Vô tư và nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong việc giải quyết vụ án hình sự

Vô tư và nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của

người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng

trong việc giải quyết vụ án hình sự

pdf 12 trang phuongnguyen 4700
Bạn đang xem tài liệu "Vô tư và nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong việc giải quyết vụ án hình sự", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vô tư và nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong việc giải quyết vụ án hình sự

Vô tư và nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong việc giải quyết vụ án hình sự
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 2 (2013) 16-27 
 16 
Vô tư và nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của 
người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng 
trong việc giải quyết vụ án hình sự 
Trần Thu Hạnh* 
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 22 tháng 4 năm 2013 
Chỉnh sửa ngày 16 tháng 5 năm 2013; chấp nhận đăng ngày 14 tháng 6 năm 2013 
Tóm tắt: Bài viết phân tích và xây dựng khái niệm “sự vô tư” trong lĩnh vực tư pháp hình sự. 
Thông qua đó làm rõ nội hàm cũng như ý nghĩa của nó đối với việc giải quyết vụ án hình sự khách 
quan, công bằng. Nếu sự vô tư là nền tảng thì nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố 
tụng, người tham gia tố tụng hình sự tạo ra thiết chế bảo đảm để sự vô tư được thực thi khi tiến 
hành tố tụng. Bài viết tập trung làm rõ cơ chế bảo đảm thực thi nguyên tắc này. 
1. “Sự vô tư” trong lĩnh vực tư pháp hình sự* 
a. Vô tư là một khái niệm chỉ trạng thái chủ 
quan của con người khi thực hiện một hoạt động 
xã hội nào đó có thể là hành động mang tính “vật 
chất” hoặc hoạt động tư duy của con người. Từ 
điển Tiếng Việt đưa ra định nghĩa vô tư như sau: 
“1. Không nghĩ đến lợi ích riêng tư. Sự giúp đỡ 
hào hiệp, vô tư. 2 Không thiên vị ai cả. Một trọng 
tài vô tư. Nhận xét một cách vô tư, khách quan”. 
Theo đó, một người khi hành động không xuất 
phát, không bị chi phối bởi lợi ích cá nhân mình 
hoặc lợi ích của những người khác mà mình quan 
tâm, hoặc bị phụ thuộc vào ý thức chủ quan của 
mình hay một chủ thuyết nhất định. Đối lập với 
vô tư là phạm trù thiên vị, nếu vô tư thì không 
thiên vị và đã thiên vị thì do kết quả của sự không 
_______ 
*
 ĐT: 84-4-7547512 
 E-mail: tranthuhanh72@yahoo.com 
vô tư. Cặp phạm trù này hoán đổi cho nhau ở 
trong mối quan hệ biện chứng nguyên nhân - kết 
quả, ở hoàn cảnh, điều kiện này thì vô tư là 
nguyên nhân nhưng ở tình huống khác nó lại là 
kết quả của thiên vị. Vô tư còn gắn với một hệ 
quả mang tính tất yếu là không đòi phải trả ơn, 
không đòi hỏi hỏi bất kỳ lợi ích nào mà hành 
động chỉ nhằm mang lại sự công bằng, thể hiện sự 
nghĩa hiệp vốn có trong nhân cách người quân tử 
hoặc khách quan trong việc đánh giá sự việc như 
vốn dĩ nó có không thiên lệch, không tô hồng hay 
bôi đen. Như vậy, vô tư được xem xét ở hai khía 
cạnh: Thứ nhất, nếu là hành động mang tính “vật 
chất” thì đó là hành động không vì vụ lợi, hướng 
tới mục đích cao thượng theo kiểu Lục Vân Tiên 
“khi thấy bất bình giữa đường chẳng tha”. Hành 
động vô tư, cao thượng được trọng nể ở mọi xã 
hội và trở thành truyền thống của dân tộc Việt 
Nam. Thứ hai, vô tư được đề cập đến trong việc 
xem xét, đánh giá, kết luận về một sự việc, một 
T.T. Hạnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 2 (2013) 16-27 
17 
con người, một quá trình nào đó. Đây là hoạt 
động tư duy của con người không những đòi hỏi 
tinh thần nghĩa hiệp mà còn cần phải có tri thức 
cũng như bản lĩnh thì người ta mới có thể vô tư 
trong các nhận xét, đánh giá, kết luận của mình. 
Người vô tư trong hoạt động tư duy thường được 
đánh giá cao trong lĩnh vực hoạt động của mình, 
rộng ra là sự thừa nhận của xã hội như một khẳng 
định về uy tín, năng lực, phẩm chất của một con 
người. Vô tư bao giờ cũng dẫn đến hệ quả là có 
thái độ khách quan đối với sự vật và hiện tượng 
được xem xét, nói khác đi ở đây con người đã làm 
được việc tưởng chừng như rất đỗi bình thường 
nhưng rất vĩ đại là logic chủ quan đã phù hợp với 
logic khách quan của sự vật. Chân lý đã được 
nhận thức, xác lập trong trường hợp này. Vô tư 
phẩm chất cần thiết cho mọi con người, mọi lĩnh 
vực đời sống nhưng nó đặc biệt có ý nghĩa trong 
nghiên cứu khoa học, nếu người làm khoa học 
không vô tư sẽ không thể tìm ra những qui luật 
vận động của thế giới vật chất và ý thức mà kết 
quả của nó là tạo ra sự văn minh của nhân loại để 
“biến con người từ vương quốc tất yếu đến vương 
quốc tự do” như Ăngghen đã nói. 
b. Nếu như trong khoa học sự vô tư, khách 
quan mang đến sự sáng tạo cho con người thì sự 
vô tư trong hoạt động của người làm công tác 
quản lý nhất là của thẩm phán và những người 
tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ 
án lại mang đến sự công bằng, dân chủ cho 
những người liên quan và cho cả xã hội. Những 
giá trị mà nền tư pháp mang đến cho xã hội phụ 
thuộc chủ yếu vào sự vô tư của người tiến hành 
tố tụng, do chỉ có thái độ vô tư của những người 
cầm cân nảy mực mới có nhận thức khách quan 
về những tình tiết của vụ án, bản án và các 
quyết định họ đưa ra mới khách quan, đúng 
người, đúng tội, mới làm cho người có tội và xã 
hội tâm phục, khẩu phục. Đó cũng là lý do giải 
thích cho hiện tượng trong nhà nước thần 
quyền, phong kiến hà khắc, mất dân chủ, 
chuyên chế nhưng vẫn có những ông quan xử 
án khách quan, công bằng mà đến ngày nay 
nhân dân vẫn ngưỡng mộ. Sự vô tư của thẩm 
phán và những người tiến hành tố tụng vì thế có 
ý nghĩa vô cùng quan trọng không những chỉ 
trong quá trình giải quyết vụ án mà còn trong 
việc thực thi công lý, bảo đảm quyền con 
người, xây dựng nhà nước pháp quyền. Giải 
thích về sự vô tư trong hoạt động tư pháp đã 
được Tòa án tối cao liên bang Hoa Kỳ diễn giải 
như sau[1]: Thứ nhất, sự vô tư được hiểu là 
không có sự thiên vị, làm lợi hoặc làm bất lợi 
cho một bên trong vụ tranh chấp (“lack of bias 
for or against a party to a dispute”). Sự vô tư 
trong trường hợp này bảo đảm cho mỗi bên 
trong vụ việc rằng thẩm phán sẽ áp dụng các 
quy định pháp luật đối với họ giống như thẩm 
phán áp dụng cho phía còn lại của vụ việc. Thứ 
hai, sự vô tư cũng được hiểu là thẩm phán, 
người có trách nhiệm giải quyết vụ việc không 
có thiên kiến, hay định kiến ủng hộ hay chống 
lại một quan điểm, một vấn đề pháp lý trong vụ 
việc từ trước khi giải quyết vụ việc đó (“lack of 
a bias for or against particular issues”, hay 
“lack of preconception in favor of or against a 
particular legal view”). Thứ ba, tuy nhiên, Tòa 
án cũng cho rằng yêu cầu một thẩm phán không 
được có chính kiến, quan điểm từ trước về bất 
cứ vấn đề pháp lý nào đặt ra trong vụ việc là 
một điều rất khó khả thi. Do vậy, theo Tòa án, 
điều quan trọng để bảo đảm sự vô tư có thể 
được đáp ứng là thẩm phán phải có một thái độ 
cởi mở ("open-mindedness"). Theo Tòa án, 
phẩm chất này không cấm đoán thẩm phán có 
quan điểm từ trước về một vấn đề pháp lý đặt ra 
trong vụ việc cụ thể, mà đòi hỏi thẩm phán phải 
sẵn sàng xem xét đến những quan điểm đối lập 
hay khác biệt, sẵn sàng chấp nhận có thể thay 
đổi những định kiến đó[2]. 
Từ những phân tích trên có thể hiểu: sự vô 
tư trong lĩnh vực tư pháp là xem xét, đánh giá, 
T.T. Hạnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 2 (2013) 16-27 
18 
giải quyết tranh chấp không thiên vị, khách 
quan bảo đảm sự công bằng, công lý giữa các 
bên liên quan của người có trách nhiệm giải 
quyết vụ án. 
