Viêm phổi cộng đồng trên bệnh nhân COPD: lâm sàng, tiên lượng và xử trí
1. ĐẠI CƯƠNG
Viêm phổi cộng đồng (CAP: community-Acquired pneumonia) là tình trạng nhiễm trùng của nhu mô phổi xảy ra bên ngoài bệnh viện, bao gồm viêm phế nang, ống và túi phế nang, tiểu phế quản tận hoặc viêm tổ chức kẽ của phổi. Mặc dù đã có rất nhiều tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị nhưng CAP vẫn là vấn đề sức khoẻ toàn cầu, gây ra gánh nặng đáng kể về bệnh tật và kinh tế (1). Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) đã được chứng minh là một yếu tố nguy cơ quan trọng của CAP. Bệnh nhân COPD không những có tỷ lệ mắc CAP cao hơn (2) mà một số nghiên cứu còn cho thấy nguy cơ mắc viêm phổi nặng hơn bệnh nhân không mắc COPD (3). Vậy ảnh hưởng qua lại giữa CAP và COPD như thế nào, đặc điểm lâm sàng, tiên lượng và xử trí có điểm gì cần quan tâm? Trong bài báo này, chúng tôi cố gắng khái quát những điểm chính, hy vọng sẽ được sự đón đọc và phản hồi của quý đồng nghiệp
Tóm tắt nội dung tài liệu: Viêm phổi cộng đồng trên bệnh nhân COPD: lâm sàng, tiên lượng và xử trí
Hướng dẫn tHực HànH 35 Hô hấp số 15/2018 1. ĐẠI CƯƠNG Viêm phổi cộng đồng (CAP: community-acquired pneumonia) là tình trạng nhiễm trùng của nhu mô phổi xảy ra bên ngoài bệnh viện, bao gồm viêm phế nang, ống và túi phế nang, tiểu phế quản tận hoặc viêm tổ chức kẽ của phổi. Mặc dù đã có rất nhiều tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị nhưng CAP vẫn là vấn đề sức khoẻ toàn cầu, gây ra gánh nặng đáng kể về bệnh tật và kinh tế (1). Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) đã được chứng minh là một yếu tố nguy cơ quan trọng của CAP. Bệnh nhân COPD không những có tỷ lệ mắc CAP cao hơn (2) mà một số nghiên cứu còn cho thấy nguy cơ mắc viêm phổi nặng hơn bệnh nhân không mắc COPD (3). Vậy ảnh hưởng qua lại giữa CAP và COPD như thế nào, đặc điểm lâm sàng, tiên lượng và xử trí có điểm gì cần quan tâm? Trong bài báo này, chúng tôi cố gắng khái quát những điểm chính, hy vọng sẽ được sự đón đọc và phản hồi của quý đồng nghiệp. 2. ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG COPD đã được chứng minh làm tăng nguy cơ viêm phổi, tuy nhiên các dữ liệu hiện tại còn hạn chế trong việc xác định kiểu hình nào dễ mắc viêm phổi nhất. Nghiên cứu TORCH đã chỉ ra các yếu tố nguy cơ của viêm phổi bao gồm: tuổi ≥55, FEV 1 <50%, nhiều đợt cấp COPD trong năm trước, điểm MRC thấp, BMI <25 (4). Trong một nghiên cứu theo dõi dọc của Mỹ, nguy cơ CAP phải nhập viện liên quan đến tuổi cao, giới nam, tình trạng bệnh đồng mắc, tình trạng hút thuốc, và suy giảm chức năng phổi (5). Những bệnh nhân có chức năng phổi bình thường có tỷ lệ viêm phổi phải nhập viện thấp nhất (1.5 trường hợp trên 1000 người-năm) và những bệnh nhân COPD tắc nghẽn thông khí giai đoạn III, IV có tỷ lệ viêm phổi phải nhập viện cao nhất (22,7 trường hợp trên 1000 người-năm). Sau khi hiệu chỉnh các yếu tố nhiễu, độ nặng COPD là