
hoặc toàn bộ đối với vốn điều lệ của DN. 
Giá trị cổ phần Nhà nước nắm giữ tại các 
DNNN đã thực hiện cổ phần hoá: Với các 
DNNN đã thực hiện cổ phần hoá, từ chỗ là chủ 
sở hữu 100% vốn điều lệ của DN, sau khi thực 
hiện cổ phần hoá, Nhà nước trở thành một trong 
các cổ đông (đồng chủ sở hữu) của công ty cổ 
phần có vốn nhà nước.
Giá trị các khoản viện trợ, quà tặng mà 
DNNN nhận của các đơn vị, tổ chức và cá nhân 
không kể trong hay ngoài nước...
Các tài sản vô chủ, tài sản dôi thừa khi kiểm 
kê DNNN và được hạch toán ghi tăng vốn nhà 
nước tại DNNN.
Ngoài những đặc điểm của vốn nói chung 
(như: i- Vốn là hàng hoá đặc biệt; ii- Vốn phải 
THOAÙI VOÁN DOANH NGHIEÄP NHAØ NÖÔÙC Soá 11 (196) - 2019
9Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
THOAÙI VOÁN DOANH NGHIEÄP NHAØ NÖÔÙCSoá 11 (196) - 2019
đại diện cho một lượng tài sản thực; iii- Vốn luôn 
gắn liền với chủ sở hữu nhất định; iv- Vốn là 
biểu hiện bằng tiền giá trị các loại tài sản dùng 
vào hoạt động kinh doanh; v- Vốn có giá trị về 
mặt thời gian), thì vốn nhà nước đầu tư tại DN 
có một số đặc điểm riêng biệt. Chính những đặc 
điểm này đã dẫn đến tính phức tạp trong quá 
trình quản lý sử dụng, cũng như chi phối hiệu 
quả sử dụng vốn đầu tư của Nhà nước vào DN. 
Những đặc điểm đó là:
Thứ nhất, vốn nhà nước thuộc sở hữu toàn 
dân. 
Khác với vốn của tư nhân, vốn nhà nước đầu 
tư vào DN thuộc sở hữu Nhà nước - sở hữu toàn 
dân. Đây là chủ thể rất khó xác định cụ thể, bởi 
Nhà nước là một hệ thống phức tạp bao gồm 
nhiều cơ quan, bộ máy quản lý được tổ chức, vận 
hành theo các cơ chế rất phức tạp. Xét trên phạm 
vi quốc gia thì Quốc hội là cơ quan quyền lực 
cao nhất đại diện cho toàn dân trong việc quản 
lý và sử dụng các nguồn lực (tài sản) của quốc 
gia thông qua việc xây dựng hệ thống luật pháp 
về tài sản, phê chuẩn các quyết định liên quan 
đến khai thác, sử dụng các nguồn vốn và tài sản 
của quốc gia. Trong thực tế, Chính phủ (gồm bộ 
máy cơ quan Nhà nước ở Trung ương và cơ quan 
Nhà nước ở địa phương) thông qua các Bộ, Ban, 
ngành mới là cơ quan trực tiếp triển khai chỉ đạo 
thực thi luật pháp về quản lý và sử dụng các loại 
vốn và tài sản thuộc sở hữu Nhà nước (toàn dân). 
Như vậy, có thể thấy rằng: không có bất cứ cá 
nhân nào sở hữu thực sự số vốn nhà nước đầu 
tư tại DN như các thành phần kinh tế khác. Chỉ 
có đại diện chủ sở hữu với nhiều cấp đại diện, từ 
Thủ tướng Chính phủ (là người đại diện cao nhất 
thuộc cơ quan hành pháp) cho đến các cấp Bộ, 
Ngành, Uỷ ban nhân dân địa phương và người 
đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại DN - đều là 
các cấp giúp cho Thủ tướng Chính phủ thực hiện 
chức năng này.
Thứ hai, việc đầu tư vốn của Nhà nước thường 
nhằm đa mục tiêu.