Định nghĩa này không những chỉ ra nội hàm 
của sự vô tư mà thông qua đó làm nổi bật vai 
trò, ý nghĩa của sự vô tư trong lĩnh vực tư pháp 
hình sự. Đó là: (a) Sự vô tư của người tiến hành 
tố tụng, người tham gia tố tụng nền tảng của 
việc thực thi công lý; (b) Sự vô tư của người 
tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng là yêu 
cầu tất yếu của sự tôn trọng và bảo vệ quyền 
con người trong nhà nước pháp quyền; (c) Sự 
vô tư của người tiến hành tố tụng, người tham 
gia tố tụng: điều kiện để tạo dựng niềm tin của 
cộng đồng vào hoạt động tư pháp; (d) Sự vô tư 
của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố 
tụng: Yêu cầu tất yếu của nhà nước pháp quyền 
[3]. “Sự vô tư của tư pháp, hay cụ thể hơn là 
của những người tiến hành tố tụng (đặc biệt là 
thẩm phán) và những người tham gia tố tụng là 
người phiên dịch, người giám định không chỉ 
thể hiện ở việc thực tế họ phải không có định 
kiến, thiên kiến hay thiên vị gây lợi hay bất lợi 
cho bên này hay bên kia của vụ việc. Quan 
trọng không kém là trong việc thực hiện chức 
năng của mình, họ phải có những bảo đảm 
khách quan, có những biểu hiện khách quan để 
chứng tỏ sự vô tư đó, loại bỏ tất cả những nghi 
ngờ có căn cứ về sự vô tư của họ”[3]. 
Sự vô tư của tư pháp là điều kiện cơ bản, 
tiên quyết để có một quy trình tố tụng công 
minh, chính xác, đúng người đúng tội, đúng 
pháp luật. Hơn nữa, sự vô tư và những biểu 
hiện vô tư của tư pháp cũng là một yếu tố nền 
tảng để tạo dựng, củng cố niềm tin của những 
người tham gia tố tụng là người bị tạm giữ, bị 
can, bị cáo, người bị hại, người có quyền và 
nghĩa vụ liên quancũng như của cả cộng 
đồng xã hội nói chung vào hoạt động của hệ 
thống các cơ quan tư pháp nói riêng và của bộ 
máy công quyền nói chung. Bảo đảm sự vô tư 
của tư pháp chính là một yêu cầu quan trọng 
với quyền của mỗi cá nhân có quyền được xét 
xử một cách công bằng. 
Từ những nội dung trên, có thể thấy yêu cầu 
bảo đảm sự vô tư của hoạt động tư pháp, kết 
hợp với những yêu cầu khác, như bảo đảm sự 
độc lập, khách quan của tư pháp là những yêu 
cầu không thể tách rời, mang tính thiết yếu của 
một nhà nước pháp quyền. 
2. Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những 
người tiến hành tố tụng, người tham gia tố 
tụng hình sự 
a. Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người 
tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng 
trong luật tố tụng hình sự là một trong những 
nguyên tắc nền tảng của hoạt động tư pháp hình 
sự. Đến nay, nguyên tắc này đã được thừa nhận 
trong tuyệt đại đa số pháp luật các quốc gia, 
được ghi nhận trong hầu hết các văn kiện pháp 
lý quốc tế về quyền con người. 
Theo PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí thì bảo 
đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người 
tham gia tố tụng trở thành nguyên tắc cơ bản 
của Luật tố tụng hình sự do việc “xác định sự 
thật khách quan và giải quyết vụ án khách quan, 
đảm bảo công bằng là đòi hỏi tất yếu của tố 
tụng hình sự trong nhà nước pháp quyền xã hội 
chủ nghĩa. Tuy nhiên, khi điều tra, truy tố, xét 
xử thường có sự không “cân bằng”, không bình 
đằng giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, người 
tiến hành tố tụng với bị can, bị cáo và những 
người tham gia tố tụng khác do một bên là đại 
diện cho công quyền với đầy đủ sức mạnh của 
quyền lực, pháp luật, một bên là những người bị 
nghi là phạm tội không có những sức mạnh và 
điều kiện như vậy”[4]. Do vậy, cần thiết lập 
một cơ chế bảo đảm sự vô tư của những người 
T.T. Hạnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 2 (2013) 16-27 
19 
đại diện công quyền cũng như chống lại sự lạm 
quyền của họ khi tiến hành giải quyết vụ án 
trong luật tố tụng hình sự. Việc vô tư của người 
tiến hành tố tụng có ý nghĩa quan trọng góp 
phần vào việc giải quyết vụ án một cách khách 
quan nên Luật tố tụng hình sự coi bảo đảm sự 
vô tư của người tiến hành tố tụng, người phiên 
dịch, người giám định là nguyên tắc cơ bản. Sự 
vô tư của những người này phụ thuộc vào ý 
thức chủ quan nhưng đồng thời còn chịu tác 
động của nhiều yếu tố khách quan nên bên 
cạnh việc giáo dục, nâng cao đạo đức đối với họ 
cần có cơ chế pháp lý đề ngăn ngừa khả năng 
dẫn đế sự không vô tư khi tiến hành tố tụng. Cơ 
chế này phải được qui định cụ thể, rõ ràng trong 
luật tố tụng hình sự làm cơ sở pháp lý cho việc 
ngăn ngừa sự không vô tư của người tiến hành 
tố tụng, người phiên dịch, người giám định, phù 
hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội 
phạm và tâm lý, đạo đức truyền thống mỗi quốc 
gia. “Cơ chế cũng cần tạo một thủ tục chặt chẽ 
nhưng đơn giản, thuận tiện cho việc thay đổi 
người tiến hành tố tụng, người phiên dịch, 
người giám định bằng việc để cho họ tự mình từ 
chối tiến hành tố tụng khi có những căn cứ luật 
định, cơ quan có thẩm quyền chỉ quyết định 
thay đổi khi những người này không tự nguyện. 