một yếu tố độc lập liên quan đến tăng nguy cơ CAP. Trong một phân tích năm 2008 từ dữ liệu UK National COPD, cho thấy có 16% bệnh nhân COPD có viêm phổi (6). Những bệnh nhân này có xu hướng tuổi cao hơn (trung bình 75 so với 72 tuổi), tình trạng tàn phế nhiều hơn, BMI cao hơn, nhiều bệnh đồng mắc hơn, albumin máu thấp hơn, ure máu cao hơn và ít liên quan đến tình trạng hút thuốc hiện tại. Trong một nghiên cứu COPD theo dõi dọc khác chỉ ra rằng các yếu tố sau: tuổi >65, bệnh đồng mắc bao gồm suy tim (OR 1.4 CI 1.2-1.6) và sa sút trí tuệ (OR =2,6, CI 1.9-3.0 ), tiền sử đợt cấp nặng phải nhập viện (OR=2.7, CI 2.3-3.2), và COPD nặng cần liệu pháp oxy tại nhà (OR=1,4, CI 1.1-1.6) là những yếu tố nguy cơ của CAP (7). Một nghiên cứu năm 2014 cho thấy các yếu tố nguy cơ của CAP bao gồm mức độ tắc nghẽn nặng FEV 1 /FVC <46%, BMI<19 (HR =7.8, 95% CI 4.7- 13.0) (8). Bệnh nhân COPD nhập viện vì CAP thường được điều trị kháng sinh trước đó và thường suy hô hấp nặng hơn, viêm phổi nặng hơn những bệnh nhân không mắc COPD. Bệnh VIÊM PHỔI CỘNG ĐỒNG TRÊN BỆNH NHÂN COPD: LÂM SÀNG, TIÊN LƯỢNG VÀ XỬ TRÍ BS. NGUYỄN MINH SANG Khoa Hô hấp, Bệnh viện Hữu Nghị Việt – Xô Hướng dẫn tHực HànH 36 Hô hấp số 15/2018 có xu hướng liên quan đến một số bệnh đồng mắc như bệnh tim mạch, đái tháo đường, sử dụng corticosteroid đường toàn thân hoặc tại chỗ, toan máu, nghiện rượu. Sử dụng corticosteroid hít làm tăng nguy cơ CAP ở bệnh nhân COPD (9). Corticosteroid hít gây ảnh hưởng đến khả năng điều hoà miễn dịch đường thở ở bệnh nhân COPD, làm tăng số lượng vi khuẩn đặc biệt trong trường hợp sử dụng ICS liều cao. Những yếu tố này có thể giải thích sự tăng nguy cơ viêm phổi ở COPD. Về triệu chứng lâm sàng, một nghiên cứu gần đây cho thấy CAP trên bệnh nhân COPD có những biểu hiện lâm sàng thường gặp như: ho, khạc đờm, đờm mủ, khó thở, nhịp tim nhanh và suy hô hấp. Ngược lại những bệnh nhân CAP đơn thuần thường có các triệu chứng như: sốt, tiêu chảy, đau đầu, viêm khớp (10). Chỉ số mức độ nặng của viêm phổi PSI (pneumonia severity index) và thang điểm CURB-65 thường được dùng để đánh giá bệnh nhân CAP. Nghiên cứu của Crisafulli và cs cho thấy có tăng các chỉ số PSI ở bệnh nhân CAP đồng mắc COPD (nhóm CAP+ COPD là 100,4 ± 28,7 so với 86 ± 37,4 ở nhóm CAP đơn thuần, p<0,001), tuy nhiên không thấy sự khác biệt về thang điểm CURB-65 giữa 2 nhóm (11). Một số đặc điểm X-quang ngực như thâm nhiễm, tràn dịch màng phổi, mủ màng phổi thường gặp hơn ở CAP đơn thuần so với CAP trên bệnh nhân COPD (10). Những bệnh nhân CAP và COPD có nồng độ CRP, procalcitonin, TNF alpha cao hơn bệnh nhân trong đợt cấp COPD, bên cạnh đó nồng độ TNF alpha, IL-1, IL-6 nhỏ hơn có ý nghĩa so sánh với bệnh nhân CAP đơn thuần (11). 