Vốn chủ sở hữu, sở hữu nhà nước, bán nợ xấu và rủi ro tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Bài viết nhằm khảo sát tác động của vốn chủ sở hữu, sở hữu nhà nước và
việc ngân hàng thương mại (NHTM) bán nợ xấu cho Công ty quản lý tài
sản (VAMC) đến rủi ro tại các NHTM Việt Nam. Bài viết sử dụng dữ liệu
nghiên cứu trong giai đoạn 2005- 2016, bằng phương pháp bình phương
tối thiểu (pool OLS), phương pháp tác động cố định (fixed effect- FE) và
phương pháp tác động ngẫu nhiên (random effect- RE). Kết quả nghiên cứu
đã cho thấy: (1) Vốn chủ sở hữu có tác động tích cực trong việc gia tăng
ổn định và giảm rủi ro ngân hàng. Kết quả chỉ ra tồn tại mối quan hệ chữ
U- mối quan hệ phi tuyến tính giữa vốn chủ sở hữu và rủi ro tại các NHTM
Việt Nam; (2) Sở hữu nhà nước làm giảm ổn định và gia tăng rủi ro tại các
NHTM Việt Nam; (3) Các NHTM bán nợ xấu cho VAMC có tác động tích
cực đến ổn định và làm giảm rủi ro ngân hàng; (4) Tăng trưởng GDP làm
giảm ổn định, gia tăng rủi ro ngân hàng; và lạm phát có tác động tích cực
đến rủi ro ngân hàng.
Từ khóa: Vốn chủ sở hữu, Sở hữu nhà nước, Bán nợ xấu, VAMC, Rủi ro
ngân hàng
Tóm tắt nội dung tài liệu: Vốn chủ sở hữu, sở hữu nhà nước, bán nợ xấu và rủi ro tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
25 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 215- Tháng 4. 2020 Vốn chủ sở hữu, sở hữu nhà nước, bán nợ xấu và rủi ro tại các ngân hàng thương mại Việt Nam Thân Thị Thu Thuỷ Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh Võ Thị Danh Thuyên Kho bạc Nhà nước Long An Ngày nhận: 22/08/2019 Ngày nhận bản sửa: 09/10/2019 Ngày duyệt đăng: 21/10/2019 Bài viết nhằm khảo sát tác động của vốn chủ sở hữu, sở hữu nhà nước và việc ngân hàng thương mại (NHTM) bán nợ xấu cho Công ty quản lý tài sản (VAMC) đến rủi ro tại các NHTM Việt Nam. Bài viết sử dụng dữ liệu nghiên cứu trong giai đoạn 2005- 2016, bằng phương pháp bình phương tối thiểu (pool OLS), phương pháp tác động cố định (fixed effect- FE) và phương pháp tác động ngẫu nhiên (random effect- RE). Kết quả nghiên cứu đã cho thấy: (1) Vốn chủ sở hữu có tác động tích cực trong việc gia tăng ổn định và giảm rủi ro ngân hàng. Kết quả chỉ ra tồn tại mối quan hệ chữ U- mối quan hệ phi tuyến tính giữa vốn chủ sở hữu và rủi ro tại các NHTM Việt Nam; (2) Sở hữu nhà nước làm giảm ổn định và gia tăng rủi ro tại các NHTM Việt Nam; (3) Các NHTM bán nợ xấu cho VAMC có tác động tích cực đến ổn định và làm giảm rủi ro ngân hàng; (4) Tăng trưởng GDP làm giảm ổn định, gia tăng rủi ro ngân hàng; và lạm phát có tác động tích cực đến rủi ro ngân hàng. Từ khóa: Vốn chủ sở hữu, Sở hữu nhà nước, Bán nợ xấu, VAMC, Rủi ro ngân hàng Equity, government ownership, selling bad debts and risks of Vietnam’s Commercial Banks Abstract: This paper explores the effects of equity, government ownership and the selling bad debts of commercial banks to Vietnam Asset Management Company (VAMC) to the risks of Vietnam’s Commercial Banks in the period of 2005-2016. Employing pooled OLS, fixed effects and random effects estimations, this paper shows several concluding remarks: (1) equity capital positively affects bank stability and diminishes bank risks. More specifically, the relation between equity capital and bank risks is non-linear; (2) government ownership negatively affects bank stability and increases bank risks; (3) the selling bad debts of commercial banks to VAMC positively affects bank stability and diminishes bank risks; (4) GDP growth reduces bank stability and increases bank risks while inflation has a positive effects on bank risks. Keywords: Equity, Government ownership, Selling bad debts, VAMC, Bank risks Thuy Thi Thu Than, PhD. Email: thuynh@ueh.edu.vn University of Economics Ho Chi Minh City Thuyen Thi Danh Vo, M.Ec. Email: danhthuyenbk@yahoo.com State Treasury of Long An Vốn chủ sở hữu, sở hữu nhà nước, bán nợ xấu và rủi ro tại các ngân hàng thương mại Việt Nam 26 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 215- Tháng 4. 