Sự chủ động từ chối tham gia tố tụng của người 
tiến hành tố tụng, người phiên dịch, người giám 
định trong trường hợp này thể hiện sự hiểu biết 
và tôn trọng pháp luật của đội ngũ cán bộ trong 
các cơ quan tư pháp, đồng thời làm đơn giản 
hoá thủ tục tố tụng cũng như gánh nặng cho các 
cơ quan tiến hành tố tụng” [4]. 
Trong quy định pháp luật, trong học thuyết, 
cũng như trong án lệ các nước hoặc quốc tế 
không phải luôn luôn có cách tiếp cận, giải 
thích và áp dụng giống nhau về nguyên tắc này. 
Từ nhận thức, quan niệm khác biệt này, các 
nước có thể có những cách tiếp cận, biện pháp 
khác nhau nhằm bảo đảm yêu cầu của nguyên 
tắc này trong lĩnh vực tố tụng hình sự. 
Tiếng La tinh từ lâu đã tồn tại khái niệm 
“Nemo judex in re sua - Nul n’est juge en sa 
propre cause” (Không ai có thể là quan tòa trong 
vụ việc của chính mình). Theo các học giả châu 
Âu hiện nay thì “Quyền được yêu cầu xét xử 
thấu đáo đối với việc cáo buộc hình sự bởi một 
tòa án độc lập và vô tư được coi là biểu tượng 
của ý tưởng về dân chủ trong tiến trình tố 
tụng”[5]. Vì thế, nguyên tắc bảo đảm sự vô tư 
trong tố tụng hình sự được ghi nhận trong Hiến 
pháp, được coi như những yếu tố cấu thành của 
nhà nước pháp quyền. Hầu hết các văn bản pháp 
luật của thế giới và Liên minh châu Âu (Tuyên 
ngôn Thế giới về nhân quyền 1948 - Điều 10; 
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính 
trị 1966 (Điều 14; Hiến chương Liên minh châu 
Âu về các Quyền cơ bản của con người - Điều 
47; Công ước châu Âu về quyền con người năm 
1950 - điều 6 /1; án lệ của Tòa án Công lý Cộng 
đồng châu Âu; v.v đều thống nhất rằng nguyên 
tắc độc lập và vô tư là các thành tố cấu thành nên 
một Tòa án công bằng, công lý. 
Là một trong những nguyên tắc lâu đời ở 
châu Âu, nguyên tắc bảo đảm sự vô tư trong tố 
tụng cùng với quan niệm về công lý, quan niệm 
về vô tư đã hình thành. Hình ảnh nữ thần công 
lý - với dải băng bịt mắt - theo các tác giả châu 
Âu: không phải bởi nữ thần bỏ qua không nhìn 
vào vụ việc thực tế, mà chỉ bởi vì không muốn 
bị ảnh hưởng bởi những nhân tố bên ngoài khả 
dĩ làm sai lệch việc xét xử. Mặc dù được thừa 
nhận từ lâu trong thực tiễn pháp luật châu Âu, 
nhưng theo các học giả châu Âu, rất khó đưa ra 
một định nghĩa về nguyên tắc đảm bảo sự vô tư 
của người tiến hành tố tụng và người tham gia 
tố tụng, bởi lẽ: (a) Ngay nội hàm khái niệm “vô 
tư” đã là rộng và khó xác định; (b) Nguyên tắc 
vô tư nằm trên ranh giới khá “mỏng manh” với 
các nguyên tắc gần gũi nó như: độc lập xét xử, 
T.T. Hạnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 2 (2013) 16-27 
20 
trung lập. Theo tác giả Giuseppe Tarzia, Giáo 
sư Đại học Milan (Ý) [11], trong xét xử, 
nguyên tắc chung của mọi quốc gia tiến bộ là: 
thẩm phán phải thực sự vô tư và độc lập. Sự vô 
tư thể hiện ở vị trí độc lập của người thẩm phán 
- thường đã được quy định ngay trong Hiến 
pháp - và trong sự không ràng buộc của người 
thẩm phán đối với các lợi ích vật chất hay tinh 
thần. Theo Burkhard HESS, Giáo sư Đại học 
Heidelberg, Liên Bang Đức thì nguyên tắc bảo 
đảm sự vô tư được hiểu là, các đương sự phải 
có quyền được xét xử bởi một bên độc lập, 
không thiên vị và không định kiến [6]. 
