Viêm trong bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính - Giai đoạn ổn định và đợt cấp

Đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT) là một diễn biến thường gặp của BPTNMT và để lại

nhiều hậu quả nặng nề cho người bệnh như suy giảm chất lượng cuộc sống, sụt giảm nhanh chức năng

hô hấp, chiếm phần lớn chi phí điểu trị bệnh và là nguyên nhân gây tử vong chính cho bệnh nhân. Khi

đợt cấp xảy ra, quá trình viêm trong đường hô hấp và viêm toàn thân diễn ra mạnh mẽ hơn với nhiều thay

đổi so với giai đoạn ổn định. Tùy theo nguyên nhân gây ra đợt cấp là vi trùng, virus hay các tác nhân

không viêm nhiễm mà kiểu viêm xảy ra trong đợt cấp cũng rất khác nhau. Có thể tạm thời chia làm 2

kiểu viêm chính thường gặp trong đợt cấp BPTNMT là viêm theo hướng tăng bạch cầu ái toan và viêm

theo hướng tăng bạch cầu đa nhân trung tính. Kiểu viêm theo hướng tăng bạch cầu ái toan đáp ứng tốt

với corticoid và thường xảy ra khi nguyên nhân gây ra đợt cấp là virus. Các thuốc chống viêm cho kiểu

viêm còn lại đang được nghiên cứu

pdf 8 trang phuongnguyen 220
Bạn đang xem tài liệu "Viêm trong bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính - Giai đoạn ổn định và đợt cấp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Viêm trong bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính - Giai đoạn ổn định và đợt cấp

Viêm trong bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính - Giai đoạn ổn định và đợt cấp
Hô hấp số 12/2017 Hô hấp số 12/2017
TỔNG QUAN
20
VIÊM TRONG BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH -
GIAI ĐOẠN ỔN ĐỊNH VÀ ĐỢT CẤP
ThS. BS NGUYỄN NHƯ VINH 
Trưởng khoa Thăm dò chức năng Bệnh viện Đại Học Y Dược Tp. HCM
Trung tâm đào tạo Bác sĩ gia đình - Đại học Y Dược Tp. HCM
E-mail: [email protected]
1. GIỚI THIỆU
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT) được 
định nghĩa là bệnh đặc trưng bởi tình trạng giới 
hạn luồng khí dai dẳng và tiến triển liên quan đến 
tình trạng đáp ứng viêm quá mức và mạn tính 
của đường thở và phổi đối với các hạt và khí độc. 
Tình trạng viêm này diễn ra thường trực trong giai 
đoạn ổn định và gia tăng (kèm thay đổi đáng kể) 
khi bệnh nhân vào đợt cấp (1). BPTNMT là một 
vấn đề sức khỏe toàn cầu với tỷ lệ ngày càng gia 
tăng và tỷ lệ tử vong ước tính chiếm 5% tử vong 
toàn cầu. Đây là nguyên nhân gây tử vong đứng 
hàng thứ 4 trên thế giới và dự kiến sẽ tăng lên 
hàng thứ 3 vào năm 2020 (1).
Về định nghĩa, đợt cấp “là tình trạng 
nặng lên của các triệu chứng hơn mức dao động 
tới hàng ngày đòi hỏi phải thay đổi điều trị” (2) 
và theo Anthonisen thì đợt cấp xảy ra khi người 
bệnh có mức độ khó thở tăng, lượng đàm tăng hay 
có đàm mủ (2). Đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn 
tính (BPTNMT) là một diễn biến thường gặp của 
BPTNMT và để lại nhiều hậu quả nặng nề cho 
Tóm tắt
Đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT) là một diễn biến thường gặp của BPTNMT và để lại 
nhiều hậu quả nặng nề cho người bệnh như suy giảm chất lượng cuộc sống, sụt giảm nhanh chức năng 
hô hấp, chiếm phần lớn chi phí điểu trị bệnh và là nguyên nhân gây tử vong chính cho bệnh nhân. Khi 
đợt cấp xảy ra, quá trình viêm trong đường hô hấp và viêm toàn thân diễn ra mạnh mẽ hơn với nhiều thay 
đổi so với giai đoạn ổn định. Tùy theo nguyên nhân gây ra đợt cấp là vi trùng, virus hay các tác nhân 
không viêm nhiễm mà kiểu viêm xảy ra trong đợt cấp cũng rất khác nhau. Có thể tạm thời chia làm 2 
kiểu viêm chính thường gặp trong đợt cấp BPTNMT là viêm theo hướng tăng bạch cầu ái toan và viêm 
theo hướng tăng bạch cầu đa nhân trung tính. Kiểu viêm theo hướng tăng bạch cầu ái toan đáp ứng tốt 
với corticoid và thường xảy ra khi nguyên nhân gây ra đợt cấp là virus. Các thuốc chống viêm cho kiểu 
viêm còn lại đang được nghiên cứu.