2020 1. Giới thiệu Vai trò của quy định vốn trong các NHTM với sự ra đời của Basel I (1988), Basel II (2004) và Basel III (2010) đã và đang là chủ đề quan trọng. Để nâng cao chất lượng vốn và dần chuẩn hoá vốn theo tiêu chuẩn quốc tế, tháng 12/2016, 10 NHTM được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) chọn thí điểm áp dụng quản lý rủi ro theo tiêu chuẩn Basel II, đó là Vietcombank, BIDV, Vietinbank, VPBank, Sacombank, MB, ACB, Techcombank, Maritime Bank và VIB. Trước đó, sự ra đời của Nghị định 141/2006/NĐ-CP của Chính phủ được ban hành ngày 22/11/2006 qui định các NHTM phải có lộ trình gia tăng vốn điều lệ lên 3.000 tỷ đồng vào giai đoạn 2008- 2010, đã tác động đến việc gia tăng vốn tại các NHTM Việt Nam và việc gia tăng này tác động đến rủi ro tại các NHTM. La Porta & ctg (2002) khẳng định, sở hữu nhà nước trong các ngân hàng là phổ biến và khá lớn trên thế giới, đặc biệt tại các quốc gia thu nhập đầu người thấp, hệ thống tài chính kém phát triển, sự can thiệp của chính phủ và quyền bảo vệ tài sản yếu. Thực tế tại Việt Nam, NHTM nhà nước luôn chiếm thị phần trọng yếu trong hệ thống NHTM. Do vậy nghiên cứu tìm hiểu tác động của vốn chủ sở hữu, sở hữu nhà nước và việc NHTM bán nợ xấu cho VAMC đến rủi ro tại các NHTM Việt Nam là rất cần thiết. 2. Các nghiên cứu thực nghiệm về vốn chủ sở hữu, sở hữu nhà nước, xử lý nợ xấu và rủi ro tại các ngân hàng thương mại Có nhiều nghiên cứu thực nghiệm được nghiên cứu ở các bối cảnh khác nhau về vốn chủ sở hữu, sở hữu nhà nước, xử lý nợ xấu và rủi ro tại các NHTM. Agusman & ctg (2014) nghiên cứu sự can thiệp của Chính phủ vào ngân hàng Indonesia giai đoạn 1995- 2003. Các công cụ được sử dụng để đo lường rủi ro như độ lệch chuẩn của lợi nhuận, tỷ số tài sản thanh khoản trên tổng tài sản, tỷ lệ dự phòng nợ trên tổng nợ. Còn sự can thiệp của Chính phủ được đo lường thông qua chương trình tái cấp vốn của Chính phủ, và hai biến giả thời gian CAR4 (bằng 1 trong giai đoạn 1998-2000, bằng 0 nếu giai đoạn khác) và BNC4 (bằng 1 trong giai đoạn 2001-2003, bằng 0 nếu giai đoạn khác) cũng được sử dụng, cùng với các biến kiểm soát khác như tổng tài sản và tỷ giá hối đoái. Thông qua mô hình tác động cố định (fixed effect) và mô hình tác động ngẫu nhiên (random effect), nghiên cứu này đã đi đến kết luận rằng Chính phủ và các chủ sở hữu tăng cường bổ sung vốn góp, rủi ro thanh khoản sẽ giảm xuống đồng thời khi Chính phủ loại bỏ các khoản nợ xấu từ các ngân hàng có vấn đề làm rủi ro tín dụng của ngân hàng cũng giảm. Ngoài ra, mối quan hệ chữ U được tìm thấy trong nghiên cứu của Calem & Rob (1999). Nghiên cứu của hai tác giả này chỉ ra rằng tồn tại mối quan hệ phi tuyến tính giữa vốn chủ sở hữu và rủi ro ngân hàng. Đó là lúc đầu tăng vốn, rủi ro sẽ giảm nhưng sau đó nếu tiếp tục tăng vốn, rủi ro sẽ tăng. Xét về mặt tác động của sở hữu nhà nước đến rủi ro ngân hàng, nhiều ý kiến trái chiều xung quanh vấn đề này. Cornett & ctg (2010) chỉ ra rằng việc sở hữu nhà nước tại các ngân hàng làm cho rủi ro tại các ngân hàng gia tăng, và sự khác biệt này càng mạnh hơn trong hệ thống ngân hàng mà sự can thiệp của Chính phủ lớn hơn. Iannotta & ctg (2013) tìm thấy rủi ro vỡ nợ từ các ngân hàng thuộc sở hữu nhà THÂN THỊ THU THUỶ - VÕ THỊ DANH THUYÊN 27Số 215- Tháng 4. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng nước thấp hơn ngân hàng tư nhân, nhưng rủi ro hoạt động cao hơn. Sự bảo hộ của Chính phủ làm cho rủi ro tại các ngân hàng sở hữu bởi nhà nước có rủi ro cao hơn bởi các ngân hàng sở hữu nhà nước ít thận trọng trong cho vay hơn các ngân hàng cổ phần. Tuy nhiên, Bertay & ctg (2015) lại chỉ ra, trong suốt chu kỳ kinh doanh cũng như giai đoạn bất ổn tài chính các NHTM nhà nước vẫn đóng vai trò hữu ích trong việc ổn định tín dụng. Hryckiewicz (2014) nghiên cứu tác động của sự can thiệp của Chính phủ đến rủi ro ngân hàng bằng việc sử dụng dữ liệu của 23 cuộc khủng hoảng tài chính tại 23 quốc gia. Các biến rủi ro như chỉ số Z-score, độ biến động lợi nhuận, tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản, còn các biến độc lập gồm bảo lãnh toàn phần, dự phòng thanh khoản, sáp nhập dưới sự hỗ trợ của Chính phủ, quốc hữu hóa ngân hàng và công ty quản lý tài sản cùng với một bộ biến kiểm soát. Thông qua phương pháp ước lượng bình phương nhỏ nhất (OLS), tác giả này đã tìm thấy rằng sự can thiệp của Chính phủ làm giảm sự ổn định của ngân hàng và gia tăng rủi ro cho các tổ chức này. 3. Giả thuyết nghiên cứu Để khảo sát tác động của vốn chủ sở hữu, sở hữu nhà nước và NHTM bán nợ xấu cho VAMC đến rủi ro ngành ngân hàng của Việt Nam, tác giả đặt ra giả thuyết như sau: H 1 : Vốn chủ sở hữu tác động đến rủi ro tại các NHTM Việt Nam, gồm 02 giả thuyết: H 1.1 : Vốn chủ sở hữu tác động ngược chiều (-) đến rủi ro tại các NHTM Việt Nam. H 1.2 : Vốn chủ sở hữu có mối quan hệ phi tuyến tính với rủi ro tại các NHTM Việt Nam. H 2 : Sở hữu nhà nước tại các ngân hàng có tác động thuận chiều (+) đến rủi ro tại các NHTM Việt Nam. H 3 : Các ngân hàng bán nợ xấu cho VAMC có tác động ngược chiều (-) đến rủi ro tại các NHTM Việt Nam. 4. Phương pháp nghiên cứu 4.1. Mô hình nghiên cứu Dựa vào nghiên cứu của Hryckiewicz (2014), nghiên cứu sử dụng phương trình hồi qui như sau: Riskit = α0 + α1EQUi, t + α2EQUsqit + β 1 StateRit + ϑVAMit + δnXi,t + θ k Mt + εit (1) Trong đó: Biến phụ thuộc: Risk i,t : biến phụ thuộc, đo lường rủi ro. Các biến đo lường rủi ro là lnZ, lnZ5, sdROE. Trước tiên, biến Z_score (viết tắt Z) được dùng đo lường rủi ro theo cách tiếp cận của Hryckiewicz (2014), Dong & ctg (2014). Cách đo lường biến Z như sau: Z i,t đo lường nghịch đảo xác suất rủi ro vỡ nợ của ngân hàng, đo lường sự ổn định của ngân hàng, với ROA: tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản; EQU: tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản; ϬROA : độ lệch chuẩn của ROA. Theo cách tiếp cận của Uyemura & Deventer (1993), nghiên cứu này sử dụng ϬROA để tính toán đo lường rủi ro, với độ lệch chuẩn của ROA được lấy trung bình trượt 03 năm; it là tính toán Vốn chủ sở hữu, sở hữu nhà nước, bán nợ xấu và rủi ro tại các ngân hàng thương mại Việt Nam 28 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 215- Tháng 4. 2020 cho ngân hàng i ở thời gian t. Chỉ số Z càng cao chỉ ra ngân hàng càng ổn định, rủi ro càng thấp. Để giảm tính thiên lệch, nghiên cứu này được lấy logarit của Z. Bên cạnh đó, bài viết cũng sử dụng trung bình trượt 05 năm của độ lệch chuẩn ROA để tính chỉ số Z5 theo cách tiếp cận của García-Kuhnert & ctg (2015). Tương tự, Z5 cũng được lấy logarit để giảm tính thiên lệch. Ngoài ra, Uyemura & Deventer (1993) cũng sử dụng độ lệch chuẩn của tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu (sdROE) để đo lường rủi ro. Chỉ số này càng cao, rủi ro càng lớn. Chỉ số này được đo lường là trung bình trượt 03 năm của tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu (ROE). Các biến độc lập vốn chủ sở hữu, sở hữu nhà nước, bán nợ xấu cho VAMC: Để khảo sát mối quan hệ giữa vốn chủ sở hữu, sở hữu nhà nước, bán nợ xấu cho VAMC và rủi ro ngân hàng, ba biến đo lường được sử dụng gồm tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản (EQU), tỷ lệ sở hữu nhà nước tại NHTM (StateR), bán nợ xấu cho VAMC (VAM). Mặt khác, để khảo sát tác động phi tuyến tính của vốn chủ sở hữu đến rủi ro, biến EQUsq được sử dụng. - EQU: chỉ số vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản là chỉ số được sử dụng rộng rãi khi khảo sát tác động của vốn chủ sở hữu đến rủi ro (García-Kuhnert & ctg, 2015). Chỉ số này càng cao rủi ro ngân hàng giảm. Nghiên cứu kỳ vọng vốn chủ sở hữu có mối quan hệ ngược chiều với rủi