Vỡ túi độn silicone sau tái tạo tuyến vú: Báo cáo trường hợp và tổng quan y văn

Túi độn silicon đã được sử dụng trong gần 6 thập kỷ. Trong thời gian này, đã trải qua nhiều thay đổi đáng

kể trong thiết kế và sử dụng. Các thế hệ túi hiện tại đã được theo dõi thông qua các nghiên cứu cốt lõi của nhà

sản xuất để có được dữ liệu dài hạn về sự an toàn và cá biến chứng. Tốc độ vỡ ban đầu rất thấp và bắt đầu

tăng sau 6 - 8 năm cấy ghép. Vỡ túi có thể được phát hiện bằng khám lâm sàng, siêu âm hoặc chụp cộng

hưởng từ (MRI).

Phần lớn các trường hợp vỡ túi silicone là khó phát hiện lâm sàng. Bệnh nhân có triệu chứng co thắt vỏ

bao, khối u ở vú hoặc thay đổi hình dạng vú. Nguyên nhân phổ biến nhất của vỡ túi là tác động của dụng cụ

trong quá trình phẫu thuật. Vỡ túi độn silicone có thể được giới hạn trong vỏ bao giả hoặc có thể xâm nhập vào

mô vú. Bệnh nhân có triệu chứng với túi bị vỡ nên được cung cấp sự lựa chọn theo dõi, hay phẫu thuật có hoặc

không có thay túi mới.

Chúng tôi xin báo cáo trường hợp bệnh nhân nữ 28 tuổi, vỡ túi sau 03 năm tái tạo vú trái, bệnh nhân phát

hiện tình cờ khi đi tái khám định kỳ qua siêu âm vú. Bệnh nhân được chẩn đoán xác định lại bằng MRI tuyến vú

và sau đó phẫu thuật thay túi độn.

pdf 8 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Vỡ túi độn silicone sau tái tạo tuyến vú: Báo cáo trường hợp và tổng quan y văn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vỡ túi độn silicone sau tái tạo tuyến vú: Báo cáo trường hợp và tổng quan y văn