Abstract: Inflammation in COPD: stable and acute exacerbation state
Acute exacerbations are very common in progression of and an important feature of chronic obstructive 
pulmonary disease (COPD) since they result in deterioration of a patient’s quality of life, contribute to 
decline in lung function, lead to majority of all COPD-related costs and to be a main cause of mortality 
in this disease. During exacerbation, the inflammatory process in both airway and body system are 
dramatically enhanced and changed compared to that in stable stage. The major causes of exacerbations 
are viral and bacterial infection, air pollution and unidentified causes. Certainly, the different known 
causes of exacerbation will result in various types of inflammation. However, there are two main 
types of inflammation in COPD exacerbations should be remember are eosinophilic inflammation and 
neutrophilic inflammation. That eosinophilic inflammation which is usually happen in virus induced 
exacerbation is well controlled by corticosteroid but the drugs for neutrophilic inflammation is under 
developed.
Hô hấp số 12/2017 Hô hấp số 12/2017
TỔNG QUAN
21
người bệnh như suy giảm chất lượng cuộc sống, 
sụt giảm nhanh chức năng hô hấp, chiếm phần 
lớn chi phí điểu trị bệnh và là nguyên nhân gây tử 
vong chính cho bệnh nhân.
Mặc dù phản ứng viêm được xem là một 
đặc tính chính trong đợt cấp và corticoid đường 
toàn thân luôn được khuyến cáo sử dụng trong đợt 
cấp để khống chế tình trạng viêm này nhưng hầu 
như không có định nghĩa đợt cấp nào có đề cập 
đến tình trạng viêm. Gần đây đã có tác giả cố gắng 
sử dụng biomarker viêm của đường hô hấp để xác 
định đợt cấp BPTNMT và cho thấy CRP máu kết 
hợp với một triệu chứng lâm sàng chính có thể hữu 
ích để xác định đợt cấp (3). Đợt cấp gây ra nhiều hệ 
luỵ cho người bệnh và có liên quan chặt chẽ với 
tình viêm của đường hô hấp cũng như viêm toan 
thân nên cơ chế viêm cần được chú trọng trong 
quản lý đợt cấp. Tìm hiểu cơ chế viêm này sẽ giúp 
chúng ta hiểu được cơ chế bệnh học gây ra đợt cấp 
đồng thời giúp tìm kiếm 1 giải pháp chống viêm 
trong tương lai để điều trị cho bệnh nhân.
Bài viết này mô tả đặc điểm của viêm của 
BPTNMT trong giai đoạn cấp cũng như mối liên 
quan giữa tình trạng viêm này với các biểu hiện 
lâm sàng của bệnh nhân. 
2. QUÁ TRÌNH VIÊM XẢY RA TRONG ĐỢT 
CẤP BPTNMT
Ngày nay, nhờ kỹ thuật sinh thiết phổi, phân tích 
đàm và tử thiết nên quá trình viêm mạn tính của 
đường thở và phổi ở BPTNMT đã được chứng 
minh (4). Khi các hạt và khí độc có trong khói thuốc 
lá hay vài chất khác tiếp xúc với niêm mạc đường 
hô hấp, nó sẽ khởi động một quá trình viêm chuyên 
biệt ở đường dẫn khí nhỏ và nhu mô phổi với 
nhiều loại tế bào khác nhau tham gia bao gồm các 
tế bào lympho mà đặc biệt bạch cầu đa nhân trung 
tính (BCĐNTT) và đại thực bào (5,6). Quá trình 
viêm làm thay đổi cấu trúc và chức năng đường 
hô hấp qua 4 cơ chế chính (5): (1) tăng mức độ dày 
của thành phế quản (2) tăng trương lực cơ trơn phế 
quản, (3) tăng tiết nhày và (4) mất các cấu trúc đàn 
hồi. Các cơ chế này hình thành nên cơ chế bệnh 
sinh của BPTNMT và biểu hiện thành các triệu 
chứng lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân. 
Các nghiên cứu cho thấy quá trình viêm 
bắt đầu xảy ra ở người hút thuốc lá và tăng dần ở 
khi người đó mắc BPTNMT (bệnh càng nặng viêm 
càng nhiều) và đặc biệt là tăng cao trong đợt cấp 
(hình 1). Những người hút thuốc và mắc BPTNMT 
giai đoạn ổn định sẽ viêm mạn tính và tiến triển 
ảnh hưởng đến toàn bộ cây hô hấp và đặc trưng 
bởi sự gia tăng các đại thực bào và các tế bào 
lympho T CD8 trong thành đường hô hấp và bạch 
cầu đa nhân trung tính trong lòng đường hô hấp. 
