Virus và vi khuẩn không điển hình gây bệnh trên bệnh nhân nhập viện với các biểu hiện lâm sàng nghi cúm ở Indonesia, Thailand và Vietnam

Đại cương: Cúm là nguyên nhân hàng đầu gây bệnh và tử vong trên thế giới. Các thông tin về

nguyên nhân nhiễm trùng có biểu hiện lâm sàng như cúm ở những bệnh nhân là người lớn và trẻ

em nhập viện ở Đông Nam Á còn hạn chế. Những thông tin như thế rất quan trọng cho việc quản

lý trong tương lai các bệnh nhiễm trùng hô hấp.

Mục tiêu: Mô tả nguyên nhân nhiễm trùng có biểu hiện lâm sàng như cúm ở những bệnh nhân

nhập viện tại Đông Nam Á.

Phương pháp: Bệnh phẩm hô hấp thu được từ tháng 7 năm 2008 đến tháng 6 năm 2009 của

những bệnh nhân nhập viện nghi ngờ cúm ở Indonesia, Thailand và Vietnam được xét nghiệm

virus cúm và vi khuẩn không điển hình bằng PCR polymerase chain reaction.

pdf 8 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Virus và vi khuẩn không điển hình gây bệnh trên bệnh nhân nhập viện với các biểu hiện lâm sàng nghi cúm ở Indonesia, Thailand và Vietnam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Virus và vi khuẩn không điển hình gây bệnh trên bệnh nhân nhập viện với các biểu hiện lâm sàng nghi cúm ở Indonesia, Thailand và Vietnam

Virus và vi khuẩn không điển hình gây bệnh trên bệnh nhân nhập viện với các biểu hiện lâm sàng nghi cúm ở Indonesia, Thailand và Vietnam
55
Hô hấp số 15/2018
Dịch
VIRUS VÀ VI KHUẨN KHÔNG ĐIỂN HÌNH GÂY BỆNH 
TRÊN BỆNH NHÂN NHẬP VIỆN VỚI CÁC BIỂU HIỆN LÂM SÀNG 
NGHI CÚM Ở THAILAND, VIETNAM VÀ INDONESIA
Dịch từ: 
Viral and atypical bacterial aetiologies of infection in hospitalised patients admitted 
with clinical suspicion of influenza in Thailand, Vietnam and Indonesia 
Heiman F. L. Wertheim, Behzad Nadjm, Sherine Thomas et al.
Influenza and Other Respiratory Viruses 9(6), 315–322.
ThS.BS Huỳnh Anh Tuấn dịch
Đại cương: Cúm là nguyên nhân hàng đầu gây bệnh và tử vong trên thế giới. Các thông tin về 
nguyên nhân nhiễm trùng có biểu hiện lâm sàng như cúm ở những bệnh nhân là người lớn và trẻ 
em nhập viện ở Đông Nam Á còn hạn chế. Những thông tin như thế rất quan trọng cho việc quản 
lý trong tương lai các bệnh nhiễm trùng hô hấp.
Mục tiêu: Mô tả nguyên nhân nhiễm trùng có biểu hiện lâm sàng như cúm ở những bệnh nhân 
nhập viện tại Đông Nam Á. 
Phương pháp: Bệnh phẩm hô hấp thu được từ tháng 7 năm 2008 đến tháng 6 năm 2009 của 
những bệnh nhân nhập viện nghi ngờ cúm ở Indonesia, Thailand và Vietnam được xét nghiệm 
virus cúm và vi khuẩn không điển hình bằng PCR polymerase chain reaction.
Kết quả: Có tất cả 1222 mẫu bệnh phẩm của bệnh nhân được xét nghiệm. Trong số 1222 mẫu 
bệnh phẩm này, 776 bệnh nhân (63.5%) là bệnh nhi dưới 5 tuổi. Các virus được phát hiện là 
rhinoviruses 229 trong số 1222 bệnh nhân (18.7%), bocaviruses ở 200 bệnh nhân (16.4%), virus 
hợp bào hô hấp respiratory syncytial viruses ở 144 (11.8%), parainfluenza ở 140 bệnh nhân 
(11.5%; PIV1: 32; PIV2: 12; PIV3: 71; PIV4: 25), adenovirus ở 102 (84%), virus cúm ở 93 (76%; 
cúm A: 77; cúm B: 16) và coronaviruses ở 23 (18%; OC43: 14; E229: 9). Tác nhân vi khuẩn gây 
bệnh là Mycoplasma pneumoniae (n = 33, 27%), Chlamydophila psittaci (n = 2), C. pneumoniae 
(n = 1), Bordetella pertussis (n = 1) và Legionella pneumophila (n = 2). Nhìn chung, tỉ suất tử 
vong nội viện là 29 trong số 1222 (2.4%).
