Vỡ túi độn silicone sau tái tạo tuyến vú: Báo cáo trường hợp và tổng quan y văn
Túi độn silicon đã được sử dụng trong gần 6 thập kỷ. Trong thời gian này, đã trải qua nhiều thay đổi đáng
kể trong thiết kế và sử dụng. Các thế hệ túi hiện tại đã được theo dõi thông qua các nghiên cứu cốt lõi của nhà
sản xuất để có được dữ liệu dài hạn về sự an toàn và cá biến chứng. Tốc độ vỡ ban đầu rất thấp và bắt đầu
tăng sau 6 - 8 năm cấy ghép. Vỡ túi có thể được phát hiện bằng khám lâm sàng, siêu âm hoặc chụp cộng
hưởng từ (MRI).
Phần lớn các trường hợp vỡ túi silicone là khó phát hiện lâm sàng. Bệnh nhân có triệu chứng co thắt vỏ
bao, khối u ở vú hoặc thay đổi hình dạng vú. Nguyên nhân phổ biến nhất của vỡ túi là tác động của dụng cụ
trong quá trình phẫu thuật. Vỡ túi độn silicone có thể được giới hạn trong vỏ bao giả hoặc có thể xâm nhập vào
mô vú. Bệnh nhân có triệu chứng với túi bị vỡ nên được cung cấp sự lựa chọn theo dõi, hay phẫu thuật có hoặc
không có thay túi mới.
Chúng tôi xin báo cáo trường hợp bệnh nhân nữ 28 tuổi, vỡ túi sau 03 năm tái tạo vú trái, bệnh nhân phát
hiện tình cờ khi đi tái khám định kỳ qua siêu âm vú. Bệnh nhân được chẩn đoán xác định lại bằng MRI tuyến vú
và sau đó phẫu thuật thay túi độn.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Vỡ túi độn silicone sau tái tạo tuyến vú: Báo cáo trường hợp và tổng quan y văn
VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 430 VỠ TÚI ĐỘN SILICONE SAU TÁI TẠO TUYẾN VÚ: BÁO CÁO TRƯỜNG HỢP VÀ TỔNG QUAN Y VĔN NGUYỄN VĔN THỪA1, PHẠM LÊ XUÂN HUY2, NGUYỄN HỒNG PHÚC2, NGUYỄN BÁ TRUNG3, HOÀNG THÀNH TRUNG4, TRẦN MINH TUẤN1, TRƯƠNG THÀNH TRÍ2, PHAN ĐỨC VĨNH KHÁNH5, HÀ HIẾU TRUNG2 TÓM TẮT Túi độn silicon đã được sử dụng trong gần 6 thập kỷ. Trong thời gian này, đã trải qua nhiều thay đổi đáng kể trong thiết kế và sử dụng. Các thế hệ túi hiện tại đã được theo dõi thông qua các nghiên cứu cốt lõi của nhà sản xuất để có được dữ liệu dài hạn về sự an toàn và cá biến chứng. Tốc độ vỡ ban đầu rất thấp và bắt đầu tĕng sau 6 - 8 nĕm cấy ghép. Vỡ túi có thể được phát hiện bằng khám lâm sàng, siêu âm hoặc chụp cộng hưởng từ (MRI). Phần lớn các trường hợp vỡ túi silicone là khó phát hiện lâm sàng. Bệnh nhân có triệu chứng co thắt vỏ bao, khối u ở vú hoặc thay đổi hình dạng vú. Nguyên nhân phổ biến nhất của vỡ túi là tác động của dụng cụ trong quá trình phẫu thuật. Vỡ túi độn silicone có thể được giới hạn trong vỏ bao giả hoặc có thể xâm nhập vào mô vú. Bệnh nhân có triệu chứng với túi bị vỡ nên được cung cấp sự lựa chọn theo dõi, hay phẫu thuật có hoặc không có thay túi mới. Chúng tôi xin báo cáo trường hợp bệnh nhân nữ 28 tuổi, vỡ túi sau 03 nĕm tái tạo vú trái, bệnh nhân phát hiện tình cờ khi đi tái khám định kỳ qua siêu âm vú. Bệnh nhân được chẩn đoán xác định lại bằng MRI tuyến vú và sau đó phẫu thuật thay túi độn. SUMMARY Silicone breast implant rupture in reconstructions: Case report and review Silicone breast implant have been used for nearly 6 decades. During this time, they underwent significant changes in design and use. Current generations of bags have been monitored through the manufacturer's core studies to obtain long-term data on safety and complications. The initial rupture rate is very low and begins to increase after 6 - 8 years of transplant. Rupture of the sac can be detected by physical examination, ultrasound or magnetic resonance imaging (MRI). The majority of broken silicone bags are clinically undetectable. Symptomatic