Vỡ túi độn silicone sau tái tạo tuyến vú: Báo cáo trường hợp và tổng quan y văn
VÚ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
430 
VỠ TÚI ĐỘN SILICONE SAU TÁI TẠO TUYẾN VÚ: 
BÁO CÁO TRƯỜNG HỢP VÀ TỔNG QUAN Y VĔN 
NGUYỄN VĔN THỪA1, PHẠM LÊ XUÂN HUY2, NGUYỄN HỒNG PHÚC2, 
NGUYỄN BÁ TRUNG3, HOÀNG THÀNH TRUNG4, TRẦN MINH TUẤN1, 
TRƯƠNG THÀNH TRÍ2, PHAN ĐỨC VĨNH KHÁNH5, HÀ HIẾU TRUNG2 
TÓM TẮT 
Túi độn silicon đã được sử dụng trong gần 6 thập kỷ. Trong thời gian này, đã trải qua nhiều thay đổi đáng 
kể trong thiết kế và sử dụng. Các thế hệ túi hiện tại đã được theo dõi thông qua các nghiên cứu cốt lõi của nhà 
sản xuất để có được dữ liệu dài hạn về sự an toàn và cá biến chứng. Tốc độ vỡ ban đầu rất thấp và bắt đầu 
tĕng sau 6 - 8 nĕm cấy ghép. Vỡ túi có thể được phát hiện bằng khám lâm sàng, siêu âm hoặc chụp cộng 
hưởng từ (MRI). 
Phần lớn các trường hợp vỡ túi silicone là khó phát hiện lâm sàng. Bệnh nhân có triệu chứng co thắt vỏ 
bao, khối u ở vú hoặc thay đổi hình dạng vú. Nguyên nhân phổ biến nhất của vỡ túi là tác động của dụng cụ 
trong quá trình phẫu thuật. Vỡ túi độn silicone có thể được giới hạn trong vỏ bao giả hoặc có thể xâm nhập vào 
mô vú. Bệnh nhân có triệu chứng với túi bị vỡ nên được cung cấp sự lựa chọn theo dõi, hay phẫu thuật có hoặc 
không có thay túi mới. 
Chúng tôi xin báo cáo trường hợp bệnh nhân nữ 28 tuổi, vỡ túi sau 03 nĕm tái tạo vú trái, bệnh nhân phát 
hiện tình cờ khi đi tái khám định kỳ qua siêu âm vú. Bệnh nhân được chẩn đoán xác định lại bằng MRI tuyến vú 
và sau đó phẫu thuật thay túi độn. 
SUMMARY 
Silicone breast implant rupture in reconstructions: Case report and review 
Silicone breast implant have been used for nearly 6 decades. During this time, they underwent significant 
changes in design and use. Current generations of bags have been monitored through the manufacturer's core 
studies to obtain long-term data on safety and complications. The initial rupture rate is very low and begins to 
increase after 6 - 8 years of transplant. Rupture of the sac can be detected by physical examination, ultrasound 
or magnetic resonance imaging (MRI). 
The majority of broken silicone bags are clinically undetectable. Symptomatic patients may appear with 
capsule spasm, breast lumps or breast shape changes. The most common cause of pocket rupture is the 
impact of instruments during surgery. Rupture of the silicone padded pouch may be limited to a dummy capsule 
or may penetrate into breast tissue. Patients with symptoms of a broken bag should be offered the option of 
follow-up, or surgery with or without a new bag replacement. 
We would like to report the case of a 28 - year - old female patient with a broken breast after 3 years of 
reconstructing her left breast, who accidentally discovered it during a routine breast re-examination. The patient 
was diagnosed again by MRI of the mammary gland and then had surgery to change the padded bag. 
Keywords: Implant, rupture, silicone. 
1
 BSCKII. Phó Trưởng Khoa Điều trị Tổng hợp - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 
2
 BSCKI. Khoa Điều trị Tổng hợp - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 
3
 BSCKII. Trưởng Khoa Điều trị Tổng hợp - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 
4
 ThS.BSCKII. Phó Trưởng Khoa Điều trị Tổng hợp - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 
5
 BSCKII. Khoa Điều trị Tổng hợp - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 
VÚ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
431 
MỞ ĐẦU 
Túi độn silicone là một chất liệu cần thiết trong 
phẫu thuật thẩm mỹ và tái tạo vú toàn cầu kể từ phát 
minh bởi Cronin vào đầu nĕm 1960. Trong những 
thập kỷ tiếp theo, túi độn silicone trải qua nhiều tiến 
bộ trong thiết kế và đã được chịu sự giám sát và 
tranh cãi quốc tế đáng kể liên quan đến an toàn. 