Kết luận: Virus đường hô hấp là tác nhân được phát hiện nhiều nhất ở những bệnh nhân có triệu 
chứng lâm sàng nghi ngờ cúm, trong số đó Rhinovirus là virus được phát hiện nhiều nhất, vi 
khuẩn không điển hình thường gặp nhất là M. pneumoniae. Số bệnh nhân được phát hiện bị cúm 
có số lương thấp cho thấy việc điều trị bằng kinh nghiệm với oseltamivir mang lợi ích không cao 
trừ khi có dịch cúm xảy ra.
Từ khóa: Nhập viện, cúm, Mycoplasma pneumoniae, nhiễm trùng đường hô hấp, rhinovirus RSV.
 Dịch
56
Hô hấp số 15/2018
GIỚI THIỆU 
Trong thăm khám chăm sóc sức khỏe ban đầu, 
cúm là nguyên nhân hay gặp và là nguyên nhân 
hàng đầu làm bệnh nhân nhập viện, gây bệnh và 
tử vong trên toàn thế giới (1). Các virus không phải 
cúm là nguyên nhân chủ yếu hay gặp, gây ra bệnh 
lý có triệu chứng lâm sàng tương tự như cúm, đặc 
biệt ở trẻ em. Các số liệu về dịch tễ học và gánh 
nặng bệnh tật của các bệnh lý liên quan đến cúm ở 
Đông Nam Á (ĐNA) rất cần thiết và lần này cung 
cấp các thông tin cần thiết về dịch tễ học của các 
virus khác và các vi khuẩn gây bệnh cảnh giống 
như cúm (Influenza-like illnesses - ILIs) với 
những bệnh nhân là người lớn và trẻ em nhập viện 
ở khu vực này (2). Những hiểu biết thu thập được từ 
các thông tin này hết sức quan trọng không những 
cho các chiến lược phòng bệnh trong tương lai, 
điều trị và quản lý lâm sàng nhiễm trùng hô hấp 
mà còn chỉ đường cho các nghiên cứu trong tương 
lai ở khu vực này.
Gần đây, có nhiều tiến bộ được ứng dụng 
trong chẩn đoán nhằm hỗ trợ cho việc xác định 
nguyên nhân gây ra nhiễm trùng hô hấp cấp. 
Những tiến bộ có thể thực hiện từ các kỹ thuật 
chẩn đoán phân tử hiện nay đã được áp dụng rộng 
rãi. Hơn nữa, nghiên cứu về lĩnh vực này thu hút 
được nhiều sự quan tâm và sự đầu tư do sự bùng 
nổ của dịch bệnh cấp tính nặng nề hội chứng hô 
hấp cấp tính do coronavirus (SARS-CoV) và 
cúm gia cầm virus A/H5N1, A/H7N9 ở ĐNA, 
hội chứng hô hấp Trung Đông do coronavirus 
(MERS-CoV) ở vùng Trung Đông. 
Nhìn chung, tác nhân gây bệnh cho ILI vẫn 
còn chưa được chẩn đoán trong thực hành lâm 
sàng thường quy, lý do là giá thành của các xét 
nghiệm và thời gian báo trả kết quả cho hầu hết 
các xét nghiêm chẩn đoán polymerase chain 
reactions (PCRs) bị xem là quá lâu và tác động 
đến việc quản lý các bệnh nhiễm trùng đường hô 
hấp vốn thường tự giới hạn. Tuy nhiên, khi các 
thuốc kháng virus được sử dụng nhiều lên, các 
xét nghiệm xác định tìm tác nhân gây ILI trở nên 
quan trọng hơn nhằm tạo cơ sở cho điều trị thuốc 
kháng virus và ngăn chặn việc sử dụng quá mức 
các kháng sinh, vì thế sẽ giúp cho việc kiểm soát 
giá và ngăn ngừa khẩn cấp tình trạng vi khuẩn 
kháng thuốc lan rộng.
Trong vài năm qua, đã xác định được nhiều 
tác nhân mới gây bệnh cho ILI từ các bệnh 
phẩm hô hấp, bao gồm metapneumovirus người, 
coronaviruses mới ở người (NL63, HKU1, SARS-
CoV, MERS-CoV), rhinovirus C và tiếp tục có 
những dòng mới và các phân nhóm của virus cúm 
A có thể gây nhiễm cho người (H5N1, H5N6, 
H1N1pdm09, H3N2v, H7N7, H7N9, H9N2, 
H6N1, H10N8). Các virus gây bệnh vốn chưa 
được xác định trước đây cũng được định danh, 
bao gồm bocavirus người và polyomaviruses hô 
hấp, và có thể còn tồn tại nhiều loại hơn nữa (3-6). 
Các dữ liệu đầy đủ nhất về nguyên nhân gây ra 
ILI phát sinh từ các nước đã phát triển, với một 
số thông tin có sẵn từ ĐNA. Gần đây, các nghiên 
cứu được công bố ở các nước Asian (7-12) cung cấp 
nhiều thông tin cần thiết và có giá trị cho thấy các 
phổ tương tự của virus gây bệnh.