Các DNNN được hình thành trước hết để giải 
quyết nhu cầu cung cấp các hàng hoá, dịch vụ 
công - thường là những hàng hoá, dịch vụ mà 
tư nhân không muốn làm (do tỷ suất sinh lời 
thấp hoặc thời gian hoàn vốn lâu, hoặc không 
xác định được hiệu quả kinh tế), hoặc không có 
đủ điều kiện để làm (vốn đầu tư lớn, mức rủi ro 
cao), hoặc tư nhân không được phép làm (các 
loại hàng hoá dịch vụ nhạy cảm, có ảnh hưởng 
trực tiếp tới an ninh quốc gia); hoặc Nhà nước 
không muốn cho tư nhân làm (khai thác tài 
nguyên khoáng sản, hoặc những lĩnh vực có thể 
tạo nguồn thu lớn cho NSNN). Điều này một mặt 
dẫn đến tình trạng phức tạp khi đánh giá hiệu quả 
hoạt động của DNNN; bởi phần lớn các DNNN 
phải sản xuất cung cấp các hàng hoá, dịch vụ đáp 
ứng cho nhu cầu chung của xã hội hoặc của nền 
kinh tế; vì vậy, lợi nhuận không phải là thước đo 
chủ yếu để đánh giá hiệu quả hoạt động của các 
DNNN; mặt khác, sẽ dẫn tới tình trạng ôm đồm, 
không rạch ròi về xác định phạm vi những ngành 
nghề, lĩnh vực và sản phẩm cần thiết duy trì hoạt 
động của DNNN.
Thứ ba, vốn nhà nước dễ bị tổn thất.
Sự tách rời giữa quyền sở hữu vốn nhà nước 
đầu tư vào DN (Quốc hội, Chính phủ và bộ máy 
cơ quan quản lý nhà nước) và quyền sử dụng số 
vốn nhà nước đầu tư vào DN (tập thể người lao 
động trong DN); đặc biệt là, cơ chế nhiều tầng, 
nấc cùng tham gia quản lý, cùng có quyền đưa 
ra quyết định liên quan đến việc đầu tư, chuyển 
nhượng phần vốn nhà nước đầu tư vào DN v.v... 
đã tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến sự thất thoát, mất 
mát nhất là khi thực hiện chuyển đổi sở hữu, cổ 
phần hoá, đánh giá lại DNNN, hay khi tiến hành 
giao, bán, khoán cho thuê DNNN.
Thứ tư, hiệu quả sử dụng vốn nhà nước thường 
không cao.
Các cơ quan quản lý Nhà nước, do không tách 
bạch giữa chức năng quản lý Nhà nước đối với 
hoạt động của DN và quản lý DN với tư cách chủ 
sở hữu; vì vậy, hay can thiệp sâu vào hoạt động 
kinh doanh của DNNN, gây khó khăn cho việc 
điều hành SXKD của DNNN. Nói cách khác cơ 
chế quản lý các DNNN rất phức tạp, nhiều tầng 
nấc, thường xảy ra tình trạng dẫm chân nhau về 
quản lý trong khi trách nhiệm của các cơ quan 
quản lý Nhà nước đối với hiệu quả kinh doanh 
và hiệu quả sử dụng vốn của DNNN lại không 
phân định rõ ràng. Mặt khác, với tư cách là DN 
thuộc sở hữu Nhà nước, các DNNN luôn nhận 
được sự ưu ái từ phía Nhà nước trong việc phân 
10 Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
bổ và sử dụng các nguồn lực và tài nguyên của 
đất nước. Điều này dẫn tới tâm lý ỷ lại, dựa dẫm 
của DNNN vào sự trợ giúp của Nhà nước, thiếu 
tính chủ động trong việc tìm kiếm các nguồn lực, 
cũng như không khuyến khích việc khai thác, sử 
dụng tiết kiệm và có hiệu quả nhất các nguồn lực 
và tài nguyên của đất nước tại các DNNN.