Mối quan tâm về độ an toàn này dẫn đến việc ngừng 
sử dụng túi độn silicone ở Mỹ từ nĕm 1992 - 2000. 
FDA yêu cầu các nhà sản xuất túi độn nộp các 
nghiên cứu cốt lõi về độ an toàn và hiệu quả về một 
số lượng lớn vật liệu dùng trong tương lai này. 
Vào tháng 11 nĕm 2006, sau khi trình bày dữ liệu 
chứng minh hiệu quả và an toàn trong thời gian dài 
bao gồm lợi ích và nguy cơ vỡ túi, co thắt vỏ bao và 
mổ lại, túi độn silicone được FDA chấp nhận là một 
phương tiện sử dụng cho cả phẫu thuật thẩm mỹ và 
tái tạo tuyến vú. Hiện tại, ở Mỹ, có ba nhà sản xuất 
túi độn ngực silicon đã được phê duyệt: Allergan, 
Sientra và Mentor. Trong bài viết này chúng tôi xin 
đề cập đến vỡ túi độn ngực silicon bao gồm tỷ lệ vỡ 
túi, cơ chế vỡ, chẩn đoán và xử trí vỡ túi. 
Cuộc cách mạng về túi độn 
Túi độn silicone được phân loại thành các thế 
hệ dựa trên sự tiến bộ và phát triển của lớp vỏ ngoài 
của túi và vật liệu làm đầy gel. Thế hệ đầu tiên được 
sử dụng trong những nĕm 1960 và đầu những nĕm 
70. Chúng có lớp vỏ dày và chất liệu silicone có độ 
nhớt cao dẫn đến rất chắc chắn và cấy ghép bền. 
Miếng dán Dacron được đặt ở mặt sau của túi để 
giảm di chuyển cấy ghép. Tỷ lệ vỡ thấp; tuy nhiên, 
co thắt võ bao và vôi hóa tỷ lệ cao, gần 100% trong 
cấy ghép tại chỗ lớn sau hơn 10 nĕm. 
Hình 1. Các kiểu vỡ túi. 
(A) Túi thế hệ 1 còn nguyên vẹn với bằng chứng về gel đã chảy. 
(B) vỡ túi thế hệ thứ hai silicone chảy tự do; 
(C) vỡ túi trong võ bao, silicone ở trong bao xơ như một bệnh nhân có khối u vú 
Do đó, thế hệ túi ngực thứ hai đã được thiết kế 
với lớp vỏ mỏng hơn và silicone ít nhớt hơn theo thứ 
tự để tạo cảm giác mềm mại và tự nhiên hơn. 
Do những thay đổi thiết kế, vỏ túi mỏng thế hệ thứ 
hai đã bị ảnh hưởng với tỷ lệ vỡ túi tĕng đáng kể cao 
tới 60%(5,6). Ngoài ra, kích thước hạt nhỏ với liên kết 
chéo tối thiểu cần thiết cho kết quả linh hoạt hơn 
trong sự khuếch tán đáng kể của các đoạn silicon 
chuỗi ngắn xuyên qua vỏ bọc, và vào xung quanh vỏ 
bao được biết đến như chảy silicone. Tỷ lệ vỡ cao 
và mối quan tâm về tác dụng xấu của gel silicone 
trong túi đã giúp kích thích phân loại lại silicone cấy 
ghép và dẫn đến việc tạm ngưng sử dụng, chờ xử lý 
kết quả nghiên cứu cốt lõi. Hình 1 cho thấy các ví dụ 
về các loại vỡ khác nhau của túi gặp phải bao gồm 
cả chảy gel trong vỏ bao, vỡ vỏ bao với silicone 
chảy tự do, và vỡ túi nhưng được bao quanh trong 
bao xơ xung quanh. 
Túi độn silicone thế hệ thứ ba nhằm giải quyết 
tĕng tỷ lệ vỡ và chảy silicone đáng kể của túi thế hệ 
thứ hai. Thêm lớp vỏ bền, nhiều lớp với lớp rào chắn 
ở giữa Diphenyl Silicone giữa hai lớp Diphenyl 
Silicone giảm đáng kể vỡ và chảy silicone. Ngoài ra, 
thêm vào silicone chứa kích thước hạt lớn hơn và 
tĕng liên kết chéo để giảm khuếch tán. Thế hệ túi 
độn ngực thứ ba được sử dụng cho các nghiên cứu 
sau cùng của FDA về túi silicone ở Mỹ. Kể từ đó, 
túi thế hệ thứ tư và thứ nĕm đã được phát triển, bao 
gồm cả hình thức và hình dạng ổn định, đó là các túi 
độn hiện đang sử dụng. Những túi độn này có 
vỏ dày hơn kết hợp với chất làm đầy gel gắn kết hơn 
và được sản xuất trong cả hai mô hình vỏ nhám 
và trơn(7). 
Tỷ lệ và thời gian vỡ túi 
Dữ liệu liên quan đến tỷ lệ vỡ túi được công bố 
trong Nghiên cứu cốt lõi của mỗi nhà sản xuất thực 
hiện và công bố làm cơ sở cho sự chấp thuận của 
FDA. Đến nay, không có phương pháp chuẩn hóa 
báo cáo tỷ lệ vỡ túi mà không cần phục hồi, một lựa 
chọn nhiều bệnh nhân từ chối. Tỷ lệ báo cáo khác 
nhau đáng kể giữa các nhà sản xuất và phương 
pháp đánh giá bệnh nhân. Trong nghiên cứu cốt lõi 
Allergan và Mentor, một số bệnh nhân được sàng 
lọc bằng chụp cộng hưởng (MRI), trong khi những 
VÚ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
432 
công trình khác chỉ khám lâm sàng nếu họ biểu hiện 
với các triệu chứng thực thể, thì họ dùng MRI đánh 
giá lại(8). Túi tròn Mentor MemoryGel chứng minh 