Nghiên cứu này được thiết kế nhằm xác định 
tác nhân gây bệnh và virus và vi khuẩn không 
điển hình gây bệnh ILIs ở bệnh nhân vùng ĐNA 
bằng cách sử dụng các kỹ thuật phân tử. Việc phát 
hiện virus cúm và các tác nhân gây bệnh hô hấp 
khác ngoài cúm từ các bệnh phẩm đã được gửi để 
thực hiện xét nghiệm cúm thông thường có thể 
mang đến những thông tin có giá trị về dịch tễ học 
của ILI qua các nhóm tuổi ở 3 nước ĐNA cùng 
một khoảng thời gian như nhau. Hơn nữa, nghiên 
cứu này có thể giải quyết sự hiện diện tiềm tàng 
về sự đồng nhiễm cùng lúc bởi đa tác nhân trên 
cùng người bệnh.
PHƯƠNG PHÁP 
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu thông qua việc 
theo dõi ở phòng xét nghiệm, tại đây chúng tôi 
xét nghiệm tất cả các bệnh phẩm hô hấp thu thập 
được từ những bệnh nhân đã nhập viện trong một 
năm (tháng Bảy năm 2008 đến tháng Sáu năm 
2009) có chẩn đoán lâm sàng là ILI hội đủ các 
tiêu chuẩn sau: tuổi ≥1, dấu hiệu của ILI theo 
 Dịch
57
Hô hấp số 15/2018
đánh giá của bác sĩ điều trị, các triệu chứng của 
ILI ≤10 ngày và bệnh phẩm hô hấp được gửi cho 
xét nghiệm cúm. Các bác sĩ lâm sàng của tất cả 
điểm tham gia nghiên cứu được tập huấn đều đặn 
các phác đồ của Tổ chức y tế thế giới về việc xử 
lý và nhận biết cúm/ILI. Các bệnh phẩm thu nhận 
được (phết mũi, phết họng, dịch hút mũi-hầu, 
ngoáy mũi, dịch hút khí quản, rửa phế quản - phế 
nang) được thu thập từ 12 địa điểm ở 3 nước của 
ĐNA (3 địa điểm ở Indonesia, 4 điểm ở Thailand, 
5 điểm ở Vietnam). Khả năng làm xét nghiệm 
cúm đã có qua nghiên cứu lâm sàng ngẫu nhiên 
so sánh 2 liều oseltamivir cho cúm nặng ở các 
điểm của hệ thống bệnh truyền nhiễm ĐNA (13). 
Mẫu bệnh phẩm dùng cho nghiên cứu này được 
giữ ở nhiệt độ - 80°C cho tới khi làm xét nghiệm 
khác. Khi một bệnh nhân có thể thu được nhiều 
hơn một loại bệnh phẩm, chúng sẽ được ưu tiên 
theo thứ tự như sau: dịch hút nội khí quản> phết 
họng> ngoáy mũi/rửa. Nghiên cứu hồi cứu cho 
các xét nghiệm bổ sung vào trên bệnh phẩm lưu 
trữ sau khi làm ẩn danh toàn bộ đã được hội đồng 
xem duyệt ở mỗi nơi nghiên cứu chấp thuận.
Xét nghiệm phòng thí nghiệm:
Phức bộ kỹ thuật khuyếch đại DNA (PCR)/
gel electrophoresis assays (Seeplex RV12 ACE 
Detection and Seeplex PneumoBacter ACE; 
Seegene, South Korea14–16) sẵn có trên thị 
trường đã được sử dụng nhằm phát hiện 12 loại 
virus hô hấp chủ yếu và 6 vi khuẩn gây bệnh hô 
hấp là virus cúm A và B, virus hợp bào hô hấp 
respiratory syncytial viruses (RSVs) A và B, 
rhinoviruses A/B, coronaviruses OC43/HKU1 và 
229E/ NL63, adenovirus, parainfluenza viruses 
1–3, human metapneumovirus, Mycoplasma 
pneumoniae, Chlamydophila pneumoniae, 
Legionella pneumophila huyết thanh type 1 
và Bordetella pertussis. Real-time [reverse-
transcriptase (RT)] PCRs được sử dụng thêm nhằm 
để tìm kiếm các virus sau đây: rhinoviruses A, B và 
C, enteroviruses, parainfluenza virus 4, bocavirus, 
parechoviruses và Chlamydophila psittaci, được 
mô tả ở phần khác (17-19) . Các dữ liệu dân số học 
cơ bản (đất nước, giới tính và tuổi) được thu thập 
cũng như ngày khởi phát, ngày nhập viện, các 
loại bệnh phẩm và nhập Hồi Sức cấp cứu. Về kết 
quả phân tích của Streptococcus pneumoniae và 
Haemophilus influenzae, chưa xem xét đến PCRs 
bởi vì tỉ lệ dương tính cao do sự cư trú ở mũi hầu 
tương ứng là 25.4% và 31.4% trong nghiên cứu 
này (dữ liệu không được thể hiện).
PHÂN TÍCH 
Các đặc điểm dân số ban đầu (nhóm tuổi, giới 
tính, quốc gia nhập viện và tỉ lệ nằm ICU) đã 
được tóm tắt dưới dạng tần suất và tỉ lệ. Tần suất 
của các tác nhân gây bệnh khác nhau đước tóm 
tắt theo từng nước, giới tính và nhóm tuổi nhằm 
xác định virus và vi khuẩn thường gặp nhất trong 
mỗi phân nhóm.