2. DNNN và việc thoái vốn nhà nước đầu tư 
tại doanh nghiệp 
Ở các nước, DNNN được hình thành để thực 
hiện các mục tiêu về kinh tế và công ích nên đầu 
tư và hoạt động trên nhiều lĩnh vực. Tuỳ thuộc 
vào các giai đoạn phát triển của nền kinh tế và 
yêu cầu nắm giữ vốn nhà nước tại các DN mà 
phạm vi ngành nghề và quy mô đầu tư vốn của 
Nhà nước vào các DN cũng thay đổi, song nhìn 
chung, hầu hết các nước đều thu hẹp dần phạm 
vi ngành nghề, lĩnh vực và tỷ lệ tham gia của 
DNNN. Các DNNN chủ yếu tập trung vào các 
ngành, lĩnh vực trọng điểm như giao thông vận 
tải (đường sắt, hàng không, vận tải biển, cảng 
biển,...), truyền thông (thông tin đại chúng, phát 
thanh, truyền hình,...); năng lượng, dịch vụ tài 
chính, ngân hàng và an ninh quốc phòng. Điều 
này đồng nghĩa với việc Nhà nước đã thực hiện 
thoái dần số vốn nhà nước đã đầu tư tại các DN.
Mặc dù đều tồn tại DNNN; tuy nhiên quy mô, 
số lượng và phạm vi hoạt động của DNNN ở 
các quốc gia là không giống nhau. Ở nhiều nước 
châu Á, các DNNN thường giữ vai trò quan trọng 
trong nền kinh tế quốc dân (ở Indonesia tổng 
vốn đầu tư vào DNNN bằng khoảng 40% GDP; 
tại Trung Quốc tỷ lệ này vào 
khoảng 30%; ở Ấn Độ và Thái 
Lan khoảng 25%; tại Malaysia 
và Singapore gần 15%); trong 
khi đó, ở các nước phát triển các 
DNNN thường có số lượng ít, 
vốn đầu tư của Nhà nước vào các 
DN thường nhỏ (bình quân các 
nước OECD có tổng tài sản của 
các DNNN chỉ bằng 15% GDP).
Thoái vốn nhà nước đầu tư 
vào DN là việc Nhà nước rút 
vốn đầu tư ra khỏi các DN. Việc 
thoái vốn nhà nước đầu tư tại DN 
có thể được thực hiện dưới nhiều 
hình thức khác nhau, như: Nhà 
nước thực hiện việc rút một phần 
hoặc toàn bộ vốn đã đầu tư vào DN tuỳ 
theo tầm quan trọng của DN và yêu 
cầu về duy trì vốn nhà nước đầu tư tại 
DN. Sự cần thiết phải thực hiện thoái 
vốn nhà nước đầu tư tại DN xuất phát 
từ các lý do chủ yếu sau:
Một là, xuất phát từ yêu cầu nâng 
cao hiệu quả vốn nhà nước đầu tư tại 
DN.
Khác với DN tư nhân thường gắn 
liền giữa quyền sở hữu vốn và quyền 
quản lý, sử dụng vốn; thì đối với các 
DNNN lại có sự tách rời giữa quyền 
sở hữu và quyền quản lý, sử dụng vốn. 