tổng tỷ lệ vỡ tích lũy sau 6 nĕm là: 1,1% đối với đặt 
túi thẩm mỹ lần đầu, 11,6% đối với đặt túi thẩm mỹ 
lại lần sau, 3,8% cho tái tạo vú lần đầu và 5,9% cho 
tái tạo vú bằng túi lại lần sau(9). Dữ liệu dài hơn đã 
được thống kê nhưng hiện đang không được công 
bố(10). Mentor hình giọt nước ước tính tỷ lệ vỡ trong 
nghiên cứu đoàn hệ trên MRI sau 6 nĕm là 2,1% cho 
thẩm mỹ lần đầu, 2,9% cho thay đổi túi, 1,5% cho tái 
tái tạo lần đầu và 0% cho tái tạo sửa lại(11). 
Túi tròn Allergan Naturelle, 10 nĕm tỷ lệ vỡ của 
khi nghiên cứu đoàn hệ MRI (264 bệnh nhân) là: 
9,3% cho đặt túi thẩm mỹ lần đầu, 5,4% cho đặt túi 
thẩm mỹ lại lần sau và 35,4% cho tái tạo bằng túi lần 
đầu, với tỷ lệ vỡ tổng thể là 13,0%(12). Mẫu túi 
Allergan nhám, sau 10 nĕm trong nghiên cứu đoàn 
hệ MRI (316 bệnh nhân) nguy cơ vỡ là 17,7% đối 
với phẫu thuật đặt túi thẩm mỹ lần đầu, 14,7% đối 
đặt túi thẩm mỹ lại lần sau, 12,4% cho tái tạo bằng 
túi lần đầu và 19,6% cho tái tạo sửa lại. Tỷ lệ vỡ 
chung (nghi ngờ và xác nhận) trong đoàn hệ MRI là 
16,4%(13). 
Bảng 1. Phân tích Kaplan-Meier so sánh tỷ lệ vỡ túi theo các nhà sản xuất và theo chiều dài nghiên cứu 
Loại túi 
(Chiều dài nghiên cứu) Thẩm mỹ lần đầu Thay túi Tái tạo lần đầu Thay túi tái tạo 
Allergan tròn 10 nĕm 9.3 5.4 35.4 - 
Allargan giọt nước 10 nĕm 17.7 14.7 12.4 19.6 
Mentor tròn 6 nĕm 1.1 11.6 3.8 5.9 
Mentor giọt nước 6 nĕm 2.1 2.9 1.5 0 
Sientra 8 nĕm 6.4 5.2 2.8 Not available 
Một nghiên cứu cốt lõi trung bình 9 nĕm về túi 
gel Sientra được công bố vào nĕm 2016 bao gồm 
1.788 bệnh nhân với đoàn hệ MRI gồm 571 bệnh 
nhân. Tỷ lệ vỡ đoàn hệ MRI 8 nĕm là: 6,4% cho đặt 
túi thẩm mỹ lần đầu, 5,2% cho đặt túi thẩm mỹ lại lần 
sau, 2,8% cho tái tạo bằng túi độn lần đầu và dữ liệu 
tái tạo lần sau hiện không có sẵn. Ngoài ra, tỷ lệ vỡ 
trong 10 nĕm đoàn hệ MRI tĕng cơ bản là 9.0%(14). 
Bảng 1 tóm tắt dữ liệu vỡ được công bố gần đây 
nhất cho túi độn có sẵn ở Mỹ. 
Ngoài các nghiên cứu bắt buộc của FDA, còn 
có tài liệu quan trọng mô tả tỷ lệ vỡ túi trong dân số 
quốc tế. Collis và Shape kiểm tra 149 bệnh nhân có 
sử dụng túi thế hệ thứ ba để đặt túi thẩm mỹ hoặc tái 
tạo vú bĕng túi độn. MRI đã được thực hiện và bệnh 
nhân có dùng túi nghi ngờ được đề nghị kiểm tra. 
Dữ liệu của họ cho thấy rằng vỡ túi bắt đầu từ nĕm 
6 - 7 và từ nĕm 13 tỷ lệ vỡ là 11,8%(15). Một nghiên 
cứu của Đan Mạch được thiết kế để xác định tỷ lệ 
vỡ túi ở phụ nữ dùng túi silicone nguyên thủy bởi 
MRI trong khoảng thời gian 3 nĕm. Đối với túi hiện 
đại, thế hệ ba hay thế hệ sau, họ ước tính túi được 
bảo tồn không vỡ là 98% sau 5 nĕm và 83% - 85% 
tại 10 nĕm. Họ kết luận rằng túi hiện đại có độ bền 
trong 6 - 8 nĕm. Nguy cơ vỡ tĕng đáng kể sau 6 
nĕm với tỷ lệ ước tính là 15% và thời gian dự kiến 
sẽ vỡ giữa nĕm thứ ba và thứ mười sau khi đặt(16). 
Do thiếu sự sàng lọc và báo cáo được chuẩn 
hóa, cũng như nhiều thế hệ túi độn và nhà sản xuất 
có sẵn, rất khó để đưa ra tỷ lệ vỡ tương đương giữa 
các loại và giữa các nhà sản xuất túi. Trong các tài 
liệu đã xuất bản, cần thận trọng để so sánh trực tiếp 
tỷ lệ vỡ mà không xem xét cẩn thận các phương 
pháp chẩn đoán và phương pháp thống kê đánh giá 
hoặc khoảng thời gian để đánh giá tỷ lệ vỡ được 
báo cáo. 
GIỚI THIỆU BỆNH ÁN 
Bệnh nhân nữ, tên TRẦN THANH TH. NG. 
28 tuổi. 
Địa chỉ: Phường Phú Hữu, Quận 9, Thành phố 
Hồ Chí Minh. 
Vào viện ngày 01/08/2019. 
Ngày ra viện: 19/08/2019. 
Số vào viện: 022515/16. 
Lý do vào viện: Theo dõi vỡ túi độn vú trái. 
Bệnh sử: Bệnh nhân được chẩn đoán ung thư 
vú trái TisN0M0 đã được sinh thiết bướu, được phẫu 
thuật sinh thiết hạch lính gác nách trái - Đoạn nhũ 
trái - tái tạo vú trái bằng túi độn (11/2016). Giải phẫu 
bệnh sau mổ là carcinôm tuyến vú tại chỗ, grad cao. 
Bệnh nhân được xuất viện và tái khám định kỳ khoa 
khám bệnh mỗi 03 tháng. Tháng 06/2019, bệnh 