patients may appear with capsule spasm, breast lumps or breast shape changes. The most common cause of pocket rupture is the impact of instruments during surgery. Rupture of the silicone padded pouch may be limited to a dummy capsule or may penetrate into breast tissue. Patients with symptoms of a broken bag should be offered the option of follow-up, or surgery with or without a new bag replacement. We would like to report the case of a 28 - year - old female patient with a broken breast after 3 years of reconstructing her left breast, who accidentally discovered it during a routine breast re-examination. The patient was diagnosed again by MRI of the mammary gland and then had surgery to change the padded bag. Keywords: Implant, rupture, silicone. 1 BSCKII. Phó Trưởng Khoa Điều trị Tổng hợp - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 2 BSCKI. Khoa Điều trị Tổng hợp - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 3 BSCKII. Trưởng Khoa Điều trị Tổng hợp - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 4 ThS.BSCKII. Phó Trưởng Khoa Điều trị Tổng hợp - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 5 BSCKII. Khoa Điều trị Tổng hợp - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 431 MỞ ĐẦU Túi độn silicone là một chất liệu cần thiết trong phẫu thuật thẩm mỹ và tái tạo vú toàn cầu kể từ phát minh bởi Cronin vào đầu nĕm 1960. Trong những thập kỷ tiếp theo, túi độn silicone trải qua nhiều tiến bộ trong thiết kế và đã được chịu sự giám sát và tranh cãi quốc tế đáng kể liên quan đến an toàn. Mối quan tâm về độ an toàn này dẫn đến việc ngừng sử dụng túi độn silicone ở Mỹ từ nĕm 1992 - 2000. FDA yêu cầu các nhà sản xuất túi độn nộp các nghiên cứu cốt lõi về độ an toàn và hiệu quả về một số lượng lớn vật liệu dùng trong tương lai này. Vào tháng 11 nĕm 2006, sau khi trình bày dữ liệu chứng minh hiệu quả và an toàn trong thời gian dài bao gồm lợi ích và nguy cơ vỡ túi, co thắt vỏ bao và mổ lại, túi độn silicone được FDA chấp nhận là một phương tiện sử dụng cho cả phẫu thuật thẩm mỹ và tái tạo tuyến vú. Hiện tại, ở Mỹ, có ba nhà sản xuất túi độn ngực silicon đã được phê duyệt: Allergan, Sientra và Mentor. Trong bài viết này chúng tôi xin đề cập đến vỡ túi độn ngực silicon bao gồm tỷ lệ vỡ túi, cơ chế vỡ, chẩn đoán và xử trí vỡ túi. Cuộc cách mạng về túi độn Túi độn silicone được phân loại thành các thế hệ dựa trên sự tiến bộ và phát triển của lớp vỏ ngoài của túi và vật liệu làm đầy gel. Thế hệ đầu tiên được sử dụng trong những nĕm 1960 và đầu những nĕm 70. Chúng có lớp vỏ dày và chất liệu silicone có độ nhớt cao dẫn đến rất chắc chắn và cấy ghép bền. Miếng dán Dacron được đặt ở mặt sau của túi để giảm di chuyển cấy ghép. Tỷ lệ vỡ thấp; tuy nhiên, co thắt võ bao và vôi hóa tỷ lệ cao, gần 100% trong cấy ghép tại chỗ lớn sau hơn 10 nĕm. Hình 1. Các kiểu vỡ túi. (A) Túi thế hệ 1 còn nguyên vẹn với bằng chứng về gel đã chảy. (B) vỡ túi thế hệ thứ hai silicone chảy tự do; (C) vỡ túi trong võ bao, silicone ở trong bao xơ như một bệnh nhân có khối u vú Do đó, thế hệ túi ngực thứ hai đã được thiết kế với lớp vỏ mỏng hơn và silicone ít nhớt hơn theo thứ tự để tạo cảm giác mềm mại và tự nhiên hơn. Do những thay đổi thiết kế, vỏ túi mỏng thế hệ thứ hai đã bị ảnh hưởng với tỷ lệ vỡ túi tĕng đáng kể cao tới 60%(5,6). Ngoài ra, kích thước hạt nhỏ với liên kết chéo tối thiểu cần thiết cho kết quả linh hoạt hơn trong sự khuếch tán đáng kể của các đoạn silicon chuỗi ngắn xuyên