Bảng 1: Các ngành, lĩnh vực chiến lược mà Nhà nước đầu tư 
Quốc gia 
Bưu 
điện 
Viễn 
thông 
Đường 
sắt 
Cảng 
biển 
Điện 
Than, 
dầu khí 
Hàng 
không 
Ngân 
hàng, 
tài chính 
Truyền 
thông 
Thái Lan X X X X X X X 
Ba Lan X X X X X X X 
Áo X X X X X X 
Pháp X X X X X X X 
Hàn Quốc X X X X X 
Ý X X X X X X X 
Thổ Nhĩ Kỳ X X X X X X X 
Slovakia X X X X X X X 
Phần Lan X X X X X X X 
Canada 
Singapore X X 
Malaysia X X 
Tây Ban Nha X 
Philippines X X X X 
Mặc dù đều tồn tại DNNN; tuy nhiên quy mô và số lượng và phạm vi hoạt động của 
DNNN ở các quốc gia là không giống nhau. Ở nhiều nước châu Á, các DNNN thường giữ vai 
trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân (ở Indonexia tổng vốn đầu tư vào DNNN bằng 
khoảng 40% GDP; tại Trung Quốc tỷ lệ này vào khoảng 30%; ở Ấn Độ và Thái Lan khoảng 
25%; tại Malayxia và Singapore gần 15%) (2); trong khi đó, ở các nước phát triển các DNNN 
thường có số lượng ít, vốn đầu tư của Nhà nước vào các DN thường nhỏ (bình quân các nước 
OECD có tổng tài sản của các DNNN chỉ bằng 15% GDP. 
Bảng 2: Số lượng DNNN và quy mô vốn nhà nước đầu tư vào DN 
ở một số quốc gia 2 năm 2010-2011 
Quốc gia Số DN 
Trong đó, tỷ lệ vốn nhà nước nắm giữ (%) Quy mô 
VĐT/GDP* 100% > 50% < 50% 
Indonesia 146 14 115 17 40% 
Trung Quốc 115 - - - 30% 
Ấn Độ - - - - 25% 
Thái Lan - - - - 25% 
Malaysia 66 - 23 43 15% 
Singapore 35+52** 5 9 73 15% 
Chi Lê 33 - - - 13% 
Trung Quốc 115*** - - - 30% 
Pháp 58 - 50 8 - 
Nguồn: Tổng hợp số liệu từ Bộ Tài chính các nước; Bộ DNNN Indonesia 2010; SASAC; OECD 2011. 
(*) GDP năm 2009. 
(**) Số liệu tính đến tháng 5/2013, số DNNN trung ương 
(***) Gồm 35 DNNN do TEMASEK nắm giữ cổ phần chi phối (TLCs) và 52 DN có yếu tố Chính phủ. 
Thoái vốn nhà nước đầu tư vào DN là việc Nhà nước rút vốn đầu tư ra 
khỏi các DN. Việc thoái vốn Nhà nước đầu tư tại DN có thể được thực hiện dưới 
Bảng 1: Các ngành, lĩnh vực chiến lược mà Nhà nước đầu tư 
Quốc gia 
Bưu 
điện 
Viễn 
thông 
Đường 
sắt 
Cảng 
biển 
Điện 
Than, 
dầu khí 
Hàng 
không 
Ngân 
hàng, 
tài chính 
Truyền 
thông 
Thái Lan X X X X X X X 
Ba Lan X X X X X X X 
Áo X X X X X X 
Pháp X X X X X X X 
Hàn Quốc X X X X X 
Ý X X X X X X X 
Thổ Nhĩ Kỳ X X X X X X X 
Slovakia X X X X X X X 
Phần Lan X X X X X X X 
Canada 
Singapore X X 
Malaysia X X 
Tây Ban Nha X 
Philippines X X X X 
Mặc dù đều tồn tại DNNN; tuy nhiên quy mô và số lượng và phạm vi hoạt động của 
DNNN ở các quốc gia là không giống nhau. Ở nhiều nước châu Á, các DNNN thường giữ vai 
trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân (ở Indonexia tổng vốn đầu tư vào DNNN bằng 
khoảng 40% GDP; tại Trung Quốc tỷ lệ này vào khoảng 30%; ở Ấn Độ và Thái Lan khoảng 
25%; tại Malayxia và Singapore gần 15%) (2); trong khi đó, ở các nước phát triển các DNNN 
thường có số lượng ít, vốn đầu tư của Nhà nước vào các DN thường nhỏ (bình quân các nước 
OECD có tổng tài sản của các DNNN chỉ bằng 15% GDP. 