Kết cục bệnh bao gồm mức độ nặng (nặng 
được xác định là khi bệnh nhân nhập ICU), tử 
vong, thời gian nằm viện và thời gian bệnh được 
đánh giá qua phân tích hồi quy. Đặc điểm phụ 
thuộc của các kết cục nhị biến (bệnh nặng và 
tử vong) với sự hiện diện của các tác nhân gây 
bệnh được phân tích bằng phương pháp hồi quy 
logistic, được điều chỉnh theo tuổi và giới tính. 
Phân tích sống còn Kaplan–Meier dùng để 
phác họa số lượng nhập viện giữa mỗi nhóm tuổi 
(bệnh nhân tử vong được loại đi). Phân tích hồi 
quy Cox dùng để phân tích xem có phải virus được 
phát hiện nhiều hơn nếu thời gian bệnh trước khi 
đưa vào bệnh viện ngắn hơn. Phân tích hồi quy 
chỉ dựa vào số liệu từ Việt Nam và Thái Lan do 
các dữ kiện lâm sàng thích hợp từ Indonesia đã 
bị thiếu.
Phần mềm thống kê SAS phiên bản 9.2 (SAS 
Institute Inc., Cary, NC, USA) được áp dụng cho 
tất cả mọi tính toán. Giá trị p với kiểm định 2 phía 
bằng 0.05 hay nhỏ hơn được xem là có ý nghĩa 
thống kê.
KẾT QUẢ
Kết quả chung 
Có tất cả 1222 mẫu bệnh nhân được lấy tại nơi 
tham gia nghiên cứu. Bảng 1 tóm tắt các đặc điểm 
 Dịch
58
Hô hấp số 15/2018
dân số. Số ngày trung bình từ khi phát bệnh đến 
khi có mẫu bệnh phẩm được thu thập là 4 (IQR: 
3–6 ngày). Có 155 bệnh nhân không rõ ngày 
nhập viện chính xác. Hầu hết bệnh nhân trong 
nghiên cứu này dưới 5 tuổi (776, 63.5%). Hầu 
hết bệnh nhân được tuyển chọn ở Vietnam (n = 
826, 67.6%). Tuổi trung bình của bệnh nhân ở 
Indonesian cao hơn bệnh nhân ở Vietnam (4 tuổi) 
và Thailand (2 tuổi). Có 167 bệnh nhân (13.7%) 
nhập viện tại khoa Hồi sức tích cực (ICU); Dữ 
liệu nhập viện của ICU từ 232 bệnh nhân không 
biết (Indonesia: 223; Thailand: 2; Vietnam: 7). 67 
bệnh nhân (5.5%) thở máy và tỉ lệ tử vong chung 
cho bệnh nhân tại bệnh viện là 2.4% (n = 29).
Bảng 1. Đặc điểm dân số của bệnh nhân trong nghiên cứu
Số lượng bệnh nhân Tổng số các ca
(n=1222) N%
% Nam % Nữ
Độ tuổi
<5 452 (58.2) 324 (41.8) 76 (63.5)
5-14 73 (57.9) 53 (42.1) 126 (10.3)
14-44 98 (50.0) 98 (50.0) 196 (16.0)
45-64 52 (67.5) 25 (32.5) 77 (6.3)
>65 26 (55.3) 21 (44.7) 47 (3.9)
Tổng số 701(57.4) 521 (42.6) 1222
Nước
Việt Nam 500 (60.5) 326 (39.5) 826 (67.6)
Indonesia 114 (50.7) 111 (49.3) 225 (18.4)
Việt Nam 87 (50.9) 84 (49.1) 171 (14.0)
Nhập ICU
Việt Nam 88 (62.9) 52 (37.1) 140/826 (17.0)
Indonesia N/A N/A N/A
Thái Lan 10 (40.0) 15 (60.0) 25/171 (14.6)
N/A: số liệu không có 
Nguyên nhân 
Tác nhân gây bệnh hô hấp được phát hiện ở 741 
trong số 1222 bệnh nhân (60.6%): trong đó virus 
là 716 (58.6%), vi khuẩn không điển hình 39 
(3.2%) và cả hai 14 (1.2%, biểu đồ hình 1). Đặc 
tính mùa không thấy rõ của các bệnh nhân đưa 
vào nghiên cứu theo tháng. Quan sát thấy không 
có tính chất theo mùa rõ ràng về số lượng những 
bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu theo tháng 
trong suốt năm với các mẫu bệnh phẩm được thu 
thập. Các virus được tìm thấy là rhinoviruses ở 
229 trong 1222 bệnh nhân (18.7%), bocavirus 
trên 200 bệnh nhân (16.4%), RSV trong 144 
bệnh nhân (11.8%), parainfluenza virus ở 140 
bệnh nhân (11.5%; PIV1: 32; PIV2: 12; PIV3:71; 
PIV4: 25), adenovirus ở 102 (8.4%), virus cúm ở 
93 bệnh nhân (76%; cúm A:77; cúm B:16), human 
metapneumovirus trong 22 bệnh nhân (1.8%), 
 Dịch
59
Hô hấp số 15/2018
coronavirus ở 23 bệnh nhân (1.8%; OC43:9; 
E229:14), enterovirus là 53 bệnh nhân (43%) và 
parechovirus là 5 bệnh nhân (0.4%).