3. CĂN NGUYÊN VI SINH Chẩn đoán căn nguyên vi sinh ở bệnh nhân CAP đồng mắc COPD khó khăn vì có sự ký sinh mạn tính của một số vi khuẩn ở đường thở dưới dễ gây ra nhầm lẫn khi nhận định kết quả. Ví dụ, P.aeruginosa có thể phân lập được từ bệnh phẩm đường hô hấp dưới trong 4% đến 15% bệnh nhân COPD ở trạng thái ổn định, không viêm phổi (12). Vì vậy điều trị dựa theo kết quả cấy đờm có thể là một điều trị quá mức trong trường hợp này. COPD và hút thuốc lá cũng làm tăng hiệu giá huyết thanh với Ch.pneumoniae, làm cho chẩn đoán huyết thanh đối với nhiễm trùng này trở nên khó nhận định kết quả. Sự ký sinh không gây ra triệu chứng lâm sàng của những vi khuẩn có khả năng gây bệnh trên bệnh nhân COPD rất có thể là nguyên nhân làm tăng nguy cơ CAP, nhất là khi mất sự cân bằng giữa vật chủ và vi khuẩn. Có 2 khả năng mà một vi khuẩn đồn trú (microbiome) có khả năng trở nên gây bệnh, một là vi khuẩn biến đổi (đột biến) tạo ra những clone có khả năng gây bệnh, hai là sức đề kháng của vật chủ giảm (13). S.pneumoniae vẫn là nguyên nhân phổ biến nhất gây viêm phổi cộng đồng ở bệnh nhân COPD. Tuy nhiên, bởi vì có sự thay đổi hệ vi khuẩn đồn trú ở bệnh nhân COPD mà một số căn nguyên như H.influenzae, M. catarrhalis và P. aeruginosa có thể đóng vai trò quan trọng trong cơ chế bệnh sinh của CAP ở bệnh nhân COPD. CAP do vi khuẩn Gram âm và P. aeruginosa là không thường gặp nhưng đây là các nhân gây bệnh khó điều trị. COPD kết hợp với giãn phế quản và tiền sử dùng kháng sinh nhiều lần có thể là nguyên nhân làm tăng viêm phổi do P.aeruginosa (14). Bên cạnh đó viêm phổi do P.aeruginosa trên bệnh nhân COPD liên quan đến tuổi (84,9 vs 76,3, p<0.01), tình trạng nặng của COPD, và tình trạng dùng thuốc corticosteroid đường uống thường xuyên (14). Nghiên cứu của Liapikou A và cs cho thấy Legionella spp. ít phổ biến hơn ở những bệnh nhân COPD mắc CAP có dùng ICS thường xuyên. Trong khi đó P. aeruginosa lại có tần suất mắc cao hơn ở đối tượng này (15). Hướng dẫn tHực HànH 37 Hô hấp số 15/2018 Trên bệnh nhân CAP/COPD, căn nguyên vi sinh có thể xác định được với tỷ lệ 21,3% đến 78%. Những bệnh nhân sử dụng ICS liều cao (>1000 microgram beclomethasone hoặc tương đương/ngày) có tỷ lệ cấy đờm dương tính cao hơn những bệnh nhân dùng ICS liều thấp (50% vs 18,2%, p=0,02) (16). Tỷ lệ cấy đờm dương tính cũng cao hơn ở những bệnh nhân có FEV 1 <50% so với những có FEV 1 ≥50% (42,2 so với 14,3%, p=0.04). Bên cạnh đó tỷ lệ dương tính với virus cũng cao hơn ở nhóm sử dụng ICS so với nhóm không dùng (26,3 so với 5,8%, p=0,02). Căn nguyên vi sinh phổ biến của CAP ở bệnh nhân COPD bao gồm: S.pneumoniae, sau đó là H.influenzae, C.pneumoniae, M. pneumoniae, L.pneumophila, và cuối cùng là virus. P.aeruginosa là căn nguyên nguy hiểm nhưng như đã nói ở trên, thật may mắn lại không phải là nguyên nhân hàng đầu. Nhìn chung căn nguyên CAP do vi khuẩn là chủ yếu nhưng vai trò của virus đặc biệt là virus đồng nhiễm với vi khuẩn trong cơ chế bệnh sinh của CAP trên bệnh nhân COPD cần được chú ý. Một nghiên cứu của Lieberman D và cs năm 2002 cho thấy tỷ lệ cao có ý nghĩa căn nguyên virus trong nhóm đợt cấp COPD viêm phổi so