Đặc điểm về tế bào này thay đổi trong đợt cấp, khi 
bạch cầu ái toan và bạch cầu trung tính trở thành 
thành phần chính trong các đáp ứng viêm (7,8). Bất 
kỳ kích thích nào làm tăng viêm đường hô hấp cấp 
tính đều có thể dẫn đến tăng trương lực phế quản, 
tăng phù nề thành phế quản và tăng tạo chất nhầy. 
Các quá trình này cũng có thể làm trầm trọng thêm 
sự mất cân bằng giữa thông khí - tưới máu và hạn 
chế thông khí thở ra. Các biểu hiện lâm sàng tương 
ứng sẽ bao gồm trao đổi khí khó khăn hơn, khó 
thở tăng, ho và tăng tiết đàm hay xuất hiện đàm 
nhầy mủ; đây là các biểu hiện chủ yếu của một đợt 
kịch phát.
Cơ chế viêm xảy ra trong BPTNMT ở 
giai đoạn ổn định hay khi vào đợt cấp tương đối 
phức tạp và hiện chưa được hiểu biết một cách 
đầy đủ. Hơn nữa, về nguyên nhân thì đa phần đợt 
cấp do nhiễm siêu vi hay vi trùng nhưng nhiều 
trường hợp không xác định được nguyên nhân 
(1) nên đặc tính viêm cũng rất khác nhau khi các 
Hình 1. Tình trạng viêm gia tăng ở bệnh nhân 
BPTNMT so với người hút thuốc lá không bị 
BPTNMT hay không hút thuốc lá. Một khi đã hình 
thành, quá trình viêm sẽ tiếp diễn dù ngưng hút thuốc 
lá và viêm xảy ra nhiều hơn khi bệnh nhân có đợt cấp 
do vi trùng hay virus (6).
Hô hấp số 12/2017 Hô hấp số 12/2017
TỔNG QUAN
22
nguyên nhân gây ra đợt cấp khác nhau. Nhiều 
tế bào viêm như BCĐNTT, lymphocyte và bạch 
cầu ái toan (BCAT) gia tăng trong đợt cấp và 
các chất trung gian viêm như các chất hoá hướng 
động của BCĐNTT (IL-8, và leukotriene -B4), 
các sản phẩm ly giải hạt của BCĐNTT (bao gồm 
myeloperoxidase) và các marker viêm hệ thống 
(IL-6, CRP) cũng như chemokine (eotaxin và 
RANTES - Regulated upon Activation, Normal 
T-cell Expressed, and Secreted) cũng gia tăng 
so với BPTNMT giai đoạn ổn định (9). Kiểu hình 
BPTNMT cũng liên quan đến tình trạng viêm của 
đường hô hấp trong giai đoạn ổn định nói chung và 
đợt cấp nói riêng. Nhóm bệnh nhân bị BPTNMT 
kiểu hình có nhiều đợt cấp có mức độ viêm nhiều 
hơn nhóm có kiểu hình ít đợt cấp. Điều này gợi ý 
có một sự liên quan giữa mức độ viêm và tần suất 
đợt cấp BPTNMT. Tuy nhiên vì có sự trùng lắp 
trong các cơ chế tạo ra quá trình viêm nên không 
thể dựa vào mức độ viêm để tiên đoán bệnh nhân 
sẽ có nhiều đợt cấp hay không. 
Dù tương đối phức tạp trong cơ chế viêm 
khi bệnh nhân BPTNMT vào đợt cấp nhưng có 
2 kiểu viêm chính cần phân biệt trong giai đoạn 
này là viêm theo hướng tăng bạch cầu ái toan 
(eosinophilic inflammation) và viêm theo hướng 
tăng bạch cầu đa nhân trung tính (neutrophilic 
inflammation) (101,11).
Viêm theo hướng tăng bạch cầu ái toan - 
Eosinophilic inflammation:
Một kiểu viêm có thể giải thích được nhiều đặc 
tính của đợt cấp BPTNMT là tình trạng viêm 
theo kiểu tăng BCAT. Các nghiên cứu về sinh 
thiết niêm mạc đường hô hấp cho thấy BCAT 
ở niêm mạc phế quản tăng 30 lần trong đợt cấp 
(4) (xem hình 2) và một sản phẩm của BCAT là 
eosinophilic cationic protein (ECP) - protein 
tích điện dương của BCAT - cũng tăng trong 
máu khi bệnh nhân vào đợt cấp (12). Mặc dù điều 
này gợi ý “biểu hiện của hen” nhưng trong bệnh 
cảnh này các bạch cầu ái toan không phóng hạt 
(như trong bệnh hen) và không kèm theo tăng 
IL-5 (13). 