Các vi khuẩn gây bệnh được phát hiện là M. 
pneumonia (n = 33, 27%), C. psittaci (n = 2), C. 
pneumoniae (n = 1), B. pertussis (n = 1) và L. 
pneumophila (n = 2). Sự dao động của các tần suất 
được tìm thấy trên những tháng riêng biệt với nhiều 
loại virus, như RSV xuất hiện từ tháng Bảy đến 
tháng Mười một năm 2008 và rhinovirus đạt đỉnh 
điểm vào tháng Ba năm 2009 (biểu đồ hình 1). 
Do sự khác biệt về tuổi tác của nhóm đại 
diện, số lượng virus được phát hiện trên mỗi bệnh 
nhân ở Indonesia (60/225, 0.27) thấp hơn so với 
Vietnam (800/826, 0.97) và Thailand (151/171, 
0.88). Tương tự, tỉ lệ virus RSV được phát hiện ở 
Thailand (24/151, 15.9%) và Vietnam (117/800, 
14.6%) cao hơn Indonesia (3/60, 5%) trong khi 
coronavirus được phát hiện nhiều hơn ở Indonesia 
(7/60, 11.7%) so với Thailand (3/151, 2.0%) và 
Vietnam (11/800, 1.4%). Xem bảng 1 về các tác 
nhân được phát hiện ở mỗi nước.
234 trong 1222 bệnh nhân (19.2%) được tìm 
thấy có ít nhất 2 tác nhân gây bệnh (vi khuẩn và/
hoặc virus). Trong số này, 170 bệnh nhân được 
phát hiện có 2 tác nhân gây bệnh, 54 bệnh nhân 
có 3 tác nhân gây bệnh, tần suất của mỗi tác nhân 
được trình bày ở bảng S2. Tác nhân được phát 
hiện nhiều nhất ở những bệnh nhân có 2 hay hơn 
nữa là bocavirus (n = 132) và rhinovirus (n = 
123). Tỉ lệ bệnh nhân bị virus hoặc vi khuẩn phát 
hiện được tăng theo tuổi, và tỷ lệ tác nhân gây 
bệnh được phát hiện cao nhất ở nhóm tuổi 0–4, 
nhưng lại tăng trở lại ở những bệnh nhân lớn hơn 
65. Hầu hết các virus gây bệnh gặp thường xuyên 
ở trẻ em parechovirus và parainfluenza virus 4 chỉ 
tìm thấy được ở trẻ em (bảng 2). Chỉ có bệnh nhân 
nhỏ hơn 45 tuổi mới tìm thấy M. pneumoniae, 
trong khi các trường hợp bệnh nhân 45 tuổi và 
cao hơn nữa tìm thấy C. psittacii.
Bảng 2. Tác nhân virus trong ILI theo tuổi bệnh nhân
Nhập viện tại IUC ở mỗi nước được thể hiện 
trong bảng 1. Số bệnh nhân thở máy ở Vietnam 
là 42/826 bệnh nhân (51%), Thailand là 21/171 
(12.3%) (các dữ liệu tương ứng không thu được 
ở Indonesia). Với việc tập hợp số liệu của Việt 
Nam, khi số liệu hầu hết hoàn thành, việc nhập 
ICU liên quan đến tuổi; 15 trong số 616 trẻ em 
(2.4%) dưới 5 tuổi, 3 trong số 36 (8.3%) có độ 
tuổi từ 5–14 tuổi, 69 trong 106 (65.1%) độ tuổi 
từ 15–44 tuổi, 33 trong số 45 (73.3%) tuổi từ 
45– 64 tuổi và 20 trong số 23 (87%) có độ tuổi 
trên 65 nhận viện ICU (ꭔ2 với p < 00005). Các dữ 
liệu trên được phân tích bằng Hồi quy Logistic 
cho các hiệp biến: các kiểu tác nhân gây bệnh 
(virus, vi khuẩn, cả hai và không có tác nhân nào 
cả), tuổi và giới tính. Sự phân tích cho thấy chỉ 
có độ tuổi cao hơn có liên quan đến việc nhập 
ICU (điều chỉnh OR cho việc nhập ICU ở những 
bệnh nhân có tuổi >64 tuổi so với bệnh có độ 
tuổi <5: 243.79, P < 0001, bảng 3). Không có 
mối liên quan giữa các tác nhân đặc biệt với việc 
nhập ICU.