nhân đi tái khám, siêu âm định kỳ theo dõi vỡ túi độn 
silicone nên nhập viện trở lại 
VÚ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
433 
Tình trạng lúc nhập viện: bệnh tỉnh, KPS 100. 
Không tiền cĕn bệnh lý khác. 
Khám 
Tuyến vú 2 bên cân đối, không dấu hiệu biến 
dạng, sờ không thấy khối hay tổn thương trên 
vú trái. 
Hạch nách 2 bên sờ không thấy. 
Các cơ quan khác chưa ghi nhận bất thường. 
Siêu âm 
Vú trái (tái tạo): Có hình ảnh túi độn ở phía sau 
cơ ngực lớn, vỏ bao xơ mỏng liên tục, bờ gợn sóng, 
giữa các nếp có dịch echo dày di chuyển khi đè. 
Hình 2. kết quả siêu âm: bao xơ gợn sóng và có dịch 
MRI 
Vú trái đã phẫu thuật và đặt implant phía sau cơ ngực lớn, túi có tín hiệu trung gian trên T1W1, tín hiệu 
cao trên T2W1, Silicone Bright, có hình ảnh vỡ trong bao, silicone ra ngoài bao implant nhưng còn nằm trong 
bao xơ, có ít dịch xung quanh bao implant. 
Hình 3. Có hình ảnh vỡ trong bao 
Bệnh nhân được phẫu thuật lấy túi độn, bơm rửa và thay túi mới. 
VÚ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
434 
Hình 4. Bệnh nhân trước và trong phẫu thuật 
Hình 5. Túi độn của bệnh nhân bị vỡ 
Hình 6. Sau thay túi 
BÀN LUẬN 
Chẩn đoán vỡ túi độn silicone 
Hầu hết các bệnh nhân bị vỡ túi độn không biểu 
hiện các dấu hiệu hoặc triệu chứng lâm sàng và 
được gọi là vỡ im lặng(17,18). Đánh giá vỡ túi chủ yếu 
phụ thuộc bởi các triệu chứng của bệnh nhân, bao 
gồm thay đổi hình dạng vú, kích thước hoặc độ sĕn 
chắc, co thắt vỏ bao, sờ thấy khối u hoặc đau vú. 
Có nhiều phương thức chẩn đoán có thể được sử 
dụng để đánh giá vỡ túi bao gồm MRI, siêu âm, 
chụp nhũ ảnh, chụp CT và cuối cùng là khám thực 
thể. MRI được chấp nhận rộng rãi như là nghiên cứu 
hình ảnh được lựa chọn để đánh giá tính toàn vẹn 
của túi với độ nhạy và độ đặc hiệu lớn hơn 90%(19). 
Những phát hiện kinh điển về MRI bao gồm dấu hiệu 
hình lưỡi(20) hoặc dấu hiệu giọt nước mắt trong túi 
hiện đại(21). FDA hiện khuyến cáo phụ nữ có túi độn 
trải qua sàng lọc 3 nĕm sau khi đặt và sau đó cứ mỗi 
2 nĕm(22). Hướng dẫn này bắt đầu một cuộc thảo 
luận giữa bệnh nhân và bác sĩ của họ về những 
rủi ro xảy ra. Hạn chế của MRI bao gồm chi phí, 
cần máy quét với thiết bị chụp tuyến vú, thời gian 
thực hiện và hạn chế của bệnh nhân do cấy ghép y 
tế khác. 
Hình 7. Cho thấy sự xuất hiện điển hình của vỡ túi 
silicon. Có sự sụp của vỏ túi và silicone tự do 
trong võ bao 
VÚ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
435 
Siêu âm đã được phổ biến như là một phương 
tiện thay thế cho MRI. Những ưu điểm bao gồm 
giảm chi phí và thời gian, tuy nhiên, nó được biết 
đến là phục thuộc nhiều vào bác sĩ siêu âm. Siêu âm 
có thể phát hiện cả vỡ ngoài vỏ bao được mô tả là 
dấu hiệu bão tuyết(23) và vỡ trong vỏ bao được mô tả 
là dấu hiệu thang đứng(24). Sự giảm độ nhạy và 
giá trị tiên đoán âm tính của siêu âm đã được 
chứng minh do sự hiện diện của co thắt vỏ bao(25). 
Trong một so sánh phân tích chi phí giữa siêu âm và 
MRI để sàng lọc vỡ túi, siêu âm đã được tìm thấy có 
hiệu quả hơn về mặt chi phí ở cả phụ nữ có triệu 
chứng và không có triệu chứng. Ở phụ nữ không có 
triệu chứng, MRI thường được sử dụng để xác nhận 
kết quả siêu âm dương tính(26). 
Chụp nhũ ảnh là một phương thức hình ảnh 
tương đối rẻ tiền và thường xuyên được thực hiện 
cho phụ nữ có và không có túi độn vú. Vỡ ngoài vỏ 
bao có silicone tự do có thể dễ dàng được phát hiện 
bằng chụp nhũ ảnh; tuy nhiên, đây chỉ là một tỷ lệ 
nhỏ của vỡ túi độn(21). Do tính chất dày đặc của 
silicone, chụp nhũ ảnh không thể phát hiện ra vỡ 
trong vỏ bao. Điều này giới hạn các tiện ích tổng thể 
của chụp nhũ ảnh trong việc phát hiện vỡ túi(19). 
Các dấu hiệu trên nhũ ảnh bao gồm mật độ thùy 
hoặc hình cầu từ xa mô cấy và hình dạng không đều 
đến vỏ túi. 
Khám thực thể là bước đầu tiên cho một bệnh 
nhân để đánh giá vỡ túi. Các phát hiện trong khám 