ro. Dấu kỳ vọng của biến EQU là “-”. - EQUsq: Theo Calem & Rob (1999) vốn chủ sở hữu có mối quan hệ chữ U với rủi ro ngân hàng. Do đó, để khảo sát mối quan hệ này trong bối cảnh các NHTM Việt Nam, tác giả sử dụng biến EQU bình phương (EQUsq) với dấu kỳ vọng của biến EQUsq trong mối quan hệ với rủi ro trong nghiên cứu này là “-; +”. - StateR: tiếp cận theo Dong & ctg (2014), tác giả sử dụng tỷ lệ kiểm soát của chính phủ trong ngân hàng. Kế thừa nghiên cứu của Cornett & ctg (2010), nghiên cứu kỳ vọng tỷ lệ sở hữu nhà nước càng cao, rủi ro càng cao. Dấu kỳ vọng của biến StateR trong mối quan hệ với rủi ro trong nghiên cứu này là “+”. - VAM: Các NHTM bán nợ xấu cho VAMC được đo lường bởi biến VAM. Theo Hryckiewicz (2014), VAM= 1 nếu ngân hàng bán nợ xấu cho VAMC, VAM= 0 nếu khác. Nghiên cứu kỳ vọng việc bán nợ xấu cho VAMC sẽ làm giảm rủi ro cho các NHTM Việt Nam. Dấu kỳ vọng của biến VAM trong mối quan hệ với rủi ro là “-”. Các biến đo lường đặc thù ngân hàng (các biến X): Các biến X gồm 3 biến sau: - lnTS: tổng tài sản thường được dùng để đo lường tính kinh tế theo quy mô, được nhiều nghiên cứu sử dụng làm kiểm soát khi khảo sát rủi ro ngân hàng (Dong & ctg, 2014; Hryckiewicz, 2014). Để giảm tính thiên lệch, tổng tài sản được lấy logarit. Nghiên cứu kỳ vọng tổng tài sản tăng sẽ làm giảm rủi ro ngân hàng. Dấu kỳ vọng của biến lnTS là “-”. - CRD: là tổng cho vay khách hàng trên tổng tài sản để đo lường hoạt động ngân hàng. Theo Hryckiewicz (2014), hoạt động cho vay có thể làm gia tăng rủi ro ngân hàng, vì vậy, dấu kỳ vọng của biến CRD là “+”. THÂN THỊ THU THUỶ - VÕ THỊ DANH THUYÊN 29Số 215- Tháng 4. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng - Listdum: Theo Dong & ctg (2014), việc niêm yết sẽ làm cho các ngân hàng hoạt động minh bạch hơn, từ đó giảm thiểu rủi ro cho các ngân hàng. Do đó, biến ngân hàng niêm yết (Listdum) được sử dụng. Listdum bằng 1 nếu NHTM niêm yết, bằng 0 nếu khác. Kỳ vọng biến Listdum sẽ làm giảm rủi ro cho các NHTM Việt Nam. Dấu kỳ vọng của biến Listdum là “-”. Các biến môi trường (các biến M): Các biến M gồm có GDPGr và LP. Lý do đưa các biến môi trường vào mô hình nghiên cứu là tại Việt Nam, tăng trưởng kinh tế và lạm phát có tác động khá mạnh mẽ đến nền kinh tế cũng như đến hoạt động của các NHTM Việt Nam. Chẳng hạn vào giai đoạn 2008- 2011, lạm phát rất cao làm cho hệ thống tín dụng, bất động sản đóng băng, vấn đề trả nợ cho các ngân hàng rất khó khăn, gia tăng tiền mặt và rủi ro cho các ngân hàng. - GDPGr: Biến tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) được sử dụng trong nhiều nghiên cứu thực nghiệm trong thời gian qua khi khảo sát rủi ro ngân hàng (Dong & ctg, 2014, Hryckiewicz, 2014). Quá trình tăng trưởng kinh tế cũng ảnh hưởng sâu sắc tới sự phát triển hệ thống tài chính Việt Nam khi tăng trưởng kinh tế có tác động tích cực đến tỷ lệ tiết kiệm trong dân cư, khiến tổng lượng tiền gửi gia tăng đáng kể. Khi nền kinh tế tăng trưởng tốt, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh được thúc đẩy, các doanh nghiệp làm ăn thuận lợi, khả năng trả nợ vay ngân hàng được đảm bảo, nhờ đó mà nợ xấu giảm. Nghiên cứu kỳ vọng rằng khi nền kinh tế tăng trưởng càng cao, rủi ro của các ngân hàng càng thấp. Dấu kỳ vọng của biến GDPGr là “-”. - LP: Ngoài những nhân tố trên, lạm phát là nhân tố được hầu hết các nghiên cứu quan tâm khi nghiên cứu tác động đến rủi ro ngân hàng (Hryckiewicz, 2014). Bài nghiên cứu này cũng sử dụng biến này với kỳ vọng khi lạm phát càng tăng, các ngân hàng hoạt động càng rủi ro. Dấu kỳ vọng của biến LP là “+”. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Để ước lượng mô hình (1) theo cách tiếp cận của Hryckiewicz (2014), bài nghiên cứu sử dụng phương pháp bình phương tối thiểu (pool OLS). Ngoài ra, phương pháp tác động cố định (fixed effect- FE) và phương pháp tác động ngẫu nhiên (random effect- RE) được sử dụng để kiểm tra độ vững của kết quả nghiên cứu. 4.3. Dữ liệu nghiên cứu - Mẫu nghiên cứu: Vì số lượng NHTM Việt Nam không nhiều nên nhóm tác giả đã thu thập hết dữ liệu của 35 NHTM. Dữ liệu được thu thập thủ công, sau đó tiến hành loại bỏ các biến không có đầy đủ thông tin cần thiết để tính toán các biến trong mô hình. Điều kiện để một ngân hàng được lựa chọn nghiên cứu là có 05 quan sát trở lên. Dữ liệu còn lại sau khi được làm sạch là 26 NHTM Việt Nam gồm có 041 NHTM Nhà nước và 22 NHTM cổ phần. - Nguồn dữ liệu nghiên cứu: Dữ liệu nghiên cứu được thu t ... chủ sở hữu sẽ làm giảm rủi ro và giúp giảm nguy cơ khó khăn tài chính của ngân hàng. Một mức vốn chủ sở hữu đủ lớn thể hiện nội lực ngân hàng mạnh khi có biến cố xảy ra nhờ khả năng hấp thụ những khoản thua lỗ lớn phát sinh không dự tính trước được, sẽ giúp tránh được những vụ phá sản ngân hàng. Như vậy, việc gia tăng vốn điều lệ của các NHTMCP theo Nghị định 141/2006/NĐ- CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 10/2011/NĐ-CP) đã phát huy tác dụng nhằm hấp thụ các tổn thất cũng như giảm thiểu rủi ro đạo đức cho ngành ngân hàng. Biến bình phương tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản (EQUsq): Tồn tại mối quan hệ phi tuyến tính- chữ U giữa vốn chủ sở hữu và rủi ro tại các NHTM Việt Nam. Giả thuyết tiếp theo được đặt ra liên quan đến vốn chủ sở hữu là H 1.2 : Vốn chủ sở hữu có mối quan hệ phi tuyến tính với rủi ro tại các NHTM Việt Nam. Kết quả chỉ ra tồn tại mối quan hệ chữ U- mối quan hệ phi tuyến tính giữa vốn chủ sở hữu và rủi ro tại các NHTM Việt Nam. Nghĩa là ban đầu tăng vốn chủ sở hữu thì rủi ro sẽ giảm, tuy nhiên sau đó nếu tiếp tục tăng vốn chủ sở hữu, rủi ro sẽ gia tăng. Điều này phù hợp với giả thuyết H 1.2 cũng như phát hiện của Calem và Rob (1999) về mối quan hệ này. Nghị định 141/2006/NĐ-CP ngày 22/11/2006 yêu cầu các NHTMCP phải gia tăng vốn pháp định từ 1.000 tỷ đồng lên 3.000 tỷ đồng trong giai đoạn 2008- 2010 và được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định 10/2011/NĐ-CP ngày 26/01/2011 gia hạn thời gian tăng vốn đến chậm nhất vào ngày 31/12/2011. Và phải đến cuối năm 2012, tất cả các NHTMCP Việt Nam mới hoàn tất tăng vốn theo nghị định này. Lợi ích của việc gia tăng vốn này đã được minh chứng: Việc gia tăng vốn điều lệ đã giúp các NHTM giảm rủi ro, tuy nhiên, việc gia tăng vốn này chỉ phát huy mặt có lợi là vốn chủ sở hữu thực thông qua huy động vốn trên thị trường chứng khoán; góp vốn từ cổ đông chiến lược, cổ đông có tổ chức, các đối tác nước ngoài, chứ không phải dưới sức ép sáp nhập phải tăng vốn chủ sở hữu bằng mọi cách, kể cả từ các nguồn không hợp lệ. Điều này sẽ dẫn đến ban đầu tăng vốn chủ sở hữu, rủi ro sẽ giảm; tuy nhiên sau đó nếu tiếp tục tăng, rủi ro sẽ gia tăng. Khi vốn chủ sở hữu tăng thì các ngân hàng có xu hướng chấp nhận rủi ro cao hơn nhằm tìm kiếm lợi nhuận nhiều hơn.Việc tăng vốn sở hữu quá nhanh cũng đã gia tăng áp lực trong việc chi trả cổ tức cho các cổ đông, do đó các ngân hàng để ổn định thu nhập buộc phải tăng trưởng tín dụng nhằm tăng trưởng tổng tài sản. Khi trình độ quản lý của các ngân hàng không theo kịp tốc độ tăng tổng tài sản sẽ dẫn đến chất lượng tín dụng kém, từ đó gia tăng rủi ro cho các ngân hàng. Kết quả này ủng hộ việc Chính phủ Vốn chủ sở hữu, sở hữu nhà nước, bán nợ xấu và rủi ro tại các ngân hàng thương mại Việt Nam 42 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 215- Tháng 4. 