 Dịch
60
Hô hấp số 15/2018
Phân tích thời gian nằm viện chỉ có thể thực 
hiện trên các dữ liệu đầy đủ của bệnh nhân ở Việt 
Nam. Thời gian trung bình bệnh nhân nằm viện 
là 5 ngày (IQR: 3-7 ngày). Thời gian nằm viện 
bởi tác nhân gây bệnh (virus, vi khuẩn, cả hai hay 
không có), giới tính và tuổi đươc phân tích bằng 
hồi quy đa biến Cox, kết quả là các dạng tác nhân 
(p = 00004) và phân nhóm tuổi (p = 0015) có hiệu 
quả có ý nghĩa. Điều này cho thấy nhóm bệnh 
nhân > 65 tuổi nằm viện lâu hơn, nhưng không có 
sự khác biệt về giới tính. Những bệnh nhân dương 
tính với virus cúm A có thời gian nằm viện trung 
bình là 4 ngày (IQR: 3–8 days) so với bệnh nhân 
không tìm thấy cúm A là 5 ngày (IQR: 3-8 ngày). 
Tương tự khi xem xét với nhóm coronavirus 
e229: nhóm dương tính có thời gian trung bình là 
3 ngày (IQR: 2-4 days) với nhóm bệnh nhân âm 
tính là 5 ngày (IQR: 3-8 ngày). Những bệnh nhân 
dương tính với M. pneumoniae nằm viện lâu hơn, 
thời gian trung bình là 9 ngày (IQR: 7-12 ngày) 
so với 5 ngày (IQR: 3-8 days). Có tất cả 29 bệnh 
nhân tử vong và 12 trong số trên (41%) tìm thấy 
tác nhân là virus gây bệnh: virus cúm A (n = 3), 
rhinovirus (n = 3), bocavirus (n = 1), coronavirus 
(n = 2), parainfluenza virus (n = 1), RSV (n = 1) 
và một trường hợp có sự phối hợp giữa cúm A với 
adenovirus và rhinovirus. Các dữ kiện liên quan 
đến nguyên nhân tử vong không được thu thập 
trong nghiên cứu này; vì thế không thể kết luận 
về liên quan nhân quả.
BÀN LUẬN 
Các bệnh lý giống cúm là nguyên nhân hàng 
đầu gây bệnh tật và tử vong trên thế giới, nhất là 
những nhóm người trẻ và già. Điều này gợi ý rằng 
một tỉ lệ lớn bệnh nhân tử vong do ILI trên toàn 
thế giới xảy ra ở Châu Phi và ĐNA (20). Các dữ liệu 
liên quan đến nguyên nhân nhiễm trùng hô hấp 
ở ĐNA còn hạn chế với vài dữ liệu có giá trị gợi 
ý rằng virus chiếm tỉ lệ cao ở những trường hợp 
nhiễm trùng này (21).
Trong nghiên cứu thực hiện 1 năm này, chúng 
tôi đã sử dụng kỹ thuật phân tử để phát hiện virus 
và vi khuẩn không điển hình từ các mẫu bệnh 
phẩm thu thập được ở bệnh nhân nhập viện do 
ILI. Phần lớn bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu 
này là ở Việt Nam và dưới 5 tuổi. Để chẩn đoán 
và theo dõi ILI, việc phết mũi họng được xem như 
biện pháp lấy mẫu được chọn lựa, trong khi để 
chẩn đoán H. influenzae và S. pneumoniae, mẫu 
Bảng 3. Các yếu tố liên quan đến việc nhập khoa Hồi sức tích cực (ICU) của bệnh nhân ở Việt Nam và Thái Lan
Tổng số
Số lượng 
nhập ICU
OR
OR đã điều 
chỉnh
95% CI 
(AOR)
P (AOR)
Vi rus gây bệnh 527 55 1 1 _ _
Vi khuẩn gây bệnh phát hiện 19 5 3.07 1.82 0.351-9.414 0.477
Cả 2 tác nhân 12 0 N/A N/A N/A N/A
Không tác nhân nào được phát 
hiện
261 80 3.79 1.30 0.714-2.374 0.390
Tuổi: 0-4 616 15 1 1 _ _
Tuổi: 5-14 36 3 3.64 3.46 0.93-12.88 0.64
Tuổi: 15-44 101 69 86.39 79.78 40.74-156.23 <0.0001
Tuổi: 45-64 43 33 132.22 114.07 45.02-289.02 <0.0001
Tuổi: 65 trở lên 23 20 266.94 243.79 64.58-920.26 <0.0001
Nam 495 88 1 1 _ _
Nữ 324 52 0.88 1.07 0.60-1.91 0.830
 Dịch
61
Hô hấp số 15/2018
đại diện là đàm mủ được nhuộm Gram và nuôi 
cấy vi trùng, cấy máu và xét nghiệm nước tiểu 
tìm kháng nguyên (với S.pneumoniae) được xem 
là phương pháp chọn lựa, nhưng lại không được 
thực hiện. Việc phát hiện tỉ lệ của 2 tác nhân này 
vì thế không được đưa vào trong phân tích. 
Trong nghiên cứu này, các tác nhân có khả 
năng gây bệnh được xác định ở 60.6% bệnh nhân. 