bao gồm sự bất cân xứng của vú, các nốt sần hoặc 
các hạch bạch huyết, co thắt vỏ bao hoặc sờ thấy vỏ 
bao túi. Trong một nghiên cứu so sánh khám thực 
thể về vỡ túi với MRI, độ nhạy khám lâm sàng để 
chẩn đoán vỡ là 30% và độ đặc hiệu 88%. Giá trị 
tiên đoán dương tính của chẩn đoán lâm sàng vỡ là 
75% và giá trị tiên đoán âm tính là 49%. 
Trong nghiên cứu này, các tác giả đã kết luận rằng 
khi khám lâm sang để xác định vỡ túi độn, cả độ 
nhạy và độ đặc hiệu đều không được chấp nhận(18). 
Một nghiên cứu gần đây trên 102 bệnh nhân 
sau phẫu thuật cắt bỏ vú từ Viện Ung thư Châu Âu 
kết luận MRI nên là phương thức được lựa chọn để 
chẩn đoán vỡ túi ở phụ nữ không có triệu chứng do 
độ chính xác vượt trội so với siêu âm. Tuy nhiên, 
các tác giả khuyên nên kiểm tra định kỳ bằng siêu 
âm và xác nhận bằng MRI(27). 
Cơ chế vỡ túi độn silicone 
Các cơ chế dẫn đến vỡ túi đã được nghiên cứu 
chặt chẽ. Các cơ chế được đề xuất cho vỡ túi bao 
gồm tổn thương từ dụng cụ phẫu thuật, sưng vỏ, lỗ 
hổng hoặc chấn thương cho túi như lực ép vào 
thành ngực hoặc đóng nắp phẫu thuật. Các nhà sản 
xuất túi đã nghiên cứu các cơ chế vỡ túi trên các túi 
vỡ được phát hiện. Handel et al. xem xét dữ liệu của 
Mentor và Allergan về nguyên nhân vỡ và tìm thấy 
50−64% cấy ghép bị vỡ được báo cáo là bị hư hỏng 
bởi các dụng cụ phẫu thuật(8). 
Sưng võ là một hiện tượng xảy ra sau khi đặt 
túi. Nó được mô tả là sự giảm độ bền của vỏ do sự 
di chuyển của chất lỏng silicone vào vỏ. Necchi et al. 
đã kiểm tra lý thuyết này bằng cách cho các vỏ của 
túi nguyên thủy và túi vỡ hiện đại vào thử nghiệm 
sức mạnh. Nghiên cứu của họ đã tìm thấy sự giảm 
đáng kể về độ bền của vỏ bị vỡ so với võ không bị 
vỡ và có liên quan đến sự thay đổi này với sưng vỏ 
dựa trên tỷ lệ chiết xuất trong túi bị vỡ(28). Nếp gấp 
như một nguyên nhân vỡ implant và mô tả các kiểu 
gấp khác nhau thất bại dựa trên kính hiển vi. 
Brandon và cộng sự, công bố nhiều nghiên cứu 
về cơ chế vỡ túi. Nĕm 2006, họ đưa ra giả thuyết về 
sự thất bại tại vị trí nếp gấp là nguyên nhân của vỡ 
túi và mô tả các kiểu gấp khác nhau dựa trên kính 
hiển vi(29). Nếp gấp túi được tìm thấy là phổ biến hơn 
trong sự hiện diện của co thắt võ bao trong thời gian 
dài. Sự vỡ của túi có thể là một quá trình đa yếu tố 
và vẫn chưa thấy được những tiến bộ trong sự gắn 
kết gel và cải tiến trong thiết kế vỏ trong túi thế hệ 4 
và 5 sẽ ảnh hưởng đến tỷ lệ và cơ chế vỡ túi. 
Biến chứng và xử trí 
Biến chứng của vỡ túi silicone đã là chủ đề của 
nhiều nghiên cứu. Một phân tích tổng hợp của dữ 
liệu dịch tễ học được công bố nĕm 2004 cho thấy 
không có bằng chứng về tỷ lệ mắc bệnh mô liên kết 
ở phụ nữ đặt túi silicone(30). Điều này phù hợp với 
nhiều nghiên cứu trước đây(31,32). Một đánh giá từ 
nĕm 2007, đã mô tả nĕm nghiên cứu mối liên hệ về 
túi bị vỡ và nguy cơ bệnh mô liên kết. Trong số các 
nghiên cứu này, không có bằng chứng cho thấy mối 
liên quan của bệnh mô liên kết được xác định rõ 
hoặc được xác định kém với vỡ túi(33). 
Nghiên cứu từ cơ sở dữ liệu quốc gia của Đan 
Mạch đã đánh giá phụ nữ với nhiều nhà sản xuất và 
nhiều loại túi với MRI trong khoảng thời gian 2 nĕm. 
Họ đã tìm thấy khoảng ba phần tư các trường hợp 
vỡ túi độn là trong vỏ bao và một phần tư còn lại là 
ngoài vỏ bao. Trong số các bệnh nhân bị vỡ túi, 
chỉ có 10% số ca cấy ghép bị vỡ trong vỏ bao tiến 
triển thành vỡ ngoài vỏ bao. Ở những bệnh nhân bị 
vỡ ngoài vỏ bao, 84% vẫn ổn định trong cùng 
khoảng thời gian. Phân tích sâu hơn cho thấy không 
có bằng chứng về mức độ tĕng kháng thể lên khi so 
sánh bệnh nhân đặt túi còn nguyên vẹn hoặc vỡ(16). 
Các nghiên cứu nhân khẩu học như vậy cho thấy 
không có gánh nặng sức khỏe rõ rệt nào liên quan 
đến cấy ghép bị vỡ hoặc nguyên vẹn là rất quan 
trọng trong việc đạt được sự chấp thuận của FDA. 
VÚ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
436 