2020 quyết liệt giảm thiểu sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng Việt Nam. Ngoài ra, nhóm tác giả cũng khuyến nghị nhà hoạch định chính sách có những quyết sách quan trọng hơn để việc gia tăng vốn cả số lượng lẫn chất lượng mang đầy đủ ý nghĩa vốn có của vốn chủ sở hữu ngoài vấn đề giảm thiểu sở hữu chéo nhằm mục tiêu cốt lõi là hấp thụ các tổn thất cũng như giảm thiểu rủi ro đạo đức cho ngành ngân hàng. Biến sở hữu nhà nước (State): Sở hữu nhà nước làm giảm ổn định và gia tăng rủi ro cho các ngân hàng. Mục tiêu nghiên cứu tiếp theo là xác định tác động của sở hữu nhà nước đến rủi ro ngân hàng tại các NHTM Việt Nam, và câu hỏi gắn với giả thuyết đặt ra là H 2 : Sở hữu nhà nước tại các NHTM có tác động thuận chiều (+) đến rủi ro tại các NHTM Việt Nam. Kết quả kiểm định giả thuyết này là sở hữu nhà nước làm giảm ổn định và gia tăng rủi ro tại các NHTM Việt Nam. Kết quả này phù hợp với Cornett và ctg (2010), Iannotta và ctg (2013) và cũng phù hợp với giả thuyết H 2 . Tại Việt Nam, những NHTM có tỷ lệ sở hữu Nhà nước như Agribank, Vietinbank, Vietcombank và BIDV thì ngoài hoạt động kinh doanh của một NHTM, các ngân hàng này còn có vai trò chi phối, dẫn dắt thị trường và là lực lượng chủ đạo của hệ thống NHTM Việt Nam. Trong quá trình cơ cấu lại các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011- 2015, Vietcombank được NHNN chỉ định điều hành và tái cấu trúc NHTMCP Xây dựng; Vietinbank được chỉ định quản trị và điều hành NHTMCP Đại Dương và NHTMCP Dầu khí toàn cầu; NHNN chỉ định BIDV đảm nhiệm một số vị trí lãnh đạo chủ chốt để quản trị, điều hành và kiểm soát NHTMCP Đông Á. Tuy nhiên, những ngân hàng lớn thường tham gia vào nhiều hoạt động có rủi ro cao như cho vay các dự án đầu tư lớn với thời gian thu hồi vốn dài, đầu tư vào những tài sản tài chính có rủi ro cao, nhằm mang lại lợi nhuận cao. Và cho đến hiện nay thì NHTM Nhà nước là người cho vay lớn nhất đối với các doanh nghiệp Nhà nước, mặc dù nhiều dự án kém hiệu quả và một số doanh nghiệp Nhà nước hoạt động yếu kém. Đây là áp lực lớn ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động và rủi ro cho các NHTM Nhà nước. “Theo các chuyên gia kinh tế thì nợ xấu tập trung chủ yếu vào lĩnh vực bất động sản và chứng khoán, trong đó, nợ xấu tại khu vực doanh nghiệp Nhà nước rất lớn. Số liệu của một số nhà nghiên cứu cho thấy khu vực doanh nghiệp Nhà nước hiện đóng góp vào 70% nợ xấu của toàn hệ thống, trong đó các tập đoàn kinh tế, tổng công ty chiếm 53% số nợ xấu” (Hoàng Xuân Hoà & cs, 2013). Hiện nay, một số NHTM Việt Nam có tỷ lệ sở hữu Nhà nước rất cao. Điều này đồng nghĩa với các thành phần sở hữu khác không thể hoặc tham gia sở hữu với tỷ lệ rất thấp. Việc duy trì tỷ lệ sở hữu nhà nước quá cao tại các NHTM vô hình là bước cản trở hiệu quả hoạt động của các ngân hàng này. Do đó, trong thời gian tới cần phải chú trọng đến việc giảm tỷ lệ sở hữu Nhà nước tại các NHTM. Biến NHTM bán nợ xấu cho VAMC: Các NHTM bán nợ xấu cho VAMC có tác động tích cực đến ổn định và làm giảm rủi ro ngân hàng. Mục tiêu nghiên cứu thứ ba là xác định tác động của việc các NHTM bán nợ xấu cho VAMC đến rủi ro tại các NHTM Việt Nam. Theo đó, câu hỏi nghiên cứu cùng giả thuyết đặt ra là H 3 : Các ngân hàng bán nợ xấu cho VAMC có tác động ngược chiều (-) đến rủi ro tại các NHTM Việt Nam. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy các NHTM bán nợ xấu thông qua VAMC THÂN THỊ THU THUỶ - VÕ THỊ DANH THUYÊN 43Số 215- Tháng 4. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng có tác động tích cực đến ổn định và làm giảm rủi ro ngân hàng. Kết quả này phù hợp với kết luận của Agusman và ctg (2014) và phù hợp với với giả thuyết H 3. Do đó, Chính phủ cần phải có những chính sách kịp thời và khả thi để VAMC phát huy hơn nữa trong việc làm lành mạnh tài chính cho các NHTM Việt Nam, như đã kiên quyết thực thi tăng vốn điều lệ của VAMC từ 500 tỷ đồng (NĐ 53/2013/ NĐ-CP) lên 2.000 tỷ đồng (NĐ 34/2015/ NĐ-CP), 5.000 tỷ đồng giai đoạn 2017- 2018, và sẽ được tăng lên gấp đôi, lên 10.000 tỷ đồng trong giai đoạn 2019- 2020 theo Quyết định số 1058/QĐ-TTg ngày 19/7/2017 để bổ sung nguồn vốn mua nợ xấu theo giá trị thị trường. Biến tăng trưởng GDP (GDPGr): Tăng trưởng GDP làm giảm ổn định và gia tăng rủi ro ngân hàng. Kết quả này trái với kỳ vọng. Điều này có thể lý giải thông qua việc khi nền kinh tế tăng trưởng cao, nhu cầu vốn của nền kinh tế gia tăng, các ngân Tài liệu tham khảo 1. AGUSMAN, A., CULLEN, G. S., GASBARRO, D., MONROE, G. S. & ZUMWALT, J. K. 2014. Government intervention, bank ownership and risk-taking during the Indonesian financial crisis. Pacific-Basin Finance Journal, 30, 114–131. 