Tỉ lệ này cao hơn tỉ lệ được công bố trước đây 
có mức dao động từ 35% đến 47%, trong các 
nghiên cứu nhắm vào nguyên nhân gây nhiễm 
trùng đường hô hấp của các nước châu Á khác 
nhau (9, 22) . Tổng số trong 58.6% của nghiên cứu 
đoàn hệ cho kết quả dương tính với virus so với 
chỉ có 32% đoàn hệ có tác nhân gây bệnh là vi 
khuẩn không điển hình đơn thuần được phát hiện. 
Hiện nay nhiều nghiên cứu ở các nước châu Á 
sử dụng kỹ thuật phân tử cho thấy tỉ lệ phát hiện 
virus lên đến 72% (10). Virus thường gặp nhất 
được phát hiện trong nghiên cứu của chúng tôi 
là rhinoviruses, chiếm tỉ lệ 32% bệnh nhân được 
phát hiện là do virus gây bệnh và 18.7% của đoàn 
hệ nói chung, tương tự như nghiên cứu khác (1, 23). 
Sự thay đổi về tỉ lệ bệnh nhân được phát hiện có 
tác nhân gây bệnh là virus giữa 3 nước, và sự thay 
đổi tương đối lớn về các chủng virus, chủ yếu đại 
diện cho nhóm tuổi khác nhau được lấy mẫu, với 
những bệnh nhân trẻ ở Vietnam và Thailand có tỉ 
lệ RSV được phát hiện cao hơn.
Bocaviruses được mô tả lần đầu tiên năm 
2005, và từ đó đến nay, nhiều nghiên cứu đã mô tả 
sự phát hiện của chúng trên đường hô hấp người 
(3) và khả năng liên quan đến bệnh, nhưng tính 
nhân quả vẫn chưa được chứng minh (24). Trong 
nghiên cứu này, 16.4% bệnh nhân được tìm thấy 
virus, tương tự như các nghiên cứu khác có tỉ 
lệ phát hiện từ 15% to 21.5% (25, 26). Các nghiên 
cứu này cũng như nghiên cứu của chúng tôi phát 
hiện bocavirus, chủ yếu ở những trẻ nhỏ hơn là 
người lớn. Trong nghiên cứu của chúng tôi cũng 
như nghiên cứu khác, bocaviruses được phát 
hiện thường thấy (136/200, 68% bocavirus phân 
lập trong nghiên cứu của chúng tôi, bảng S2) 
có liên quan đến tác nhân khác, hay gặp nhất là 
rhinovirus. 
Việc phát hiện vi khuẩn không điển hình là 
khá hiếm (3.2%). Tỉ lệ phát hiện này thấp hơn dữ 
liệu được công bố trước đây vốn có sự thay đổi từ 
13% to 26% (27, 28). Tuy nhiên, do chúng tôi không 
sử dụng phương pháp chẩn đoán bằng huyết thanh 
để tìm vi khuẩn không điển hình, vì thế tần suất 
mắc bệnh thật sự trong nghiên cứu của chúng tôi 
có thể cao hơn. Các vi khuẩn không điển hình hay 
gặp nhất được tìm thấy trong nghiên cứu của chúng 
tôi là M. pneumoniae, kế đến là C. psittaci và L. 
pneumophila. Các kết quả từ nghiên cứu của chúng 
tôi cũng tương tự như các nghiên cứu về nguyên 
nhân của viêm phổi cộng đồng ở Singapore và 
Malaysia, trong đó M. pneumoniae là tác nhân gây 
bệnh không điển hình hay gặp nhất được phát hiện 
(29). Rất ít dữ kiện về dịch tễ học của C. psittaci ở 
ĐNA và thực ra, vi khuẩn này chỉ được mô tả trong 
thời gian rất gần đây xem như nguyên nhân gây 
bệnh ở người tại Vietnam (30).
Các kiểu tác nhân gây bệnh được phát hiện 
có liên quan đáng kể với thời gian nhập viện. Vi 
khuẩn không điển hình và đặc biệt là việc nhiễm 
do M. pneumoniae có liên quan đến việc nằm viện 
lâu hơn. Tuổi của bệnh nhân cũng liên quan đáng 
kể đến thời gian nằm viện lâu hơn, ở nhóm bệnh 
nhân > 65 tuổi cần phải nằm viện cao hơn. Điều 
này có thể tương ứng với việc tăng các bệnh đồng 
mắc và giảm khả năng miễn dịch theo tuổi tương tự 
như ở các nơi khác trên thế giới. Quan sát thấy tính 
chất theo mùa không rõ ràng với các tác nhân khác 
nhau đã được phát hiện trong nghiên cứu, nhưng tỉ 
lệ nhiễm trùng xuất hiện cao hơn ở mùa đông và 
những tháng mùa xuân và nghiên cứu qua một năm 
duy nhất có thể chưa cho thấy được xu hướng theo 
mùa. Tỉ lệ cúm A tăng ở Indonesia và Vietnam vào 
tháng Tư năm 2009 trùng với dịch bệnh theo mùa 
của cúm H3N2 ở Vietnam, trước khi các trường 
hợp đầu tiên rải rác của nhiễm H1N1pdm09 được 
phát hiện vào cuối tháng Năm 2009 (31).