Theo án lệ của tòa án nhân quyền châu Âu, 
và theo học thuyết pháp lý phổ biến trên thế 
giới, sự thiếu vô tư của người tiến hành tố t ... và người tham gia tố tụng với 
các nội dung nhằm mục đích phòng ngừa, ngăn 
chặn sự không vô tư của những người tiến hành 
tố tụng, người tham gia tố tụng và đồng thời với 
nó là những bảo đảm để thực thi nguyên tắc 
này. Các yếu tố đó bao gồm: Các qui định về 
tiêu chuẩn, điều kiện, thủ tục bổ nhiệm thẩm 
phán và những người tiến hành tố tụng; Các 
điều kiện về vật chất và tinh thần bảo đảm cho 
sự vô tư của những người tiến hành tố tụng, 
người tham gia tố tụng 
Khi bàn đến các yếu tố ảnh hưởng đến sự 
vô tư của thẩm phán trong quá trình giải quyết 
vụ án, tiếp cận dưới góc độ công việc, tác giả 
Serge GUINCHARD đã chỉ ra những khả năng 
có thể làm ảnh hưởng đến sự vô tư của người 
tiến hành tố tụng, trong đó có trường hợp thẩm 
phán đồng thời lại kiêm nhiệm chức năng hành 
chính. Do giải quyết liên tiếp và đồng thời công 
việc hành chính và tư pháp liên quan đến cùng 
vụ việc. Trường hợp phổ biến nhất hay gặp 
trong pháp luật Pháp, Bỉ, đó là việc một cơ 
quan thực thi đồng thời cả chức năng tư vấn và 
tài phán. Ví dụ: tòa hành chính ở Pháp và Bỉ 
vừa có chức năng tài phán vừa có chức năng tư 
vấn cho một số lĩnh vực hay một số văn bản 
quan trọng của cơ quan hành chính. Trường hợp 
này thường dẫn đến sự không vô tư nên xu 
hướng các nước sẽ không bổ nhiệm chức danh 
thẩm phán nếu họ không từ bỏ công việc hành 
chính. Nói cách khác, nguyên tắc vô tư của 
những người và cơ quan tiến hành tố tụng sẽ 
được xem xét không phải trên cơ sở mối quan 
ngại của đương sự về tính thiếu vô tư của người 
và cơ quan tiến hành tố tụng, mà trên cơ sở các 
yếu tố khách quan khác. Như vậy, sự kiêm 
nhiệm các công việc hành chính của người tiến 
hành tố tụng ở các cơ quan tư pháp luôn đồng 
nghĩa với việc vi phạm nguyên tắc bảo đảm sự 
vô tư trong tố tụng hình sự. 
Ở Hoa kỳ tình trạng không đủ tư cách pháp 
lý của các thẩm phán liên bang được quan tâm, 
trong đó chủ yếu với lý do họ sẽ không vô tư 
khi thực hiện chức phận của mình. Có lẽ việc 
thuyết phục những người đã quá già và không 
còn đủ sự quyết đoán để thực thi chức trách 
thẩm phán một cách hiệu quả rời bỏ chức vụ 
của họ còn phức tạp hơn cả việc cách chức các 
thẩm phán vì những hành vi sai phạm. Quốc hội 
đã cố gắng - với đôi chút thành công - khuyến 
khích nhiều thẩm phán cao tuổi nghỉ hưu bằng 
việc dành cho họ những lợi ích vật chất hấp dẫn 
khi nghỉ hưu. Từ năm 1984, các thẩm phán liên 
bang được phép nghỉ hưu mà vẫn được hưởng 
nguyên lương và phúc lợi theo cái gọi là quy tắc 
80; có nghĩa là khi tổng số tuổi và số năm hành 
nghề thẩm phán của họ là 80. Quốc hội cũng 
cho phép các thẩm phán chuyển sang ngạch 
chuyên viên cao cấp thay vì nghỉ hưu hoàn 
toàn. Để đổi lấy việc giảm khối lượng các vụ 
xét xử, họ được phép giữ lại văn phòng và các 
nhân viên và - quan trọng không kém - duy trì 
uy tín và lòng tự hào về việc vẫn là một thẩm 
phán đương nhiệm. Các thẩm phán thường chọn 
thời điểm để từ chức khi đảng của họ kiểm soát 
được tổng thống, và như vậy họ sẽ được thay 
thế bởi một thẩm phán có định hướng tương tự 
về pháp luật và chính trị. Một nghiên cứu tiến 
hành năm 1990 đã phát hiện thấy rằng, đặc biệt 
từ năm 1954, “tỷ lệ các thẩm phán nghỉ hưu/từ 
chức bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi những cân 
nhắc về mặt chính trị/ý thức hệ, và liên hệ chặt 
chẽ với tính đảng phái”, và do vậy đã chỉ ra 
rằng rất nhiều thẩm phán coi bản thân họ như 
một phần của sự liên kết chính sách giữa nhân 
dân, quy trình bổ nhiệm thẩm phán, và các 
T.T. Hạnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 2 (2013) 16-27 
24 
quyết định tiếp theo của các thẩm phán và 
chánh án. 