Bệnh nhân bị vỡ âm thầm, được phát hiện tình 
cờ, nên được cung cấp các lựa chọn là phẫu thuật 
hoặc theo dõi. Nhiều người chọn theo dõi một thời 
gian. Bệnh nhân có các vấn đề lâm sàng có thể 
được giải quyết bằng phẫu thuật thì chủ động hơn. 
Việc xử trí phẫu thuật được đề nghị hiện nay đối với 
túi độn ngực vỡ được chẩn đoán hoặc có triệu 
chứng là loại bỏ, thường bao gồm cả phẫu thuật cắt 
bỏ võ bao. Khi vỡ trong vỏ bao, tức là, silicone tự do 
được chứa trong vỏ bao xơ xung quanh; loại bỏ mô 
cấy và lấy hết silicone tự do, cắt bỏ vỏ bao và thay 
thế túi khác nếu bệnh nhân muốn. Vỡ ngoài vỏ bao, 
với silicone tự do trong mô vú, được xử trí tương tự 
với việc cắt bỏ thêm bất kỳ u hạt nhìn thấy hoặc sờ 
thấy có trong nhu mô vú(5). 
KẾT LUẬN 
Vỡ túi độn ngực bằng silicon được biết là biến 
chứng liên quan đến cả phẫu thuật nâng ngực và tái 
tạo vú. Tốc độ vỡ tĕng theo tuổi thọ của túi. Do sự 
khác biệt đáng kể về phương pháp và sự khác biệt 
trong đánh giá bệnh nhân, cũng như độ dài thời gian 
cấy ghép được báo cáo trong dữ liệu vỡ túi, rất khó 
để so sánh trực tiếp tỷ lệ vỡ giữa các nhà sản xuất 
và các loại túi. Tổn thương túi độn bằng dụng cụ 
phẫu thuật có khả nĕng là nguyên nhân hàng đầu 
của vỡ. Phần lớn các trường hợp vỡ túi silicone là 
khó phát hiện lâm sàng và không có ảnh hưởng sức 
khỏe đáng kể. Bệnh nhân có triệu chứng với túi vỡ 
nên được cung cấp sự lựa chọn theo dõi, hoặc giải 
thích phẫu thuật cắt bỏ vỏ bao, có hoặc không có 
thay túi mới. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Cronin TD, Gerow FJ. Augmentation 
mammoplasty: A new ‘natural feel’ prosthesis. 
Transections of the Third International Congress 
of Plastic Surgery, Amsterdam. Excerpta Medical 
1964: 41 - 9. 
2. U.S. Food and Drug Administration. Regulatory 
History of Breast Implants in the U.S. Available 
online:  
fda.gov/MedicalDevices/ProductsandMedicalPro
cedures/ 
ImplantsandProsthetics/BreastImplants/ucm0644
61htm 
3. Cronin TD, Greenberg RL. Our experiences with 
the silastic gel breast prosthesis. Plast Reconstr 
Surg 1970; 46: 1 - 7. 
4. Peters W, Pritzker K, Smith D, et al. Capsular 
calcification associated with silicone breast implants: 
incidence, determinants, and characterization. Ann 
Plast Surg 1998; 41: 348 - 60. 
5. Collis N, Sharpe DT. Silicone gel-flled breast 
implant integrity: a retrospective review of 478 
consecutively explanted implants. Plast Reconstr 
Surg 2000; 105: 1979 - 85; discussion 1986 - 9. 
6. Brown SL, Middleton MS, Berg WA, et al. 
Prevalence of rupture of silicone gel breast 
implants revealed on MR imaging in a population 
of women in Birmingham,Alabama. AJR Am J 
Roentgenol 2000; 175: 1057 - 64. 
7. Maxwell GP, Gabriel A. The evolution of breast 
implants. Plast Reconstr Surg 2014; 134:12S-7S. 
8. Handel N, Garcia ME, Wixtrom R. Breast implant 
rupture: causes, incidence, clinical impact, and 
management. Plast Reconstr Surg 2013; 132: 
1128 - 37.168 Hillard et al. Silicone breast 
implant rupture: a review© Gland Surgery. All 
rights reserved. gs.amegroups.com Gland Surg 
2017;6(2): 163 – 168. 
9. Cunningham B, McCue J. Safety and 
effectiveness of Mentor's MemoryGel implants at 
6 years. Aesthetic Plast Surg 2009; 33: 440 - 4. 
10. Health Canada. Summary Basis of Decision 
(SBD) for MENTOR MEMORYGEL™ CPG 
BREAST IMPLANTS COHESIVE III. Available 
online: 
mps/prodpharma/sbd-smd/md-im/ sbd - smd- 
2015 - mentorcpg - 86150 - eng.php. 
11. Hammond DC, Migliori MM, Caplin DA, et al. 
Mentor Contour Profle Gel implants: clinical 
outcomes at 6 years. Plast Reconstr Surg 2012; 
129: 1381 - 91. 
12. Spear SL, Murphy DK; Allergan Silicone Breast 
Implant U.S. Core Clinical Study Group. Natrelle 
round silicone breast implants: Core Study 
results at 10 years. Plast Reconstr Surg 2014; 
133: 1354 - 61. 
13. Maxwell GP, Van Natta BW, Bengtson BP, et al. 