Sự gia tăng BCAT trong đợt cấp (như 
hình 2) gợi ý rằng có một nhóm bệnh nhân có 
BCAT gia tăng trong đường thở. Sự gia tăng này 
trong đợt cấp BPTNMT có thể có liên quan đến 
nguyên nhân là siêu vi gây ra đợt cấp (14,15). Khi 
virus xâm nhập vào đường thở, nó bị nhận diện 
bởi các Toll-like receptors trên các tế bào biểu 
mô và sau đó các tế bào này tạo ra rất nhiều các 
cytokine tiền viêm (16,17). Các chemokine lôi kéo 
BCAT như RANTES, eotaxin và interleukin-5 
(IL-5) cũng được tìm thấy gia tăng trong suốt 
đợt cấp (18). RANTES có thể thúc đẩy việc tập 
kết bạch cầu ái toan làm gia tăng số lượng các 
tế bào này ở niêm mạc đường hô hấp trong cơn 
Hình 2. Thay đổi bạch cầu ái toan trong đàm từ giai đoạn ổn định sang giai 
đoạn cấp của bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (4).
Hô hấp số 12/2017 Hô hấp số 12/2017
TỔNG QUAN
23
kịch phát (19). Vai trò của bạch cầu ái toan vẫn 
còn đang được xác định, nhưng một số sản phẩm 
của bạch cầu ái toan (peroxidase của bạch cầu ái 
toan, protein cơ bản, eosinophil cationic protein 
(ECP), metalloproteinase, yếu tố kích hoạt tiểu 
cầu và cysteinyl leukotrienes) có thể gây tổn 
thương đường hô hấp do cơ chế viêm (20) và cùng 
với histamin có thể gây ra co thắt phế quản. Tăng 
eotaxin-1, một chemokine CC tham gia vào việc 
tập kết và kích hoạt bạch cầu ái toan và thụ thể 
CCR3 của eotaxin-1 cũng đã được phát hiện 
ở các đợt cấp (21). Viêm theo hướng tăng BCAT 
dường như là đặc trưng của đợt cấp do virus và 
trái lại BCĐNTT và các sản phẩm trung gian của 
BCĐNTT được ghi nhận có vai trò ở các đợt cấp 
cả do vi trùng và virus (10,11). 
Mặc dù có những bằng chứng như trên 
nhưng không phải ai cũng biết tế bào viêm đích 
cần nhắm đến trong điều trị đợt cấp. BCAT liên 
quan nhiều đến đợt cấp và đây là tế bào nhạy cảm 
nhất với corticoid trong đường thở do vậy hiệu 
quả điều trị của corticoid trong đợt cấp chủ yếu 
liên quan đến nhóm tế bào này. Trong BPTNMT 
giai đoạn ổn định, số lượng tế bào BCAT cao có 
liên quan đến đáp ứng với corticoid cả đường toàn 
thân hay đường hít (ICS) (22) và trong giai đoạn 
cấp, nhiều bằng chứng cho thấy prednisolone và 
phối hợp ICS/ LABA (LABA là thuốc dãn phế 
quản tác dụng kéo dài) giảm được BCAT trong 
đàm (23).
Viêm theo hướng tăng bạch cầu đa nhân trung 
tính - Neutrophilic inflammation:
Một phát hiện quan trọng khác trong chất tiết 
đường hô hấp và mẫu sinh thiết phế quản ở đợt 
cấp BPTNMT là tăng BCĐNTT (22). Sự gia tăng 
này liên quan đến việc tạo đàm hay tăng độ đặc 
của đàm (22,24). Các BCĐNTT phóng thích hạt 
tạo ra các elastase và proteinases có thể gây tổn 
thương biểu mô, giảm cử động các vi nhung mao, 
kích thích các tế bào đài tăng tiết nhầy và tăng tính 
thấm của niêm mạc phế quản gây ra phù đường 
thở và xuất tiết protein vào đường thở (25). Những 
thay đổi này đặc biệt ở đường dẫn khí nhỏ sẽ làm 
tăng tình trạng khó thở, tăng lượng đàm cũng như 
thay đổi màu sắc (tính chất) đàm trong đợt cấp. 
Tầm quan trọng của bạch cầu trung tính 
trong đợt cấp BPTNMT cũng được nhấn mạnh 
bởi việc phát hiện tỷ lệ bạch cầu trung tính ở phế 
trường ngoại biên có tương quan tuyến tính nghịch 
với mức độ nặng của tắc nghẽn đường hô hấp (26) 
và sự thay đổi của số lượng BCĐNTT ở đàm trong 
đợt cấp (so với giai đoạn ổn định) tỷ lệ thuận với 
mức sụt giảm chức năng hô hấp trong đợt cấp 
(hình 3) (27). 