 Việc lựa chọn thành viên bồi thẩm đoàn 
cũng chú trọng tới việc bảo đảm sự vô tư của họ 
khi tham gia giải quyết vụ án. Một nhóm những 
người có tiềm năng trở thành thành viên bồi 
thẩm đoàn được triệu tập để có mặt ở tòa. Ở tòa 
án công khai, họ được thẩm vấn về những phẩm 
chất chung cho hoạt động của bồi thẩm đoàn 
theo một thủ tục được gọi là “voir dire” (tiếng 
Pháp cổ có nghĩa là “nói sự thật”). Công tố và 
luật sư bào chữa hỏi những câu hỏi chung và cụ 
thể đối với những thành viên tiềm năng của bồi 
thẩm đoàn. Họ có phải là công dân của bang 
không? Họ có thể hiểu được tiếng Anh không? 
Họ hay ai đó trong gia đình họ đã từng bị xét xử 
vì một tội hình sự hay chưa? Họ đã đọc hay nảy 
sinh ý kiến gì về vụ án có trong tay hay chưa? 
Khi thực hiện thủ tục “nói sự thật”, bang và luật 
sư bào chữa có hai mục tiêu. Mục tiêu thứ nhất 
là để loại bỏ tất cả những thành viên nào trong 
danh sách hội thẩm, có lý do rõ ràng giải thích 
tại sao họ không thể đưa ra quyết định không 
thiên vị trong vụ án. Ví dụ phổ biến là một 
người nào đó bị luật pháp loại trừ khỏi bồi thẩm 
đoàn, một thành viên bồi thẩm đoàn là bạn hay 
họ hàng của một người tham gia vào việc xét 
xử, và một người nào đó công khai thừa nhận 
đã có sự thiên lệch rõ ràng trong vụ án. Những 
phản đối đối với thành viên bồi thẩm đoàn theo 
loại này được coi là phản đối vì định kiến, và 
con số những phản đối như vậy là không hạn 
chế. Chính thẩm phán là người quyết định 
những phản đối đó có hiệu lực hay không. Mục 
tiêu thứ hai mà những luật sư phản biện hướng 
đến trong việc thẩm vấn những thành viên triển 
vọng của bồi thẩm đoàn là để loại bỏ những 
người mà họ tin là có thể không nghiêng về 
phía họ kể cả khi không có nguyên nhân rõ ràng 
cho sự thiên lệch. Mỗi bên được phép có một số 
phản đối võ đoán - yêu cầu tòa án loại trừ một 
thành viên triển vọng của bồi thẩm đoàn mà 
không đưa ra lý do. Hầu hết các bang theo tập 
quán dành cho luật sư bào chữa nhiều phản đối 
võ đoán hơn là cho công tố. Ở cấp độ liên bang, 
từ một đến ba phản đối tính trên một bồi thẩm 
đoàn thường được dành cho mỗi bên, tùy theo 
bản chất của tội phạm; còn đối với những vụ án 
tử hình thì con số này lên đến 20. Việc sử dụng 
phản đối võ đoán là một nghệ thuật hơn là một 
môn khoa học và thường dựa trên cơ sở linh 
cảm của luật sư. 
Trong quá khứ, các luật sư có thể loại trừ 
những thành viên tiềm năng của bồi thẩm đoàn 
thông qua phản đối võ đoán đối với hầu như bất 
kỳ nguyên nhân gì. Tuy nhiên, trong những 
năm gần đây, Tòa án tối cao đã giải thích điều 
khoản bảo vệ công bằng của Tu chính án Hiến 
pháp thứ mười bốn là để hạn chế quyền tự 
quyết này bằng cách cấm công tố sử dụng phản 
đối của mình để loại trừ những người Mỹ gốc 
Phi hay phụ nữ khỏi hoạt động của bồi thẩm 
đoàn hình sự. Thủ tục đặt câu hỏi và phản đối 
những thành viên triển vọng của bồi thẩm đoàn 
tiếp tục đến khi tất cả những người bị phản đối 
vì định kiến đều được loại bỏ, những phản đối 
võ đoán hoặc đã được được sử dụng hết hoặc bị 
khước từ dùng tiếp, và một bồi thẩm đoàn gồm 
12 người (ở một số bang là 6 người) được thành 
lập. Tại một số bang, những thành viên dự 
khuyết cũng được lựa chọn. Họ tham dự phiên 
tòa nhưng chỉ tham gia vào những suy xét kỹ 
lưỡng khi một trong số những thành viên ban 
đầu của bồi thẩm đoàn không thể tiếp tục theo 
vụ kiện. Một khi danh sách bồi thẩm đoàn đã 
lựa chọn, họ sẽ tuyên thệ trước thẩm phán và 
viên lục sự. 