Điểm mạnh của dạng nghiên cứu này là có 
nhiều bệnh nhân đã được đưa vào từ 3 nước khác 
nhau của ĐNA, từ đó mang đến một tầm nhìn về 
 Dịch
62
Hô hấp số 15/2018
nguyên nhân virus và vi khuẩn không điển hình 
gây bệnh ILI của vùng này. Nghiên cứu này cũng 
đã sử dụng kỹ thuật RT-PCR. Tuy nhiên, hạn chế 
lớn là thiếu sử dụng kính hiển vi và cấy đàm cho 
các tác nhân là vi khuẩn thường gặp liên quan đến 
ILI như S.pneumoniae và H. influenzae type b và 
huyết thanh chẩn đoán cho các tác nhân không điển 
hình. Bên cạnh đó, thiếu sót trong việc ghi chép 
các thông tin lâm sàng của các trường hợp này gây 
khó khăn cho việc đánh giá ý nghĩa lâm sàng của 
các tác nhân gây bệnh khác nhau đã được phát hiện 
và độc tính của mỗi tác nhân. Mặc dù việc phết lấy 
bệnh phẩm cho tất cả các bệnh nhân được phân 
tích đều đáp ứng đủ tiêu chuẩn chọn lựa của chúng 
tôi, chúng tôi không có các dữ liệu liên quan đến 
số bệnh nhân có thể được nhập viện vì ILI nhưng 
không được phết lấy bệnh phẩm. Việc thiếu các 
dữ kiện lâm sàng cũng làm hạn chế trong việc so 
sánh giữa các điểm vì tiêu chuẩn nhập viện khác 
nhau có thể ảnh hưởng đến sự phân bố của các tác 
nhân gây bệnh. Tương tự, việc thiếu các dữ kiện 
lâm sàng và không có các dữ liệu liên quan đến 
sự nhập viện chung làm hạn chế khả năng diễn đạt 
kết quả tìm được về mối liên quan đến việc nhập 
ICU, những kết quả tìm được cho thấy các bệnh 
nhân trẻ hiện diện nhiều quá mức trong số những 
bệnh nhân nhập viện ICU có thể đại diện cho việc 
lấy mẫu thông thường khác nhau của người lớn và 
trẻ em ở những nơi như thế. Tuy nhiên chúng tôi 
cảm nhận thấy điều này là không thể có. Việc thiếu 
các dữ liệu liên quan đến bệnh nhân và các bệnh 
đồng mắc, như suy giảm miễn dịch và COPD, có 
thể cũng đã có tác động trên mức độ nặng của bệnh 
nhiễm trùng. Hơn nữa, việc thiếu kiểm soát bệnh 
nhân một cách thích hợp cũng làm hạn chế khả 
năng của chúng tôi trong việc xác định tỉ lệ quy cho 
của ILI, có thể gây ra bởi từng loại virus và cũng 
ngăn cản cho sự phân tích có lợi về tính thích hợp 
của tỉ suất cao việc mang vi khuẩn S. pneumoniae 
và H. influenzae type b của vùng mũi hầu.
Hình 1. Biểu đồ tần suất theo tháng ở từng nước
Việc xác định nguyên nhân ILI ngày càng trở 
nên quan trọng, không chỉ giúp xác định gánh nặng 
của các tác nhân khác nhau để cải thiện việc quản 
lý và dự phòng mà còn giúp hướng dẫn cho việc 
sử dụng kháng virus để giảm việc kháng với kháng 
sinh phát sinh và lan rộng. Nghiên cứu của chúng 
tôi, bên cạnh các bằng chứng nổi bật từ nhiều 
nghiên cứu khác về vấn đề này và ở các nước khác, 
gợi ý đến nguyên nhân ILI do virus nhiều hơn 
nhiều so với nguyên nhân do vi khuẩn, tuy nhiên 
nguyên nhân do virus có thể thay đổi theo địa điểm 
và thời gian. Những năm gần đây, sự xuất hiện của 
SARS-CoV, MERS-CoV, cúm gia cầm A/H5N1 và 
A/H7N9 làm nổi lên nguy cơ gây ra do nhiễm virus 
hô hấp và ĐNA trở thành nơi được sự quan tâm 
nhiều hơn nhằm theo dõi tác nhân gây bệnh. Có rất 
ít thông tin đươc công bố từ vùng này có liên quan 
đến tỉ suất và tần suất mắc bệnh với virus hay các 
tác nhân không điển hình có thể góp phần gây ILI, 
điều này làm cho các nghiên cứu tập trung vào vấn 
đề trên ngày càng quan trọng.
(TCHH: Tài liệu tham khảo xin xem bản gốc)

File đính kèm:

  • pdfvirus_va_vi_khuan_khong_dien_hinh_gay_benh_tren_benh_nhan_nh.pdf