qua vỏ bọc, và vào xung quanh vỏ bao được biết đến như chảy silicone. Tỷ lệ vỡ cao và mối quan tâm về tác dụng xấu của gel silicone trong túi đã giúp kích thích phân loại lại silicone cấy ghép và dẫn đến việc tạm ngưng sử dụng, chờ xử lý kết quả nghiên cứu cốt lõi. Hình 1 cho thấy các ví dụ về các loại vỡ khác nhau của túi gặp phải bao gồm cả chảy gel trong vỏ bao, vỡ vỏ bao với silicone chảy tự do, và vỡ túi nhưng được bao quanh trong bao xơ xung quanh. Túi độn silicone thế hệ thứ ba nhằm giải quyết tĕng tỷ lệ vỡ và chảy silicone đáng kể của túi thế hệ thứ hai. Thêm lớp vỏ bền, nhiều lớp với lớp rào chắn ở giữa Diphenyl Silicone giữa hai lớp Diphenyl Silicone giảm đáng kể vỡ và chảy silicone. Ngoài ra, thêm vào silicone chứa kích thước hạt lớn hơn và tĕng liên kết chéo để giảm khuếch tán. Thế hệ túi độn ngực thứ ba được sử dụng cho các nghiên cứu sau cùng của FDA về túi silicone ở Mỹ. Kể từ đó, túi thế hệ thứ tư và thứ nĕm đã được phát triển, bao gồm cả hình thức và hình dạng ổn định, đó là các túi độn hiện đang sử dụng. Những túi độn này có vỏ dày hơn kết hợp với chất làm đầy gel gắn kết hơn và được sản xuất trong cả hai mô hình vỏ nhám và trơn(7). Tỷ lệ và thời gian vỡ túi Dữ liệu liên quan đến tỷ lệ vỡ túi được công bố trong Nghiên cứu cốt lõi của mỗi nhà sản xuất thực hiện và công bố làm cơ sở cho sự chấp thuận của FDA. Đến nay, không có phương pháp chuẩn hóa báo cáo tỷ lệ vỡ túi mà không cần phục hồi, một lựa chọn nhiều bệnh nhân từ chối. Tỷ lệ báo cáo khác nhau đáng kể giữa các nhà sản xuất và phương pháp đánh giá bệnh nhân. Trong nghiên cứu cốt lõi Allergan và Mentor, một số bệnh nhân được sàng lọc bằng chụp cộng hưởng (MRI), trong khi những VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 432 công trình khác chỉ khám lâm sàng nếu họ biểu hiện với các triệu chứng thực thể, thì họ dùng MRI đánh giá lại(8). Túi tròn Mentor MemoryGel chứng minh tổng tỷ lệ vỡ tích lũy sau 6 nĕm là: 1,1% đối với đặt túi thẩm mỹ lần đầu, 11,6% đối với đặt túi thẩm mỹ lại lần sau, 3,8% cho tái tạo vú lần đầu và 5,9% cho tái tạo vú bằng túi lại lần sau(9). Dữ liệu dài hơn đã được thống kê nhưng hiện đang không được công bố(10). Mentor hình giọt nước ước tính tỷ lệ vỡ trong nghiên cứu đoàn hệ trên MRI sau 6 nĕm là 2,1% cho thẩm mỹ lần đầu, 2,9% cho thay đổi túi, 1,5% cho tái tái tạo lần đầu và 0% cho tái tạo sửa lại(11). Túi tròn Allergan Naturelle, 10 nĕm tỷ lệ vỡ của khi nghiên cứu đoàn hệ MRI (264 bệnh nhân) là: 9,3% cho đặt túi thẩm mỹ lần đầu, 5,4% cho đặt túi thẩm mỹ lại lần sau và 35,4% cho tái tạo bằng túi lần đầu, với tỷ lệ vỡ tổng thể là 13,0%(12). Mẫu túi Allergan nhám, sau 10 nĕm trong nghiên cứu đoàn hệ MRI (316 bệnh nhân) nguy cơ vỡ là 17,7% đối với phẫu thuật đặt túi thẩm mỹ lần đầu, 14,7% đối đặt túi thẩm mỹ lại lần sau, 12,4% cho tái tạo bằng túi lần đầu và 19,6% cho tái tạo sửa lại. Tỷ lệ vỡ chung (nghi ngờ và xác nhận) trong đoàn hệ MRI là 16,4%(13). Bảng 1. Phân tích Kaplan-Meier so sánh tỷ lệ vỡ túi theo các nhà sản xuất và theo chiều dài nghiên cứu Loại túi (Chiều dài nghiên cứu) Thẩm mỹ lần đầu Thay túi Tái tạo lần đầu Thay túi tái tạo Allergan tròn 10 nĕm 9.3 5.4 35.4 - Allargan giọt nước 10 nĕm 17.7 14.7 12.4 19.6 Mentor tròn 6 nĕm 1.1 11.6 3.8 5.9 Mentor giọt nước 6 nĕm 2.1 2.9 1.5 0 Sientra 8 nĕm 6.4 5.2 2.8 Not available Một nghiên cứu cốt lõi trung bình 9 nĕm về túi gel Sientra được công bố vào nĕm 2016 bao gồm 1.788 bệnh nhân với đoàn hệ MRI gồm 571 bệnh nhân. Tỷ lệ vỡ đoàn hệ MRI 8 nĕm là: 6,4% cho đặt túi thẩm mỹ lần đầu, 5,2% cho đặt túi thẩm mỹ lại lần sau, 2,8% cho tái tạo bằng túi độn lần đầu và dữ liệu tái tạo lần sau hiện không có sẵn. Ngoài ra, tỷ lệ vỡ trong 10 nĕm đoàn hệ MRI tĕng cơ bản là 9.0%(14). Bảng 1 tóm tắt dữ liệu vỡ được công bố gần đây nhất cho túi độn có sẵn ở Mỹ. Ngoài các nghiên cứu bắt buộc của FDA, còn có tài liệu quan trọng mô tả tỷ lệ vỡ túi trong dân số quốc tế. Collis và Shape kiểm tra 149 bệnh nhân có sử dụng túi thế hệ thứ ba để đặt túi thẩm mỹ hoặc tái tạo vú bĕng túi độn. MRI đã được thực hiện và bệnh nhân có dùng túi nghi ngờ được đề nghị kiểm tra. Dữ liệu của họ cho thấy rằng vỡ túi bắt đầu từ nĕm 6 - 7 và từ nĕm 13 tỷ lệ vỡ là 11,8%(15). Một nghiên cứu của Đan Mạch được thiết kế để xác định tỷ lệ vỡ túi ở phụ nữ dùng túi silicone nguyên thủy bởi MRI trong khoảng thời gian 3 nĕm. Đối với túi hiện đại, thế hệ ba hay thế hệ sau, họ ước tính túi được bảo tồn không vỡ là 98% sau 5 nĕm và 83% - 85% tại 10 nĕm. Họ kết luận rằng túi hiện đại có độ bền trong 6 - 8 nĕm. Nguy cơ vỡ tĕng đáng kể sau 6 nĕm với tỷ lệ ước tính là 15% và thời gian dự kiến sẽ vỡ giữa nĕm thứ ba và thứ mười sau khi đặt(16). Do thiếu sự sàng lọc và báo cáo được chuẩn hóa, cũng như nhiều thế hệ túi độn và nhà sản xuất có sẵn, rất khó để đưa ra tỷ lệ vỡ tương đương giữa các loại và giữa các nhà sản xuất túi. Trong các tài liệu đã xuất bản, cần thận trọng để so sánh trực tiếp tỷ lệ vỡ mà không xem xét cẩn thận các phương pháp chẩn đoán và phương pháp thống kê đánh giá hoặc khoảng thời gian để đánh giá tỷ lệ vỡ được báo cáo. GIỚI THIỆU BỆNH ÁN Bệnh nhân nữ, tên TRẦN THANH TH. NG. 28 tuổi. Địa chỉ: Phường Phú Hữu, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh. Vào viện ngày 01/08/2019. Ngày ra viện: 19/08/2019. Số vào viện: 022515/16. Lý do vào viện: Theo dõi vỡ túi độn vú trái. Bệnh sử: Bệnh nhân được chẩn đoán ung thư vú trái TisN0M0 đã được sinh thiết bướu, được phẫu thuật sinh thiết hạch lính gác nách trái - Đoạn nhũ trái - tái tạo vú trái bằng túi độn (11/2016). Giải phẫu bệnh sau mổ là carcinôm tuyến vú tại chỗ, grad cao. Bệnh nhân được xuất viện và tái khám định kỳ khoa khám bệnh mỗi 03 tháng. Tháng 06/2019, bệnh nhân đi tái khám, siêu âm định kỳ theo dõi vỡ túi độn silicone nên nhập viện trở lại VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 433 Tình trạng lúc nhập viện: bệnh tỉnh, KPS 100. Không tiền cĕn bệnh lý khác. Khám Tuyến vú 2 bên cân đối, không dấu hiệu biến dạng, sờ không thấy khối hay tổn thương trên vú trái. Hạch nách 2 bên sờ không thấy. Các cơ quan khác chưa ghi nhận bất thường. Siêu âm Vú trái (tái tạo): Có hình ảnh túi độn ở phía sau cơ ngực lớn, vỏ bao xơ mỏng liên tục, bờ gợn sóng, giữa các nếp có dịch echo dày di chuyển khi đè. Hình 2. kết quả siêu âm: bao xơ gợn sóng và có dịch MRI Vú trái đã phẫu thuật và đặt implant phía sau cơ ngực lớn, túi có tín hiệu trung gian trên T1W1, tín hiệu cao trên T2W1, Silicone Bright, có hình ảnh vỡ trong bao, silicone ra ngoài bao implant nhưng còn nằm trong bao xơ, có ít dịch xung quanh bao implant. Hình 3. Có hình ảnh vỡ trong bao Bệnh nhân được phẫu thuật lấy túi độn, bơm rửa và thay túi mới. VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 434 Hình 4. Bệnh nhân trước và trong phẫu thuật Hình 5. Túi độn của bệnh nhân bị vỡ Hình 6. Sau thay túi BÀN LUẬN Chẩn đoán vỡ túi độn silicone Hầu hết các bệnh nhân bị vỡ túi độn không biểu hiện các dấu hiệu hoặc triệu chứng