Tu chính án Hiến pháp thứ sáu bảo đảm cho 
người dân Mỹ quyền được có một bồi thẩm 
đoàn không thiên vị. Ít nhất thì điều này cũng 
có nghĩa là những thành viên triển vọng của bồi 
thẩm đoàn phải không được có định kiến theo 
T.T. Hạnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 2 (2013) 16-27 
25 
chiều hướng này hay chiều hướng khác trước 
khi phiên tòa bắt đầu. Chẳng hạn, một thành 
viên của bồi thẩm đoàn không được là bạn bè 
hay họ hàng của công tố hay nạn nhân của tội 
phạm; cũng không phải là một người có niềm 
tin thiên lệch cho rằng tất cả dòng họ hay tổ tiên 
của bị đơn đều “có thể là tội phạm”. Ý nghĩa 
trên thực tế của khái niệm bồi thẩm đoàn không 
thiên vị gồm những người đồng đẳng là ở chỗ 
các thành viên bồi thẩm đoàn được lựa chọn 
ngẫu nhiên từ những danh sách đăng ký cử tri - 
được bổ sung vào trong những lĩnh vực tài phán 
ngày một lớn theo những danh sách trên cơ sở 
giấy đăng ký ô tô, bằng lái xe, danh bạ điện 
thoại, bảng phúc lợi, v.v... Mặc dù cơ chế này 
không thể hiện bộ phận tiêu biểu đại diện cho 
cộng đồng do không phải tất cả mọi người đều 
được đăng ký bỏ phiếu nhưng Tòa án tối cao đã 
khẳng định rằng phương pháp này đủ hiệu quả. 
Tòa án tối cao cũng quy định rằng không một 
tầng lớp nào (chẳng hạn người Mỹ gốc Phi hay 
phụ nữ) có thể bị loại trừ một cách có hệ thống 
khỏi diện được phục vụ trong bồi thẩm đoàn. 
Trong các thiết chế tư pháp quốc tế, điều 
kiện bầu chọn, phương thức và thủ tục bầu chọn 
bị ảnh hưởng một số những nhân tố như: Thứ 
nhất, hoạt động bầu chọn các nhân sự của các 
thiết chế tư pháp quốc tế chủ yếu do chính các 
quốc gia thành viên của thiết chế tư pháp quyết 
định như theo Điều 8 Quy chế tòa án công lý 
quốc tế, Đại hội đồng và Hội đồng Bảo an Liên 
hợp quốc cùng đồng thời bầu chọn các thẩm 
phán của Tòa hay Thẩm phán của Tòa án Luật 
biển quốc tế được bầu chọn bởi Hội nghị toàn 
thể của các nước thành viên (Điều 4 Quy chế). 
Thứ hai, sự vô tư của các nhân sự của các thiết 
chế tư pháp quốc tế, đặc biệt là các thẩm phán 
cũng có thể bị ảnh hưởng bởi yếu tố địa lý, văn 
hóa khu vực hay truyền thống pháp lý[10]. Thứ 
ba, quá trình giới thiệu, bầu chọn các nhân sự, 
đặc biệt là các thẩm phán tại các cơ quan tài tư 
pháp quốc tế trên thực tế mang nhiều yếu tố 
chính trị. Để tránh và hạn chế tối đa những 
nguy cơ ảnh hưởng đến sự vô tư như trên, có 
nhiều quy định, biện pháp được áp dụng tại các 
cơ quan tư pháp quốc tế. Trước hết, tại hầu hết 
các thiết chế tư pháp quốc tế, đặc biệt là các 
thiết chế tư pháp hình sự, sự vô tư luôn được 
quy định là một trong những phẩm chất bắt 
buộc cho các ứng cử viên. Tiếp đó, quy chế hay 
quy tắc của các thiết chế tư pháp quốc tế cũng 
đặc biệt quan tâm đến tính đại diện khu vực địa 
lý, của các nền văn minh hay các hệ thống pháp 
luật khác nhau trên thế giới trong thành phần 
mỗi cơ quan. Tại Tòa án hình sự quốc tế Roma, 
ngoài yêu cầu bảo đảm tính đại diện về truyền 
thống pháp luật, khu vực địa lý, Quy chế của 
Tòa án còn đề cập đến cả sự cân bằng về giới 
tính trong thành phần của Tòa án. 
Thứ ba, cơ chế kiểm soát việc thực nguyên 
tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố 
tụng hình sự. 