với nhóm đợt cấp COPD không có viêm phổi, trong đó có vai trò của parainfluenza virus type 2 và adenovirus (17). Một số căn nguyên nhóm vi sinh không điển hình cũng đóng vai trò nhất định. Nghiên cứu của Torres A và cs cho thấy C.pneumoniae thường gặp hơn ở bệnh nhân COPD tắc nghẽn nặng. Một số căn nguyên hiếm gặp như Nocardia asteroides và Aspergillus fumigatus có thể gặp nếu bệnh nhân điều trị ICS hoặc corticosteroid đường uống (18). Tỷ lệ cấy máu dương tính trong khoảng từ 2,4% đến 15%. Căn nguyên thường gặp nhất là S.pneumoniae, H.influenzae, S.viridans, S.aureus, E.coli, S.mitis, K.pneumoniae. Theo Calbo E và cs viêm phổi do S.pneumoniae ở bệnh nhân COPD ít gây shock và tử vong hơn so với nhóm không mắc COPD (19). Trong một nghiên cứu khác, người ta thấy tỷ lệ mắc COPD cao hơn ở nhóm bệnh nhân viêm phổi do nguyên nhân S.pneumoniae so với viêm phổi do các nguyên nhân khác (20). Bệnh nhân COPD thường phải điều trị kháng sinh nhất là trong các đợt cấp nhiễm trùng. Vì vậy người ta lo ngại rằng viêm phổi trên bệnh nhân COPD có thể có tỷ lệ vi khuẩn kháng thuốc cao hơn. Tuy nhiên, cho đến nay các bằng chứng ủng hộ giả thuyết trên chưa có nhiều. Một số nghiên cứu cho thấy ở bệnh nhân CAP, mắc COPD không có mối tương quan thuận với tỷ lệ S.pneumoniae kháng thuốc (21). 4. TIÊN LƯỢNG Viêm phổi và COPD: COPD được coi là yếu tố tiên lượng CAP, tuy nhiên vẫn chưa được đưa vào trong các bảng điểm về tiên lượng. Có lẽ lý do là vì người ta chưa tìm thấy khác biệt có ý nghĩa về tiên lượng của CAP đồng mắc COPD so với CAP đơn thuần. Một số nghiên cứu cho thấy CAP trên bệnh nhân COPD có tỷ lệ tử vong cao hơn, nhưng một số nghiên cứu lại không cho thấy rõ sự khác biệt này (22,23). Những người ủng hộ giả thuyết COPD làm tăng tỷ lệ tử vong của CAP cho rằng do vai trò của vi khuẩn kháng thuốc và giảm dự trữ phổi trong bệnh lý COPD (24). Những người ủng hộ giả thuyết COPD làm giảm tỷ lệ tử vong do CAP cho rằng sự tiếp xúc của người bệnh với các chủng vi khuẩn trước đó (do COPD) có thể giúp cơ thể có các cơ chế miễn dịch bảo vệ, ICS và corticosteroid toàn thân (vốn thường được dùng cho bệnh nhân COPD) có tác dụng giảm đáp ứng viêm trong những trường hợp nhiễm trùng nặng từ đó giảm tử vong do nhiễm trùng máu (25). Viêm phổi trên bệnh nhân COPD và đợt cấp COPD: Một nghiên cứu tiến cứu, theo dõi dọc 1 năm sau nhập viện của bệnh nhân COPD viêm phổi và đợt cấp COPD cho thấy không có sự khác biệt về tỷ lệ tử vong và tái nhập viện giữa 2 nhóm (26). Thời gian nằm viện, nhu cầu thông khí nhân tạo không Hướng dẫn tHực HànH 38 Hô hấp số 15/2018 xâm nhập có thể nhiều hơn ở nhóm bệnh nhân đợt cấp COPD có viêm phổi so sánh với đợt cấp COPD đơn thuần, tuy nhiên về tỷ lệ tử vong trong bệnh viện thì không có sự khác biệt (27). Một số yếu tố khác: Bệnh đồng mắc, trong đó bệnh lý tim mạch, đã được chứng minh là một yếu tố độc lập làm gia tăng tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân viêm phổi/COPD (28). Ngoài ra các yếu tố như: giới nam, tuổi cao, nhiễm P.aeruginosa, S.aureus, có thông khí nhân tạo được coi là những yếu tố tiên lượng tử vong độc lập (23). Vai trò của corticosteroid trong tiên lượng bệnh còn nhiều tranh cãi. Một số nghiên cứu cho thấy bệnh nhân COPD điều trị ICS sau khi bị viêm phổi có giảm tỷ lệ tử vong (29), nhưng một số nghiên cứu khác lại không cho thấy mối liên hệ này (30). Một số nghiên cứu lại cho thấy sử dụng ICS làm tăng mức độ nặng của bệnh, tăng tỷ lệ vi khuẩn kháng thuốc (31). 5. ĐIỀU TRỊ Hiện nay hầu hết các guideline về CAP và COPD đều không có một mục riêng đề cập đến điều trị CAP trên nhóm bệnh nhân COPD. Năm 2007 Hội bệnh nhiễm trùng Hoa Kỳ (IDSA) và Hội Lồng ngực Hoa Kỳ (ATS) đã đưa ra một đồng thuận về CAP, và xếp CAP đồng mắc COPD vào nhóm nguy cơ cao (14). Với bệnh nhân ngoại trú, điều trị kháng sinh fluoroquinolone hô hấp hoặc beta-lactam + macrolide được khuyến cáo. Với những bệnh nhân phải nhập viện nhưng không phải ở khoa hồi sức cấp cứu thì sự lựa chọn như trên cũng được khuyến cáo. Ngoài ra một số phác đồ như: beta-lactam đơn trị liệu, beta-lactam kết hợp với fluroquinolone, beta-lactam/beta-lactamase inhibitors cũng được một số tác giả khuyến cáo sử dụng. Với những bệnh nhân nhập viện tại khoa cấp cứu thì liệu pháp kháng sinh phối hợp được khuyến cáo, có thể dùng beta-lactam phối hợp với quinolone hoặc marcloride. Những khuyến cáo trên có thể được áp dụng với số đông bệnh nhân. Tuy nhiên trong thực hành lâm sàng, bác sỹ phải luôn cần chú ý phát hiện nguy cơ vi khuẩn kháng thuốc. Những bệnh nhân COPD được kê đơn điều trị kháng sinh hoặc phải nhập viên trong vòng 3 tháng trở lại được xếp vào nhóm bệnh nhân viêm phổi có nguy cơ kháng thuốc. COPD giai đoạn nặng được coi là yếu tố nguy cơ viêm phổi do P.aeruginosa, khi đó liệu pháp kháng sinh theo kinh nghiệm có tác dụng lên vi khuẩn này được khuyến cáo. Phác đồ cụ thể: beta-lactam nhạy cảm với P.aeruginosa (ticarcillin, piperacillin, ceftazidime, cefepime, aztreonam) phối hợp với ciprofloxacin hoặc levofloxacin liều 750mg/ ngày hoặc với aminoglycoside. Phác đồ thay thế aminoglycoside phối hợp với ciprofloxacin hoặc levofloxacin liều 750mg/ngày (14). Viêm phổi do trực khuẩn Gram âm có tỷ lệ tử vong cao nếu không được chẩn đoán và điều trị phù hợp. Một phác đồ có tác dụng với P.aeruginosa cần được cân nhắc chỉ định sớm, đặc biệt là trên những bệnh nhân nhập viện vào ICU hoặc có nguy cơ kháng thuốc cao. KẾT LUẬN Bệnh nhân COPD có nguy cơ cao mắc CAP so với quần thể dân số chung. Về tiên lượng của CAP ở bệnh nhân COPD còn nhiều tranh cãi, chưa thống nhất. Đặc điểm lâm sàng CAP/ COPD thường cao tuổi, ưu thế nam, có nhiều bệnh đồng mắc hơn, triệu chứng lâm sàng nặng hơn (bao gồm suy hô hấp, mức độ nặng của viêm phổi, shock nhiễm khuẩn). Căn nguyên thường gặp nhất là S.pneumoniae. P.aeruginosa, nhất là trên bệnh nhân có giãn phế quản kèm theo, mới nhập viện hoặc dùng kháng sinh trong vòng 90 ngày, thường xuyên điều trị bằng corticosteroid toàn thân, nhập viên điều trị tai ICU. Nếu không có nguy cơ nhiễm P. Aeruginosa, điều trị kháng sinh với phác đồ beta-lactam kết hợp với macrolide được khuyến cáo. Hướng dẫn tHực HànH 39 Hô hấp số 15/2018 1. Welte, T., A. Torres, and D. Nathwani. Clinical and economic burden of community-acquired pneumonia among adults in Europe. Thorax, 2012. 