lâm sàng và được gọi là vỡ im lặng(17,18). Đánh giá vỡ túi chủ yếu phụ thuộc bởi các triệu chứng của bệnh nhân, bao gồm thay đổi hình dạng vú, kích thước hoặc độ sĕn chắc, co thắt vỏ bao, sờ thấy khối u hoặc đau vú. Có nhiều phương thức chẩn đoán có thể được sử dụng để đánh giá vỡ túi bao gồm MRI, siêu âm, chụp nhũ ảnh, chụp CT và cuối cùng là khám thực thể. MRI được chấp nhận rộng rãi như là nghiên cứu hình ảnh được lựa chọn để đánh giá tính toàn vẹn của túi với độ nhạy và độ đặc hiệu lớn hơn 90%(19). Những phát hiện kinh điển về MRI bao gồm dấu hiệu hình lưỡi(20) hoặc dấu hiệu giọt nước mắt trong túi hiện đại(21). FDA hiện khuyến cáo phụ nữ có túi độn trải qua sàng lọc 3 nĕm sau khi đặt và sau đó cứ mỗi 2 nĕm(22). Hướng dẫn này bắt đầu một cuộc thảo luận giữa bệnh nhân và bác sĩ của họ về những rủi ro xảy ra. Hạn chế của MRI bao gồm chi phí, cần máy quét với thiết bị chụp tuyến vú, thời gian thực hiện và hạn chế của bệnh nhân do cấy ghép y tế khác. Hình 7. Cho thấy sự xuất hiện điển hình của vỡ túi silicon. Có sự sụp của vỏ túi và silicone tự do trong võ bao VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 435 Siêu âm đã được phổ biến như là một phương tiện thay thế cho MRI. Những ưu điểm bao gồm giảm chi phí và thời gian, tuy nhiên, nó được biết đến là phục thuộc nhiều vào bác sĩ siêu âm. Siêu âm có thể phát hiện cả vỡ ngoài vỏ bao được mô tả là dấu hiệu bão tuyết(23) và vỡ trong vỏ bao được mô tả là dấu hiệu thang đứng(24). Sự giảm độ nhạy và giá trị tiên đoán âm tính của siêu âm đã được chứng minh do sự hiện diện của co thắt vỏ bao(25). Trong một so sánh phân tích chi phí giữa siêu âm và MRI để sàng lọc vỡ túi, siêu âm đã được tìm thấy có hiệu quả hơn về mặt chi phí ở cả phụ nữ có triệu chứng và không có triệu chứng. Ở phụ nữ không có triệu chứng, MRI thường được sử dụng để xác nhận kết quả siêu âm dương tính(26). Chụp nhũ ảnh là một phương thức hình ảnh tương đối rẻ tiền và thường xuyên được thực hiện cho phụ nữ có và không có túi độn vú. Vỡ ngoài vỏ bao có silicone tự do có thể dễ dàng được phát hiện bằng chụp nhũ ảnh; tuy nhiên, đây chỉ là một tỷ lệ nhỏ của vỡ túi độn(21). Do tính chất dày đặc của silicone, chụp nhũ ảnh không thể phát hiện ra vỡ trong vỏ bao. Điều này giới hạn các tiện ích tổng thể của chụp nhũ ảnh trong việc phát hiện vỡ túi(19). Các dấu hiệu trên nhũ ảnh bao gồm mật độ thùy hoặc hình cầu từ xa mô cấy và hình dạng không đều đến vỏ túi. Khám thực thể là bước đầu tiên cho một bệnh nhân để đánh giá vỡ túi. Các phát hiện trong khám bao gồm sự bất cân xứng của vú, các nốt sần hoặc các hạch bạch huyết, co thắt vỏ bao hoặc sờ thấy vỏ bao túi. Trong một nghiên cứu so sánh khám thực thể về vỡ túi với MRI, độ nhạy khám lâm sàng để chẩn đoán vỡ là 30% và độ đặc hiệu 88%. Giá trị tiên đoán dương tính của chẩn đoán lâm sàng vỡ là 75% và giá trị tiên đoán âm tính là 49%. Trong nghiên cứu này, các tác giả đã kết luận rằng khi khám lâm sang để xác định vỡ túi độn, cả độ nhạy và độ đặc hiệu đều không được chấp nhận(18). Một nghiên cứu gần đây trên 102 bệnh nhân sau phẫu thuật cắt bỏ vú từ Viện Ung thư Châu Âu kết luận MRI nên là phương thức được lựa chọn để chẩn đoán vỡ túi ở phụ nữ không có triệu chứng do độ chính xác vượt trội so với siêu âm. Tuy nhiên, các tác giả khuyên nên kiểm tra định kỳ bằng siêu âm và xác nhận bằng MRI(27). Cơ chế vỡ túi độn silicone Các cơ chế dẫn đến vỡ túi đã được nghiên cứu chặt chẽ. Các cơ chế được đề xuất cho vỡ túi bao gồm tổn thương từ dụng cụ phẫu thuật, sưng vỏ, lỗ hổng hoặc chấn thương cho túi như lực ép vào thành ngực hoặc đóng nắp phẫu thuật. Các nhà sản xuất túi đã nghiên cứu các cơ chế vỡ túi trên các túi vỡ được phát hiện. Handel et al. xem xét dữ liệu của Mentor và Allergan về nguyên nhân vỡ và tìm thấy 50−64% cấy ghép bị vỡ được báo cáo là bị hư hỏng bởi các dụng cụ phẫu thuật(8). Sưng võ là một hiện tượng xảy ra sau khi đặt túi. Nó được mô tả là sự giảm độ bền của vỏ do sự di chuyển của chất lỏng silicone vào vỏ. Necchi et al. đã kiểm tra lý thuyết này bằng cách cho các vỏ của túi nguyên thủy và túi vỡ hiện đại vào thử nghiệm sức mạnh. Nghiên cứu của họ đã tìm thấy sự giảm đáng kể về độ bền của vỏ bị vỡ so với võ không bị vỡ và có liên quan đến sự thay đổi này với sưng vỏ dựa trên tỷ lệ chiết xuất trong túi bị vỡ(28). Nếp gấp như một nguyên nhân vỡ implant và mô tả các kiểu gấp khác nhau thất bại dựa trên kính hiển vi. Brandon và cộng sự, công bố nhiều nghiên cứu về cơ chế vỡ túi. Nĕm 2006, họ đưa ra giả thuyết về sự thất bại tại vị trí nếp gấp là nguyên nhân của vỡ túi và mô tả các kiểu gấp khác nhau dựa trên kính hiển vi(29). Nếp gấp túi được tìm thấy là phổ biến hơn trong sự hiện diện của co thắt võ bao trong thời gian dài. Sự vỡ của túi có thể là một quá trình đa yếu tố và vẫn chưa thấy được những tiến bộ trong sự gắn kết gel và cải tiến trong thiết kế vỏ trong túi thế hệ 4 và 5 sẽ ảnh hưởng đến tỷ lệ và cơ chế vỡ túi. Biến chứng và xử trí Biến chứng của vỡ túi silicone đã là chủ đề của nhiều nghiên cứu. Một phân tích tổng hợp của dữ liệu dịch tễ học được công bố nĕm 2004 cho thấy không có bằng chứng về tỷ lệ mắc bệnh mô liên kết ở phụ nữ đặt túi silicone(30). Điều này phù hợp với nhiều nghiên cứu trước đây(31,32). Một đánh giá từ nĕm 2007, đã mô tả nĕm nghiên cứu mối liên hệ về túi bị vỡ và nguy cơ bệnh mô liên kết. Trong số các nghiên cứu này, không có bằng chứng cho thấy mối liên quan của bệnh mô liên kết được xác định rõ hoặc được xác định kém với vỡ túi(33). Nghiên cứu từ cơ sở dữ liệu quốc gia của Đan Mạch đã đánh giá phụ nữ với nhiều nhà sản xuất và nhiều loại túi với MRI trong khoảng thời gian 2 nĕm. Họ đã tìm thấy khoảng ba phần tư các trường hợp vỡ túi độn là trong vỏ bao và một phần tư còn lại là ngoài vỏ bao. Trong số các bệnh nhân bị vỡ túi, chỉ có 10% số ca cấy ghép bị vỡ trong vỏ bao tiến triển thành vỡ ngoài vỏ bao. Ở những bệnh nhân bị vỡ ngoài vỏ bao, 84% vẫn ổn định trong cùng khoảng thời gian. Phân tích sâu hơn cho thấy không có bằng chứng về mức độ tĕng kháng thể lên khi so sánh bệnh nhân đặt túi còn nguyên vẹn hoặc vỡ(16). Các nghiên cứu nhân khẩu học như vậy cho thấy không có gánh nặng sức khỏe rõ rệt nào liên quan đến cấy ghép bị vỡ hoặc nguyên vẹn là rất quan trọng trong việc đạt được sự chấp thuận của FDA. VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 436 Bệnh nhân bị vỡ âm thầm, được phát hiện tình cờ, nên được cung cấp các lựa chọn là phẫu thuật hoặc theo dõi. Nhiều người chọn theo dõi một thời gian. Bệnh nhân có các vấn đề lâm sàng có thể được giải quyết bằng phẫu thuật thì chủ động hơn. Việc xử trí phẫu thuật được đề nghị hiện nay đối với túi độn ngực vỡ được chẩn đoán hoặc có triệu chứng là loại bỏ, thường bao gồm cả phẫu thuật cắt bỏ võ bao. Khi vỡ trong vỏ bao, tức là, silicone tự do được chứa trong vỏ bao xơ xung quanh; loại bỏ mô cấy và lấy hết silicone tự do, cắt bỏ vỏ bao và thay thế túi khác nếu bệnh nhân muốn. Vỡ ngoài vỏ bao, với silicone tự do trong mô