Việc tập kết BCĐNTT trong đợt cấp 
BPTNMT thông qua trung gian rất nhiều phân tử 
khác nhau. Trên thực tế, hai chất hóa hướng động 
BCĐNTT quan trọng là CXCL5 (ENA-78) và 
CXCL8 (IL-8) và các thụ thể của chúng CXCR1 
và CXCR2 đã được tìm thấy trong mẫu sinh thiết 
phế quản ở những đợt kịch phát BPTNMT mức 
độ nặng (28). Tương tự, người ta cũng phát hiện 
nồng độ CXCL8 tăng lên trong các đường dẫn 
khí lớn trong cả các đợt cấp nặng và rất nặng 
(26). Hơn nữa, đợt cấp cũng liên quan đến sự gia 
tăng LTB4 (25), một cytokine liên quan đến viêm 
theo hướng tăng BCĐNTT nhiều nhất trong đợt 
cấp. GM-CSF (granulocyte/ macrophage colony 
stimulating factor) là một cytokine có chức năng 
thúc đẩy quá trình biệt hóa các tế bào bạch cầu 
hạt và đại thực bào cũng như kích hoạt trực tiếp 
chúng cũng gia tăng trong đợt cấp. Đây cũng là 
một cơ chế góp phần làm cho BCĐNTT – cũng 
như BCAT và đại thực bào – tác động làm thay 
đổi quá trình viêm xảy ra trong đường thở khi 
bệnh nhân vào đợt cấp (25). Hình 3 mô tả sự thay 
đổi xảy ra trong quá trình viêm theo hướng tăng 
Hình 3. Sự gia tăng bạch cầu đa nhân trung tính ở 
đàm trong đợt cấp tỷ lệ thuận với mức độ sụt giảm 
FEV
1 
trong đợt cấp (27).
Hô hấp số 12/2017 Hô hấp số 12/2017
TỔNG QUAN
24
bạch cầu đa nhân trung tính trong đợt cấp. Mặc dù 
BCĐNTT lên quan đến tình trạng nhiễm trùng cả 
trong giai đoạn ổn định hay cấp nhưng BCĐNTT 
vẫn thấy gia tăng khi bệnh nhân vào đợt cấp do 
virus hay không rõ nguyên nhân (29). Tình trạng 
viêm đường thở và viêm toàn thân xảy ra mạnh 
hơn trong đợt cấp liên quan đến các chủng vi 
trùng mới (đối với bệnh nhân) so với trong đợt 
cấp do các chủng vi trùng thường trú hay đợt cấp 
không do nhiễm trùng. Các đợt cấp liên quan đến 
các chủng vi trùng thường trú có một quá trình 
viêm tương tự như các đợt cấp không rõ nguyên 
nhân gợi ý rằng các chủng vi trùng thường trú có 
thể không phải là tác nhân gây bệnh (30).
Các nghiên cứu cắt ngang cho thấy có sự 
liên quan giữa các marker viêm đường thở và mức 
độ nặng của đợt cấp. Các marker viêm đường thở 
như IL-8 đàm và IL-6 đàm có liên quan ngược với 
chức năng phổi trước đợt cấp và điều này cho thấy 
mức độ đáp ứng viêm cấp tính trong đợt cấp liên 
quan với mức độ chức năng phổi trong giai đoạn 
ổn định (4,31). Ngoài ra, IL-8 và IL-6 gia tăng nhiều 
hơn trong kiểu hình BPTNMT nhiều đợt cấp so 
với kiểu hình ít đợt cấp và càng nhiều marker 
viêm như IL-6 đàm và IL-8 đàm thì thời gian hồi 
phục sau đợt cấp càng lâu (4).
Leukotrien cũng là một yếu tố hóa hướng 
động của các tế bào viêm trong đợt cấp BPTNMT. 
Không chỉ leukotriene B4 mà leukotriene E4 cũng 
gia tăng trong đợt cấp và liên quan mức độ giảm 
oxy máu và mức độ tắc nghẽn đường thở trong 
đợt cấp (32). 
Một trong những vai trò quan trọng của 
BCĐNTT là diệt khuẩn. Để tiêu diệt vi trùng, 
các BCĐNTT phóng thích hoạt, giải phóng 
myeloperoxidase là 1 chất có tính oxy hóa cao (33) 
Hình 3. Viêm theo hướng tăng bạch cầu đa nhân trung tính trong đợt cấp. (A) Sự hoạt hoá các thực bào/đại thực 
bào (phóng thích LTB4 và TNFα). (B) Hoạt hoá các tế bào biểu mô (để đáp ứng với TNFα và các chát tiết của vi 
trùng, phóng thích TNFα và IL-8). (C) Hoạt hoá các tế bào nội mô (do TNFα, tăng các phân tử kết dính). (D) Di 
chuyển BCĐNTT (sau khi bám vào các phân tử kết dính và gradient hoá hướng động IL-8/LTB4, phóng thích 
elastase và gây tổn thương mô). (E) phóng thích Neutrophil elastase vào đường thở (tổn thương biểu mô và thoát 
protein; tăng tiết nhầy; giảm thanh thải nhầy; phóng thích IL-8 và LTB4 gây tăng tín hiệu hoá hướng động). Viết 
tắt: LTB4=leukotriene B4; IL-8=interleukin 8; TNFα=tumour necrosis factor α; ICAM-1=intercellular adhesion 
molecule 1.
Hô hấp số 12/2017 Hô hấp số 12/2017
TỔNG QUAN
25
gia tăng ở đàm và máu trong đợt cấp BPTNMT (34) 
. Nếu đợt cấp BPTNMT gây ra bởi vi trùng thì sẽ có 
sự gia tăng BCĐNTT trong đàm và tạo ra đáp ứng 
viêm toàn thân biểu hiện bằng các marker viêm 
của BCĐNTT trong máu như CRP, fibrinogen và 
IL- 6 tăng trong đợt cấp (35). Nhiều cơ chế được 
đưa ra để giải thích sự gia tăng tình trạng viêm 
toàn thân bao gồm: 1) các trung gian viêm tràn ra 
từ phổi; 2) phản ứng viêm do tình trạng thiếu oxy 
mô và 3) phản ứng do lipopolysaccharide là sản 
phẩm tiền viêm từ vi trùng (36).
Thêm vào đó, đã có bằng chứng về mối 
liên hệ giữa tình trạng viêm hệ thống và nguy cơ 
đợt cấp BPTNMT. Những bệnh nhân BPTNMT 
và có hội chứng chuyển hóa có biểu hiện viêm 
toàn thân nhiều hơn (CRP tăng), đợt cấp nhiều 
hơn và thời gian nằm viện vì đợt cấp dài hơn so 
với các bệnh nhân BPTNMT không có hội chứng 
chuyển hóa. Các marker viêm toàn thân như IL-8, 
IL-6 và IL-5, CRP, TNF-α và neutrophil elastase 
trong máu cũng có liên quan với tình trạng cải 
thiện lâm sàng và chức năng phổi sau đợt cấp (4). 
Tình trạng gia tăng lâu dài các marker viêm toàn 
thân (IL-8 đàm, TNF-α máu, neutrophil elastase 
và CRP máu) là đặc trưng của nhóm bệnh nhân 
BPTNMT nhiều đợt cấp và có liên quan đến nguy 
cơ mắc đợt cấp tiếp theo sau 1 thời gian ngắn.
3. CÁC ĐIỀU TRỊ MỚI CHỐNG VIÊM TRONG 
BPTNMT ĐANG NGHIÊN CỨU NGOÀI 
CORTICOID (4)
Có nhiều loại thuốc chống viêm mới trong 
BPTNMT đã và đang xuất hiện như anticytokine 
và antichemokine. Một nghiên cứu thử nghiệm 
trên bệnh nhân BPTNMT với ABX- IL8, một 
kháng thể đơn dòng chống IL-8, cho thấy thuốc 
giảm được tình trạng khó thở thông qua cơ chế 
chống viêm. TNF là một cytokine tham gia vào 
quá trình viêm nên điều trị chống TNF là một lựa 
chọn đang được quan tâm trong điều trị BPTNMT. 
Thuốc Etanercept, một thuốc chống TNF, có thể 
ngăn chặn các TNF hòa tan hay bám vào tế bào 
đã làm giảm được tỉ lệ nhập viện cho bệnh nhân 
BPTNMT. Tuy nhiên, kháng thể kháng TNF, 
infliximab, không cải thiện được chất lượng cuộc 
sống hay khả năng gắng sức cũng như nguy cơ 
xuất hiện đợt cấp cho bệnh nhân BPTNMT và có 
nguy cơ gây ra ung thư và viêm phổi. Vì vậy cần 
có nhiều nghiên cứu hơn nữa để tạo ra các thuốc 
điều trị hướng về các tác nhân viêm đặc hiệu này 
ở bệnh nhân BPTNMT. 
4. KẾT LUẬN
Nhiều tế bào và hóa chất trung gian gây viêm 
tham gia vào cơ chế viêm của BPTNMT giai đoạn 
cấp cũng như giai đoạn ổn định. Khi bệnh nhân 
vào đợt cấp, quá trình viêm diễn tiến nặng hơn 
và có nhiều thay đổi về tế bào viêm cũng như các 
chất trung gian so với giai đoạn ổn định. Tùy theo 
nguyên nhân gây ra đợt cấp là vi trùng, virus hay 
không phải tác nhân viêm nhiễm mà kiểu viêm 
của đường hô hấp cũng như toàn thân trong đợt 
cấp sẽ khác nhau. Cơ bản có 2 kiểu viêm chính 
là viêm theo hướng tăng BCAT thường gặp khi 
nhiễm virus đơn thuần và kiểu viêm theo hướng 
tăng BCĐNTT thường gặp khi nhiễm vi trùng hay 
cả vi trùng và virus. Tình trạng viêm mà đặc biệt 
viêm toàn thân góp phần làm cho đợt cấp nặng 
hơn do vậy do vậy người thầy thuốc cần hiểu được 
tầm quan trọng của việc điều trị để đạt được mục 
tiêu giảm nền viêm này nhằm làm giảm đợt cấp 
và làm chậm diễn tiến của bệnh. Hiện có vài loại 
thuốc đã được chứng minh làm được điều này 
và nhiều loại thuốc có triển vọng đang được thử 
nghiệm trên lâm sàng.