2. Báo cáo thường niên giai đoạn 2005- 2016 của ABB, ACB, AGR, BID, CTG, EAB, EIB, HDB, KLB, MBB, MSB, NAB, NCB, OCB, PGB, SCB, SGB, SHB, STB, TCB, TPB, VAB, VCB, VCP, VIB 3. Bertay A.C., Demirgüç-Kunt A. & Huizinga H. 2015. Bank ownership and credit over the business cycle: Is lending by state banks less procyclical? Journal of Banking & Finance, 50, 326-339. 4. Calem P. & Rob R. 1999. The impact of capital-based regulation on bank risk-taking. Journal of Financial Intermediation, 8, 317-352. 5. Chính phủ, 2006, Nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22/11/2006 phê duyệt Về ban hành Danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng. 6. Chính phủ, 2011, Nghị định số 10/2011/NĐ-CP ngày 26/01/2011 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22/11/2006 về ban hành Danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng. 7. Chính phủ, 2013, Nghị định số 53/2013/NĐ-CP ngày 18/5/2013 về thành lập, tổ chức và hoạt động của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam. 8. Chính phủ, 2015, Nghị định số 34/2015/NĐ-CP ngày 31/3/2015 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 53/2013/ NĐ-CP ngày 18/5/2013 của Chính phủ về thành lập, tổ chức và hoạt động của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam. 9. Cornett M.M., Guo L., Khaksari S. & Tehranian H. 2010. The impact of state ownership on performance differences in privately-owned versus state-owned banks: An international comparison. Journal of Financial Intermediation, 19, 74-94. 10. DONG, Y., MENG, C., FIRTH, M. & HOU, W. 2014. Ownership structure and risk-taking: Comparative evidence from private and state-controlled banks in China. International Review of Financial Analysis, 36, 120-130. 11. GARCÍA-KUHNERT, Y., MARCHICA, M.-T. & MURA, R. 2015. Shareholder diversification and bank risk-taking. Journal of Finanancial Intermediation. 12. Hoàng Xuân Hoà & cs (2013), Nợ xấu của các tổ chức tín dụng và các giải pháp chiến lược. Tạp chí Cộng sản, năm 2013 13. HRYCKIEWICZ, A. 2014. What do we know about the impact of government interventions in the banking sector? An assessment of various bailout programs on bank behavior. Journal of Banking & Finance, 46, 246-265. 14. Iannotta G., Nocera G. & Sironi A. 2013. The impact of government ownership on bank risk. Journal of Financial Intermediation, 22, 152–176. 15. LA PORTA, R., LOPEZ‐DE‐SILANES, F. & SHLEIFER, A. 2002. Government ownership of banks. The Journal of Finance, 57, 265-301. 16. Ngân hàng Thế giới, truy cập: https://data.worldbank.org 17. Thủ tướng Chính phủ, 2012, Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 01/3/2012 phê duyệt Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015. 18. Thủ tướng Chính phủ, 2013, Quyết định số 843/QĐ-TTg ngày 31/5/2013 về việc Phê duyệt Đề án Xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng và Đề án Thành lập Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam. 19. Thủ tướng Chính phủ, 2017, Quyết định số 1058/QĐ-TTg ngày 19/7/2017 phê duyệt Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020. 20. UYEMURA, D. G. & DEVENTER, D. R. V. 1993. Risk management in banking, New York, Irwin. xem tiếp trang 13 VÕ XUÂN VINH - MAI XUÂN ĐỨC 13Số 215- Tháng 4. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 31. Kim, K.A. & Rhee, S.G. (2000), ‘A note on shareholder oversight and the regulatory environment: the Japanese banking experience’. 32. Kiruri, R.M. (2013), ‘The effects of ownership structure on bank profitability in Kenya’, European Journal of Management Sciences Economics Letters, 1(2), 116-127. 