vú, được xử trí tương tự với việc cắt bỏ thêm bất kỳ u hạt nhìn thấy hoặc sờ thấy có trong nhu mô vú(5). KẾT LUẬN Vỡ túi độn ngực bằng silicon được biết là biến chứng liên quan đến cả phẫu thuật nâng ngực và tái tạo vú. Tốc độ vỡ tĕng theo tuổi thọ của túi. Do sự khác biệt đáng kể về phương pháp và sự khác biệt trong đánh giá bệnh nhân, cũng như độ dài thời gian cấy ghép được báo cáo trong dữ liệu vỡ túi, rất khó để so sánh trực tiếp tỷ lệ vỡ giữa các nhà sản xuất và các loại túi. Tổn thương túi độn bằng dụng cụ phẫu thuật có khả nĕng là nguyên nhân hàng đầu của vỡ. Phần lớn các trường hợp vỡ túi silicone là khó phát hiện lâm sàng và không có ảnh hưởng sức khỏe đáng kể. Bệnh nhân có triệu chứng với túi vỡ nên được cung cấp sự lựa chọn theo dõi, hoặc giải thích phẫu thuật cắt bỏ vỏ bao, có hoặc không có thay túi mới. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Cronin TD, Gerow FJ. Augmentation mammoplasty: A new ‘natural feel’ prosthesis. Transections of the Third International Congress of Plastic Surgery, Amsterdam. Excerpta Medical 1964: 41 - 9. 2. U.S. Food and Drug Administration. Regulatory History of Breast Implants in the U.S. Available online: fda.gov/MedicalDevices/ProductsandMedicalPro cedures/ ImplantsandProsthetics/BreastImplants/ucm0644 61htm 3. Cronin TD, Greenberg RL. Our experiences with the silastic gel breast prosthesis. Plast Reconstr Surg 1970; 46: 1 - 7. 4. Peters W, Pritzker K, Smith D, et al. Capsular calcification associated with silicone breast implants: incidence, determinants, and characterization. Ann Plast Surg 1998; 41: 348 - 60. 5. Collis N, Sharpe DT. Silicone gel-flled breast implant integrity: a retrospective review of 478 consecutively explanted implants. Plast Reconstr Surg 2000; 105: 1979 - 85; discussion 1986 - 9. 6. Brown SL, Middleton MS, Berg WA, et al. Prevalence of rupture of silicone gel breast implants revealed on MR imaging in a population of women in Birmingham,Alabama. AJR Am J Roentgenol 2000; 175: 1057 - 64. 7. Maxwell GP, Gabriel A. The evolution of breast implants. Plast Reconstr Surg 2014; 134:12S-7S. 8. Handel N, Garcia ME, Wixtrom R. Breast implant rupture: causes, incidence, clinical impact, and management. Plast Reconstr Surg 2013; 132: 1128 - 37.168 Hillard et al. Silicone breast implant rupture: a review© Gland Surgery. All rights reserved. gs.amegroups.com Gland Surg 2017;6(2): 163 – 168. 9. Cunningham B, McCue J. Safety and effectiveness of Mentor's MemoryGel implants at 6 years. Aesthetic Plast Surg 2009; 33: 440 - 4. 10. Health Canada. Summary Basis of Decision (SBD) for MENTOR MEMORYGEL™ CPG BREAST IMPLANTS COHESIVE III. Available online: mps/prodpharma/sbd-smd/md-im/ sbd - smd- 2015 - mentorcpg - 86150 - eng.php. 11. Hammond DC, Migliori MM, Caplin DA, et al. Mentor Contour Profle Gel implants: clinical outcomes at 6 years. Plast Reconstr Surg 2012; 129: 1381 - 91. 12. Spear SL, Murphy DK; Allergan Silicone Breast Implant U.S. Core Clinical Study Group. Natrelle round silicone breast implants: Core Study results at 10 years. Plast Reconstr Surg 2014; 133: 1354 - 61. 13. Maxwell GP, Van Natta BW, Bengtson BP, et al. Tenyear results from the Natrelle 410 anatomical formstable silicone breast implant core study. Aesthet Surg J 2015; 35: 145 - 55. 14. Stevens WG, Calobrace MB, Harrington J, et al. NineYear Core Study Data for Sientra's FDA- Approved Round and Shaped Implants with High-Strength Cohesive Silicone Gel. Aesthet Surg J 2016; 36: 404 - 16. 