Tài liệu tham khảo
1. Global Strategy for the Diagnosis, Management 
and Prevention of COPD, Global Initiative for 
Chronic Obstructive Lung Disease (GOLD) 2017. 
Available from: 
2. Anthonisen NR, Manfreda J, Warren CP, et al. 
Antibiotic therapy in exacerbations of chronic 
obstructive pulmonary disease. Ann Intern Med. 
1987;106:196–204.
3. Hurst JR, Donaldson GC, Perea WR, et al. Utility 
of plasma biomarkers at exacerbation of chronic 
obstructive pulmonary disease. Am J Respir Crit 
Care Med. 2006a;174:867–74.
4. Sethi S, Mahler DA, Marcus P, Owen CA, Yawn 
B, Rennard S. Inflammation in COPD: implications 
for management. Am J Med. 2012;125(12):1162-
70.
5. Roche N, Marthan R, Berger P, Chambellan 
Hô hấp số 12/2017 Hô hấp số 12/2017
TỔNG QUAN
26
A, Chanez P, Aguilaniu B, et al. Beyond 
corticosteroids: future prospects in the 
management of inflammation in COPD. European 
Respiratory Review. 2011;20(121):175-82.
6. Barnes PJ. Inflammatory mechanisms in patients 
with chronic obstructive pulmonary disease. J 
Allergy Clin Immunol. 2016;138(1):16-27.
7. Saetta M, Turato G, Maestrelli P, Mapp CE, 
Fabbri LM. Cellular and structural bases of 
chronic obstructive pulmonary disease. Am J 
Respir Crit Care Med 2001;163:1304–1309. 
8. White AJ, Gompertz S, Stockley RA. Chronic 
obstructive pulmonary disease 6: the aetiology 
of exacerbations of chronic obstructive pulmo 
nary disease. Thorax 2003;58:73–80. 
9. Bathoorn E, Liesker JJ, Postma DS, et al. 
Change in inflammation in out-patient COPD 
patients from stable phase to a subsequent 
exacerbation. Int J Chron Obstruct Pulmon Dis. 
2009;4:101-109.
10. Mercer PF, Shute JK, Bhowmik A, et al. MMP-9, 
TIMP-1 and inflammatory cells in sputum from 
COPD patients during exacerbation. Respir 
Res. 2005;6:151. 
11. Papi A, Bellettato CM, Braccioni F, et al. Infections 
and airway inflammation in chronic obstructive 
pulmonary disease severe exacerbations. Am J 
Respir Crit Care Med. 2006;173:1114-1121. 
12. Fiorini G, Crespi S, Rinaldi M, et al. Serum ECP 
and MPO are increased during exacerbations 
of chronic bronchitis with airway obstruction. 
Biomed Pharmacother 2000;54:274–8. 
13. Saetta M, Di Stefano A, Maestrelli P, et al. Airway 
eosinophilia and expression of interleukin-5 
protein in asthma and in exacerbations of chronic 
bronchitis. Clin Exp Allergy 1995;26:766–74. 
14. Papi A, Romagnoli M, Baraldo S, et al. Partial 
reversibility of airflow limitation and increased 
exhaled NO and sputum eosinophilia in chronic 
obstructive pulmonary disease. Am J Respir Crit 
Care Med. 2000;162:1773–7.
15. Rohde G, Gevaert P, Holtappels G, et al. Soluble 
interleukin-5 receptor alpha is increased in acute 
exacerbation of chronic obstructive pulmonary 
disease. Int Arch Allergy Immunol. 2004;135:54–
61.
16. Hewson CA, Jardine A, Edwards MR, et al. 
Toll-like receptor 3 is induced by and mediates 
antiviral activity against rhinovirus infection 
of human bronchial epithelial cells. J Virol. 
2005;79:12273–9.
17. Ritter M, Mennerich D, Weith A, et al. 
Characterization of Toll-like receptors in primary 
lung epithelial cells: strong impact of the TLR3 
ligand poly(I:C) on the regulation of Toll-like 
receptors, adaptor proteins and inflammatory 
response. J Inflamm (Lond) 2005;2:16.