Tenyear results from the Natrelle 410 anatomical 
formstable silicone breast implant core study. 
Aesthet Surg J 2015; 35: 145 - 55. 
14. Stevens WG, Calobrace MB, Harrington J, et al. 
NineYear Core Study Data for Sientra's FDA-
Approved Round and Shaped Implants with 
High-Strength Cohesive Silicone Gel. Aesthet 
Surg J 2016; 36: 404 - 16. 
15. Collis N, Litherland J, Enion D, et al. Magnetic 
resonance imaging and explantation 
investigation of longterm silicone gel implant 
integrity. Plast Reconstr Surg 2007; 120: 
1401 - 6. 
VÚ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
437 
16. Hölmich LR, Friis S, Fryzek JP, et al. Incidence 
of silicone breast implant rupture. Arch Surg 
2003; 138: 801 - 6. 
17. Dowden RV. Detection of gel implant rupture: a 
clinical test. Plast Reconstr Surg 1993; 91: 548 - 
50. 
18. Hölmich LR, Fryzek JP, Kjøller K, et al. The 
diagnosis of silicone breast-implant rupture: 
clinical fndings compared with fndings at 
magnetic resonance imaging. Ann Plast Surg 
2005; 54: 583 - 9. 
19. Everson LI, Parantainen H, Detlie T, et al. 
Diagnosis of breast implant rupture: imaging 
fndings and relative effcacies of imaging 
techniques. AJR Am J Roentgenol 1994; 163: 
57 - 60. 
20. Gorczyca DP. MR imaging of breast implants. 
Magn Reson Imaging Clin N Am 1994; 2: 
659 - 72. 
21. Gorczyca DP, Gorczyca SM, Gorczyca KL. The 
diagnosis of silicone breast implant rupture. Plast 
Reconstr Surg 2007; 120: 49S - 61S. 
22. U.S. Food and Drug Administration. Silicone 
GelFilled Breast Implants. Available online: 
gov/MedicalDevices/ProductsandMedicalProced
ures/ 
ImplantsandProsthetics/BreastImplants/ucm0638
71.htm. 
23. Beekman WH, van Straalen WR, Hage JJ, et al. 
Imaging signs and radiologists' jargon of 
ruptured breast implants. Plast Reconstr Surg 
1998; 102: 1281 - 9. 
24. DeBruhl ND, Gorczyca DP, Ahn CY, et al. 
Silicone breast implants: US evaluation. 
Radiology 1993; 189: 95-8. 
25. Medot M, Landis GH, McGregor CE, et al. 
Effects of capsular contracture on ultrasonic 
screening for silicone gel breast implant rupture. 
Ann Plast Surg 1997; 39: 337 - 41. 
26. Chung KC, Malay S, Shauver MJ, et al. 
Economic analysis of screening strategies for 
rupture of silicone gel breast implants. Plast 
Reconstr Surg 2012; 130: 225-37. 
27. Rietjens M, Villa G, Toesca A, et al. Appropriate 
use of magnetic resonance imaging and 
ultrasound to detect early silicone gel breast 
implant rupture in postmastectomy 
reconstruction. Plast Reconstr Surg 2014; 
134:13e - 20e. 
28. Necchi S, Molina D, Turri S, et al. Failure of 
silicone gel breast implants: is the mechanical 
weakening due to shell swelling a signifcant 
cause of prostheses rupture? J Mech Behav 
Biomed Mater 2011; 4: 2002-8. 
29. Brandon HJ, Taylor ML, Powell TE, et al. 
Morphology of breast implant fold flaw failure. J 
Long Term Eff Med Implants 2006; 16: 441 - 50. 
30. Lipworth L, Tarone RE, McLaughlin JK. Silicone 
breast implants and connective tissue disease: 
an updated review of the epidemiologic 
evidence. Ann Plast Surg 2004; 52: 598 - 601. 
31. Gabriel SE, O'Fallon WM, Kurland LT, et al. Risk 
of connective-tissue diseases and other 
disorders after breast implantation. N Engl J Med 
1994; 330: 1697 - 702. 
32. Sánchez-Guerrero J, Colditz GA, Karlson EW, et 
al. Silicone breast implants and the risk of 
connective-tissue diseases and symptoms. N 
Engl J Med 1995; 332: 1666 - 70. 
33. Hölmich LR, Lipworth L, McLaughlin JK, et al. 
Breast implant rupture and connective tissue 
disease: a review of the literature. Plast Reconstr 
Surg 2007; 120: 62S - 69S. 
34. Christopher Hillard, Jason D. Fowler, Ruth Barta, 
Bruce Cunningham. Silicone breast implant 
rupture: a review. Gland Surg 2017; 6 (2):163 – 
168. 

File đính kèm:

  • pdfvo_tui_don_silicone_sau_tai_tao_tuyen_vu_bao_cao_truong_hop.pdf