67(1): p. 71-79. 2. Braeken, D.C., et al. Risk of community-acquired pneumonia in chronic obstructive pulmonary disease stratified by smoking status: a population-based cohort study in the United Kingdom. Int J Chron Obstruct Pulmon Dis, 2017. 12: p. 2425-2432. 3. Restrepo, M.I., et al. COPD is associated with increased mortality in patients with community- acquired pneumonia. European Respiratory Journal, 2006. 28(2): p. 346-351. 4. Crim, C., et al. Pneumonia risk in COPD patients receiving inhaled corticosteroids alone or in combination: TORCH study results. Eur Respir J, 2009. 34(3): p. 641-7. 5. Mannino, D.M., K.J. Davis, and V.A. Kiri. Chronic obstructive pulmonary disease and hospitalizations for pneumonia in a US cohort. Respir Med, 2009. 103(2): p. 224-9. 6. Myint, P.K., et al. K. National COPD Resources and Outcomes Project 2008: patients with chronic obstructive pulmonary disease exacerbations who present with radiological pneumonia have worse outcome compared to those with non-pneumonic chronic obstructive pulmonary disease exacerbations. Respiration, 2011. 82(4): p. 320-7. 7. Mullerova, H., et al. The natural history of community-acquired pneumonia in COPD patients: a population database analysis. Respir Med, 2012. 106(8): p. 1124-33. 8. Di Santostefano, R.L., et al. Risk of pneumonia with inhaled corticosteroid/long-acting beta2 agonist therapy in chronic obstructive pulmonary disease: a cluster analysis. Int J Chron Obstruct Pulmon Dis, 2014. 9: p. 457-68. 9. Kew, K.M. and A. Seniukovich. Inhaled steroids and risk of pneumonia for chronic obstructive pulmonary disease. Cochrane Database Syst Rev, 2014(3): p. Cd010115. 10. Gomez-Junyent, J., et al. Clinical features, etiology and outcomes of community-acquired pneumonia in patients with chronic obstructive pulmonary disease. PLoS One, 2014. 9(8): p. e105854. 11. Crisafulli, E., et al. Systemic inflammatory pattern of patients with community-acquired pneumonia with and without COPD. Chest, 2013. 143(4): p. 1009-1017. 12. Murphy, T.F., et al. Pseudomonas aeruginosa in chronic obstructive pulmonary disease. Am J Respir Crit Care Med, 2008. 177(8): p. 853-60. 13. Matkovic, Z. and M. Miravitlles. Chronic bronchial infection in COPD. Is there an infective phenotype? Respir Med, 2013. 107(1): p. 10-22. 14. Mandell, L.A., et al. Infectious Diseases Society of America/American Thoracic Society consensus guidelines on the management of community-acquired pneumonia in adults. Clin Infect Dis, 2007. 