Cơ chế kiểm soát có ý nghĩa đặc biệt quan 
trọng đối với việc thực thi quyền lực nhà nước, 
trong đó có việc thực thi luật tố tụng hình sự 
nói chung và nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của 
người tiến hành tố tụng trong quá trình giải 
quyết vụ án hình sự. Ngoài cơ chế bảo hiến, 
các quốc gia còn thường thiết lập một cơ chế 
hữu hiệu gồm kiểm soát bên ngoài và kiểm soát 
bên trong đối với quá trình giải quyết vụ án. Ở 
những nước theo mô hình tố tụng hình sự tranh 
tụng thì việc kiểm soát này đặc biệt đến cơ chế 
kiểm soát bên trong. Các bên liên quan tiến 
hành tranh tụng ngay từ đầu vụ án và tất cả 
những gì vi phạm qui định về nguyên tắc bảo 
đảm sự vô tư đều được chủ động phát hiện, xử 
lý triệt để. Ở những nước theo mô hình tố tụng 
hình sự thẩm vấn lại thiên về kiểm soát ngoài, 
thậm chí như ở Việt Nam việc kiểm soát này 
còn giao cho Viện kiểm sát với chức năng kiểm 
sát việc tuân theo pháp luật tố tụng hình sự 
T.T. Hạnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 2 (2013) 16-27 
26 
trong quá trình giải quyết vụ án. Cho dù 
nghiêng về cách kiểm soát nào thì trong luật tố 
tụng hình sự các nước đều qui định cơ chế kiểm 
soát của nhân dân, của cơ quan báo chí đối với 
việc bảo đảm thực hiện các nguyên tắc, các qui 
định của Luật tố tụng hình sự trong đó có 
nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến 
hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong 
quá trình giải quyết vụ án./. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Vụ Republican Party of Minnesota v. White, 
536 U.S. 765, 788 (2002). 
[2] Ofer Raban, Judicial Impartiality and the 
Regulation of Judicial Election Campaigns, 
University of Florida Journal of Law & Public 
Policy, Vol. 15, 2004, p.210-212. 
[3] Trần Thu Hạnh, Nghiên cứu khái quát về 
nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người 
tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng 
trong tố tụng hình sư, tạp chí Khoa học 
ĐHQGHN, Luật học 29 (2013), tr.36-50. 
[4] Nguyễn Ngọc Chí, Đảm bảo sự vô tư của người 
tiến hành tố tụng, người phiên dịch, người giám 
định trong tố tụng hình sự, tạp chí Nhà nước và 
Pháp luật, số 8/2008, tr 54. 
[5] R.KOERING – JOULIN, Khái niệm về Tòa án 
độc lập và công bằng theo Điều 6 Công ước 
châu Âu về quyền con người, R.S.C 1990, tr. 
765. 
[6] Burkhard HESS, Giáo sư Đại học Heidelberg, 
Liên Bang Đức, “L’impartialite du juge en droit 
allemand”, “Sự vô tư của thẩm phán trong luật 
pháp Đức”, trong sách”, L’impartialite du juge 
et de l’arbitrage, Etude de droit compare, (Sự vô 
tư của thẩm phán và trọng tài – nghiên cứu từ 
góc độ luật so sánh), sous la direction de 
Jacques van COMPERNOLLE et de Giuseppe 
TARZIA, Etablissements Emile Bruylant, SA, 
Bruxelles 2006, p.73. 
[7] M-A Frison-Roche, « 2+1 = la procédure » , in 
« La justice, l’obligation impossible », trích 
theo Laure Garriaux, “L’impartialite du juge 
administratif”, 
paris2.fr/IMG/pdf/ExposeDALGimpartJA.pdf. 
[8] Serge GUINCHARD, “Independance et 
impartialite du juge, les principes de droit 
fondamental”, L’impartialite du juge et de 
l’arbitrage, Etude de droit compare, sous la 
direction de Jacques van COMPERNOLLE et 
de Giuseppe TARZIA, Etablissements Emile 
Bruylant, SA, Bruxelles 2006, p.04. 
[9] Đề tài nghiên cứu khoa học nhóm B cấp Đại 
học Quốc gia, QG.11.46 “Nguyên tắc bảo đảm 
sự vô tư của những người tiến hành tố tụng và 
người tham gia tố tụng trong luật tố tụng hình 
sự Việt Nam”, Ths. Trần Thu Hạnh chủ trì, năm 
2013. 
[10] Erik Voeten, The impartiality of international 
judges: Evedence from the European Court of 
Human Rights, American Political Science 
Review, Vol. 102, No 4, 2008. 
[11] Sự vô tư của thẩm phán và trọng tài – nghiên 
cứu từ góc độ luật so sánh), sous la direction de 
Jacques van COMPERNOLLE et de Giuseppe 
TARZIA, Etablissements Emile Bruylant, SA, 
Bruxelles 2006, tr.56. 
T.T. Hạnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 2 (2013) 16-27 
27 
Impartiality and the Principle of Guarantee of the Impartiality 
of Persons conducting or Participating in the settlement 
Procedure in Criminal Cases 
Trần Thu Hạnh 
VNU School of Law, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hanoi, Vietnam 
Abstract: This article analyzes and develops the concept of "impartiality" in the field of criminal 
justice. Thereby, the paper clarifies its content and significance for the settlement of the criminal cases 
in an objective and fair manner. While impartiality is a fundamental concept, the principle of 
guarantee of the impartiality of persons conducting or participating in the procedure creates 
institutions to ensure that impartiality is enforced in the procedure. The article focuses on the 
clarification of assurance mechanism to enforce this principle. 

File đính kèm:

  • pdfvo_tu_va_nguyen_tac_bao_dam_su_vo_tu_cua_nguoi_tien_hanh_to.pdf