Bảng 2: Số lượng D và quy mô vốn nhà nước đầu tư vào DN 
ở một số quốc gia 2 năm 2010-2011 
Quốc gia Số DN 
Trong đó, tỷ lệ vốn nhà ước nắm giữ (%) Quy mô 
VĐT/GDP* 100% > 50% < 50% 
Indonesia 146 14 115 17 40% 
Trung Quốc 115 - - - 30% 
Ấn Độ - - - - 25% 
Thái Lan - - - - 25% 
Malaysia 66 - 23 43 15% 
Singapore 35+52** 5 9 73 15% 
Chi Lê 33 - - - 13% 
Trung Quốc 115*** - - - 30% 
Pháp 58 - 50 8 - 
Nguồn: Tổng hợp số liệu từ Bộ Tài chính các nước; Bộ DNNN Indonesia 2010; SASAC; OECD 2011. 
(*) GDP năm 2009. 
(**) Số liệu tính đến tháng 5/2013, số DNNN trung ương 
(***) Gồm 35 DNNN do TEMASEK nắm giữ cổ phần chi phối (TLCs) và 52 DN có yếu tố Chính phủ. 
Thoái vốn nhà nước đầu tư vào DN là việc Nhà nước rút vốn đầu tư ra 
khỏi các DN. Việc thoái vốn Nhà nước đầu tư tại DN có thể được thực hiện dưới 
THOAÙI VOÁN DOANH NGHIEÄP NHAØ NÖÔÙC Soá 11 (196) - 2019
11Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
THOAÙI VOÁN DOANH NGHIEÄP NHAØ NÖÔÙCSoá 11 (196) - 2019
Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu lại thực hiện 
quyền của chủ sở hữu thông qua việc uỷ quyền, 
phân cấp cho các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân 
đại diện chủ sở hữu Nhà nước để quản lý, giám 
sát đối với việc sử dụng vốn - tài sản Nhà nước 
đầu tư tại DN. Điều này đã tiềm ẩn nguy cơ thất 
thoát, lãng phí và sử dụng kém hiệu quả đối 
với số vốn nhà nước đầu tư vào DN, nếu như 
không có cơ chế giám sát chặt chẽ, ràng buộc 
trách nhiệm giữa quyền lợi và nghĩa vụ, trách 
nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân đảm 
nhiệm vai trò đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước 
tại DN. Chính vì vậy, mặc dù được hưởng nhiều 
ưu đãi và sự hỗ trợ của Nhà nước; tuy nhiên, 
DNNN ở các quốc gia đều có đặc điểm chung là: 
hiệu quả kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn của 
các DNNN thường rất thấp. Đây là nguyên nhân 
chủ yếu dẫn tới các DNNN có xu hướng ngày 
một giảm dần cả về số lượng, tỷ trọng và vai trò 
trong nền kinh tế. Ở Việt Nam, theo kết quả một 
nghiên cứu mới đây của Tạ Kim Ngọc (Viện Hàn 
lâm khoa học xã hội Việt Nam) thì: hiệu quả sử 
dụng vốn đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân cao 
gấp hơn 1,2 lần so với mức bình quân chung của 
nền kinh tế và gấp hơn 1,9 lần so với khu vực 
kinh tế Nhà nước; đồng thời nếu mỗi đồng vốn 
bổ sung của khu vực tư nhân Việt Nam đang tạo 
ra doanh thu nhiều gấp 3 lần so với DNNN. Để 
nâng cao vai trò của khu vực kinh tế Nhà nước 
nói chung, DNNN nói riêng, tất yếu phải thực 
hiện thoái vốn nhà nước tại các DNNN làm ăn 
kém hiệu quả, hoặc là để tư nhân đầu tư có hiệu 
quả cao hơn đầu tư của Nhà nước.