33. La Porta, R., Lopez‐de‐Silanes, F. & Shleifer, A. (1999), ‘Corporate ownership around the world’, The journal of finance, 54(2), 471-517. 34. Laeven, L. (2002), ‘Bank risk and deposit insurance’, the world bank economic review, 16(1), 109-137. 35. Laeven, L. & Levine, R. (2009), ‘Bank governance, regulation and risk taking’, Journal of financial economics, 93(2), 259-275. 36. Mandaci, P. & Gumus, G. (2010), ‘Ownership concentration, managerial ownership and firm performance: Evidence from Turkey’, South East European Journal of Economics and Business, 5(1), 57-66. 37. Martinez Peria, M.S. & Schmukler, S.L. (2001), ‘Do depositors punish banks for bad behavior? Market discipline, deposit insurance, and banking crises’, The journal of finance, 56(3), 1029-1051. 38. Meslier, C., Morgan, D.P., Samolyk, K. & Tarazi, A. (2016), ‘The benefits and costs of geographic diversification in banking’, Journal of International Money and Finance, 69, 287-317. 39. Nier, E. & Baumann, U. (2006), ‘Market discipline, disclosure and moral hazard in banking’, Journal of Financial Intermediation, 15(3), 332-361. 40. Pedersen, T. & Thomsen, S. (1999), ‘Economic and systemic explanations of ownership concentration among Europe’s largest companies’, International Journal of the Economics of Business, 6(3), 367-381. 41. Saunders, A., Strock, E. & Travlos, N.G. (1990), ‘Ownership structure, deregulation, and bank risk taking’, the Journal of Finance, 45(2), 643-654. 42. Shehzad, C.T., de Haan, J. & Scholtens, B. (2010), ‘The impact of bank ownership concentration on impaired loans and capital adequacy’, Journal of Banking Finance, 34(2), 399-408. 43. Shleifer, A. & Vishny, R. (1997), ‘A Survey Of Corporate Governance’, Journal Of Finance, 52(2), 737-783. 44. Shleifer, A. & Vishny, R.W. (1986), ‘Large shareholders and corporate control’, Journal of political economy, 94(3, Part 1), 461-488. 45. Võ Xuân Vinh & Mai Xuân Đức (2017), ‘Sở hữu nước ngoài và rủi ro thanh khoản của các ngân hàng thương mại Việt Nam’, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, 33(3), 1-11. 46. Võ Xuân Vinh & Trần Thị Phương Mai (2015), ‘Lợi nhuận và rủi ro từ đa dạng hóa thu nhập của ngân hàng thương mại Việt Nam’, Tạp chí Phát triển kinh tế, 26(8), 54-70. 47. Wen, Y. & Jia, J. (2010), ‘Institutional ownership, managerial ownership and dividend policy in bank holding companies’, International Review of Accounting, Banking Finance, 2(1), 8-21. mở rộng bao phủ BHXHTN nói riêng và BHXH nói chung. Cần đặc biệt nhấn mạnh vai trò của các yếu tố (như thiết kế các chế độ hưởng BHXHTN, mức đóng- mức hưởng, các chế độ hỗ trợ tài chính và phi tài chính, thủ tục và quá trình đăng ký tham gia, đóng, hưởng BHXH, mở rộng BHXHTN với người lao động di cư quốc tế) là những vấn đề quan trọng quyết định sự thành công của mục tiêu mở rộng sự bao phủ BHXHTN mà Việt Nam có thể tiếp thu từ kinh nghiệm quốc tế. ■ tiếp theo trang 55 hàng dễ rơi vào tình trạng nới lỏng các điều kiện tín dụng để đáp ứng nhu cầu vốn cho tiếp theo trang 43 nền kinh tế, dẫn đến rủi ro tiềm ẩn gia tăng. Biến Lạm phát (LP): Lạm phát có tác động thuận chiều đến rủi ro ngân hàng. Tức là lạm phát tăng, rủi ro các ngân hàng cũng gia tăng. Bởi ảnh hưởng của khủng hoảng năm 2008, lạm phát của nền kinh tế Việt Nam năm 2008 là 23,1%, năm 2011 là 18,68%. Vào những thời điểm này, hệ thống NHTM gặp rất nhiều khó khăn khi thị trường bất động sản đóng băng, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp không thuận lợi, nhiều khó khăn dẫn đến khả năng kiệt quệ trong việc trả nợ ngân hàng... làm cho rủi ro hệ thống NHTM Việt Nam cao, và phải đối phó với khó khăn bằng nhiều cách như: cắt giảm quy mô, giảm nhân sự, siết chặt tín dụng.
File đính kèm:
- von_chu_so_huu_so_huu_nha_nuoc_ban_no_xau_va_rui_ro_tai_cac.pdf