44 Suppl 2: p. S27-72. 15. Liapikou, A., et al. Severity and outcomes of hospitalised community-acquired pneumonia in COPD patients. Eur Respir J, 2012. 39(4): p. 855-61. 16. Ko, F.W., et al. A one-year prospective study of infectious etiology in patients hospitalized with acute exacerbations of COPD and concomitant pneumonia. Respir Med, 2008. 102(8): p. 1109- 16. 17. Lieberman, D. et al., Pneumonic vs nonpneumonic acute exacerbations of COPD. Chest, 2002. 122(4): p. 1264-70. 18. Torres, A., et al. Community-acquired pneumonia in chronic obstructive pulmonary disease: a Spanish multicenter study. Am J Respir Crit Care Med, 1996. 154(5): p. 1456-61. 19. Calbo, E., et al. Bacteraemic pneumococcal pneumonia in COPD patients: better outcomes than expected. Eur J Clin Microbiol Infect Dis, 2009. 28(8): p. 971-6. 20. Marrie, T.J. Bacteraemic pneumococcal pneumonia: a continuously evolving disease. J Infect, 1992. 24(3): p. 247-55. 21. Perez-Trallero, E., et al. Antimicrobial susceptibilities and serotypes of Streptococcus pneumoniae isolates from elderly patients with pneumonia and acute exacerbation of chronic obstructive pulmonary disease. Antimicrob Agents Chemother, 2011. 55(6): p. 2729-34. 22. Loke, Y.K., et al. Chronic obstructive pulmonary disease and mortality from pneumonia: meta- analysis. Int J Clin Pract, 2013. 67(5): p. 477-87. Tài liệu tham khảo Hướng dẫn tHực HànH 40 Hô hấp số 15/2018 23. de Miguel-Diez, J., et al. Impact of COPD on outcomes in hospitalized patients with community- acquired pneumonia: Analysis of the Spanish national hospital discharge database (2004- 2013). Eur J Intern Med, 2017. 43: p. 69-76. 24. Sethi, S. Infection as a comorbidity of COPD. Eur Respir J, 2010. 35(6): p. 1209-15. 25. Garcia-Vidal, C., et al. Effects of systemic steroids in patients with severe community-acquired pneumonia. Eur Respir J, 2007. 30(5): p. 951-6. 26. Huerta, A., et al. Pneumonic and nonpneumonic exacerbations of COPD: inflammatory response and clinical characteristics. Chest, 2013. 144(4): p. 1134-1142. 27. Andreassen, S.L., et al. Impact of pneumonia on hospitalizations due to acute exacerbations of COPD. Clin Respir J, 2014. 8(1): p. 93-9. 28. Merino-Sanchez, M., et al. [Prognosis in patients with pneumonia and chronic obstructive pulmonary disease]. Arch Bronconeumol, 2005. 41(11): p. 607-11. 29. Chen, D., et al. Observational study of inhaled corticosteroids on outcomes for COPD patients with pneumonia. Am J Respir Crit Care Med, 2011. 184(3): p. 312-6. 30. Singanayagam, A., et al. Impact of inhaled corticosteroid use on outcome in COPD patients admitted with pneumonia. Eur Respir J, 2011. 38(1): p. 36-41. 31. Sibila, O., et al. Effects of inhaled corticosteroids on pneumonia severity and antimicrobial resistance. Respir Care, 2013. 58(9): p. 1489- 94.
File đính kèm:
viem_phoi_cong_dong_tren_benh_nhan_copd_lam_sang_tien_luong.pdf