Hai là, xuất phát từ yêu cầu tái cơ cấu vốn 
nhà nước đầu tư tại DN 
Trong thời kỳ đầu, do nhận thức về vai trò chủ 
đạo của kinh tế Nhà nước; vì vậy, nhiều quốc gia 
đã thực hiện đầu tư vốn nhà nước dàn trải vào 
hầu hết các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế; điều 
này chẳng những kìm hãm sự phát triển của khu 
vực kinh tế tư nhân, vừa dẫn tới hiệu quả của đầu 
tư công rất thấp, ảnh hưởng tới tăng trưởng của 
nền kinh tế.
Để thực sự phát huy vai trò điều tiết kinh tế 
vĩ mô, Nhà nước chỉ nên nắm giữ 100% vốn với 
các DN ở những ngành, lĩnh vực có tính chất 
then chốt trong nền kinh tế, có ảnh hưởng trực 
tiếp tới các lĩnh vực an ninh, quốc phòng, an 
sinh xã hội mà tư nhân hoặc không được phép 
sở hữu; hoặc không đủ tiềm lực tài chính để đầu 
tư; hoặc không hấp dẫn với các nhà đầu tư do tỷ 
suất sinh lời thấp, thời gian hoàn vốn kéo dài. Ở 
nhiều quốc gia trên thế giới, nguồn vốn đầu tư 
của NSNN chỉ đóng vai trò “vốn mồi” để thu hút 
vốn đầu tư của tư nhân; sau đó, Nhà nước thoái 
dần vốn góp, giảm dần tỷ lệ sở hữu, thậm chí 
chuyển nhượng toàn bộ phần vốn đầu tư của Nhà 
nước vào DN cho tư nhân. 
Chương trình chuyển đổi sở hữu trong tiến 
trình cải cách DNNN trên thế giới đã diễn ra 
mạnh mẽ và sôi động ngay từ đầu thập kỷ 80 
của thế kỷ 20 với xuất phát điểm từ nước Anh và 
sau đó lan rộng sang các nước khác. Ở các nước 
Đông Âu, phong trào cổ phần hoá (CPH) và đa 
dạng hoá sở hữu DNNN được phát động từ đầu 
thập niên 90 và cơ bản hoàn thành trong những 
năm cuối của thế kỷ 20. Mỗi quốc gia đều đưa ra 
các mục tiêu cụ thể khác nhau; tuy nhiên, về cơ 
bản mục tiêu của chương trình cải cách DNNN ở 
các nước đều nhằm đến việc nâng cao năng lực 
SXKD của DN, qua đó góp phần thúc đẩy kinh 
tế phát triển; giảm thiểu các DNNN làm ăn thua 
lỗ, tối đa hoá các DN làm ăn có lãi và các khoản 
thu cho NSNN, tạo nguồn để giải quyết các vấn 
đề kinh tế - xã hội khác. Ngoài ra, qua công tác 
CPH, Chính phủ các nước muốn chuyển một số 
lĩnh vực ngành nghề mà các khu vực kinh tế khác 
đảm nhiệm sẽ có lợi hơn, giảm bớt gánh nặng 
cho NSNN.
Tài liệu tham khảo:
Paul A. Samuelson and Wiliam D. Noidhaus, Kinh tế 
học, Viện quan hệ quốc tế, 1989, tập 1, trang 57-63.
Theo số liệu năm 2019 - Policybrief on corporate 
governance of State - Owned Enterprises in Asia, OECD 
2010.
Tạ Kim Ngọc, “Rào cản tăng năng suất lao động của 
Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế - Tài chính Việt Nam, số 5, 
tháng 10/2019, trang 31.
Nguyễn Duy Gia, “Một số vấn đề về Nhà nước quản lý 
vĩ mô nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”, NXB Chính trị 
quốc gia, Hà Nội, 1996.
Ban kinh tế trung ương, “Diễn đàn kinh tế Việt Nam 
2017- Phát huy nội lực, tăng trưởng bền vững”, 27/06/2017.

File đính kèm:

  • pdfvon_nha_nuoc_dau_tu_vao_doanh_nghiep_va_thoai_von_nha_nuoc_d.pdf