15. Collis N, Litherland J, Enion D, et al. Magnetic resonance imaging and explantation investigation of longterm silicone gel implant integrity. Plast Reconstr Surg 2007; 120: 1401 - 6. VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 437 16. Hölmich LR, Friis S, Fryzek JP, et al. Incidence of silicone breast implant rupture. Arch Surg 2003; 138: 801 - 6. 17. Dowden RV. Detection of gel implant rupture: a clinical test. Plast Reconstr Surg 1993; 91: 548 - 50. 18. Hölmich LR, Fryzek JP, Kjøller K, et al. The diagnosis of silicone breast-implant rupture: clinical fndings compared with fndings at magnetic resonance imaging. Ann Plast Surg 2005; 54: 583 - 9. 19. Everson LI, Parantainen H, Detlie T, et al. Diagnosis of breast implant rupture: imaging fndings and relative effcacies of imaging techniques. AJR Am J Roentgenol 1994; 163: 57 - 60. 20. Gorczyca DP. MR imaging of breast implants. Magn Reson Imaging Clin N Am 1994; 2: 659 - 72. 21. Gorczyca DP, Gorczyca SM, Gorczyca KL. The diagnosis of silicone breast implant rupture. Plast Reconstr Surg 2007; 120: 49S - 61S. 22. U.S. Food and Drug Administration. Silicone GelFilled Breast Implants. Available online: gov/MedicalDevices/ProductsandMedicalProced ures/ ImplantsandProsthetics/BreastImplants/ucm0638 71.htm. 23. Beekman WH, van Straalen WR, Hage JJ, et al. Imaging signs and radiologists' jargon of ruptured breast implants. Plast Reconstr Surg 1998; 102: 1281 - 9. 24. DeBruhl ND, Gorczyca DP, Ahn CY, et al. Silicone breast implants: US evaluation. Radiology 1993; 189: 95-8. 25. Medot M, Landis GH, McGregor CE, et al. Effects of capsular contracture on ultrasonic screening for silicone gel breast implant rupture. Ann Plast Surg 1997; 39: 337 - 41. 26. Chung KC, Malay S, Shauver MJ, et al. Economic analysis of screening strategies for rupture of silicone gel breast implants. Plast Reconstr Surg 2012; 130: 225-37. 27. Rietjens M, Villa G, Toesca A, et al. Appropriate use of magnetic resonance imaging and ultrasound to detect early silicone gel breast implant rupture in postmastectomy reconstruction. Plast Reconstr Surg 2014; 134:13e - 20e. 28. Necchi S, Molina D, Turri S, et al. Failure of silicone gel breast implants: is the mechanical weakening due to shell swelling a signifcant cause of prostheses rupture? J Mech Behav Biomed Mater 2011; 4: 2002-8. 29. Brandon HJ, Taylor ML, Powell TE, et al. Morphology of breast implant fold flaw failure. J Long Term Eff Med Implants 2006; 16: 441 - 50. 30. Lipworth L, Tarone RE, McLaughlin JK. Silicone breast implants and connective tissue disease: an updated review of the epidemiologic evidence. Ann Plast Surg 2004; 52: 598 - 601. 31. Gabriel SE, O'Fallon WM, Kurland LT, et al. Risk of connective-tissue diseases and other disorders after breast implantation. N Engl J Med 1994; 330: 1697 - 702. 32. Sánchez-Guerrero J, Colditz GA, Karlson EW, et al. Silicone breast implants and the risk of connective-tissue diseases and symptoms. N Engl J Med 1995; 332: 1666 - 70. 33. Hölmich LR, Lipworth L, McLaughlin JK, et al. Breast implant rupture and connective tissue disease: a review of the literature. Plast Reconstr Surg 2007; 120: 62S - 69S. 34. Christopher Hillard, Jason D. Fowler, Ruth Barta, Bruce Cunningham. Silicone breast implant rupture: a review. Gland Surg 2017; 6 (2):163 – 168.
File đính kèm:
vo_tui_don_silicone_sau_tai_tao_tuyen_vu_bao_cao_truong_hop.pdf