18. Fujimoto K, Yasuo M, Urushibata K, et al. 
Airway inflammation during stable and acutely 
exacerbated chronic obstructive pulmonary 
disease. Eur Respir J. 2005;25:640–6.
19. Zhu J, Qiu YS, Majumdar S, Gamble E, Matin 
D, Turato G, Fabbri LM, Barnes N, Saetta 
M, Jeffery PK. Exacerbations of bronchitis: 
bronchial eosinophilia and gene expression 
for interleukin-4, interleukin-5, and eosinophil 
chemoattractants. Am J Respir Crit Care Med 
2001;164:109– 116. 
20. Gompertz S, Stockley RA. Inflammation–role of 
the neutrophil and the eosinophil. Semin Respir 
Infect 2000;15:14–23. 
21. Bocchino V, Bertorelli G, Bertrand CP, Ponath 
PD, Newman W, Franco C, Marruchella A, 
Merlini S, Del Donno M, Zhuo X, et al. Eotaxin 
and CCR3 are up-regulated in exacerbations of 
chronic bronchitis. Allergy 2002;57:17–22. 
22. 78. Fujimoto K, Yasuo M, Urushibata K, Hanaoka 
M, Koizumi T, Kubo K. Airway inflammation 
during stable and acutely exacerbated chronic 
obstructive pulmonary disease. Eur Respir J 
2005;25:640–646.
23. Brightling CE, McKenna S, Hargadon B, et al. 
Sputum eosinophilia and the short term response 
to inhaled mometasone in chronic obstructive 
pulmonary disease. Thorax. 2005;60:193–8.
24. StockleyRA, BayleyD, HillSL , HillAT, CrooksS, 
CampbellEJ.Assessment of airway neutrophils 
by sputum colour: correlation with airways 
inflammation. Thorax 2001;56:366–372. 
25. Gompertz S, O’Brien C, Bayley D, et al. 
Changes in bronchial inflammation during acute 
exacerbations of chronic bronchitis. Eur Respir J 
2001;17:1112–9. 
26. Drost EM, Skwarski KM, Sauleda J, Soler N, 
Roca J, Agusti A, Macnee W. Oxidative stress 
and airway inflammation in severe exacerbations 
of COPD. Thorax 2005;60:293–300. 
27. Papi A, Bellettato CM, Braccioni F, et al. Infections 
and airway inflammation in chronic obstructive 
pulmonary disease severe exacerbations. Am J 
Respir Crit Care Med. 2006;173:1114–21.
28. Qiu Y, Zhu J, Bandi V, Atmar RL, Hattotuwa K, 
Guntupalli KK, Jeffery PK. Biopsy neutrophilia, 
neutrophil chemokine and receptor gene 
expression in severe exacerbations of chronic 
obstructive pulmonary disease. Am J Respir Crit 
Care Med 2003;168:968–975. 
29. Papi A, Bellettato CM, Braccioni F, et al. Infections 
and airway inflammation in chronic obstructive 
pulmonary disease severe exacerbations. Am J 
Hô hấp số 12/2017 Hô hấp số 12/2017
TỔNG QUAN
27
Respir Crit Care Med. 2006;173:1114–21.
30. Sethi S, Wrona C, Eschberger K, et al. 
Inflammatory profile of new bacterial strain 
exacerbations of chronic obstructive pulmonary 
dis- ease. Am J Respir Crit Care Med. 
2008;177:491-497.
31. Wilkinson TM, Hurst JR, Perera WR, et al. Effect 
of interactions between lower airway bacterial 
and rhinoviral infection in exacerba- tions of 
COPD. Chest. 2006;129:317-324. 
32. Biernacki WA, Kharitonov SA, Barnes PJ. 
Increased leukotriene B4 and 8-isoprostane 
in exhaled breath condensate of patients with 
exacerbations of COPD. Thorax. 2003;58:294–
8.
33. Furtmuller PG, Obinger C, Hsuanyu Y, et al. 
Mechanism of reaction of myeloperoxidase 
with hydrogen peroxide and chloride ion. Eur J 
Biochem. 2000;267:5858–64.
34. Aaron SD, Angel JB, Lunau M, et al. Granulocyte 
inflammatory markers and airway infection 
during acute exacerbation of chronic obstructive 
pulmonary disease. Am J Respir Crit Care Med. 
2001;163:349–55. 
35. Wedzicha JA, Seemungal TA, MacCallum PK, 
et al. Acute exacerbations of chronic obstructive 
pulmonary disease are accompanied by 
elevations of plasma fibrinogen and serum IL-6 
levels. Thromb Haemost. 2000;84:210–15.
36. Wouters EF. Local and systemic inflammation 
in chronic obstructive pulmonary disease. Proc 
Am Thorac Soc. 2005;2:26–33. 

File đính kèm:

  • pdfviem_trong_benh_phoi_tac_nghen_man_tinh_giai_doan_on_dinh_va.pdf