Viêm khớp mạn tính trong bệnh behcet ở trẻ em có thể nhầm lẫn với viêm khớp tự phát thiếu niên: Báo cáo ca bệnh

Bệnh Behçet là một bệnh viêm mạch hệ thống hiếm gặp, chưa rõ nguyên nhân. Biểu hiện đặc trưng của bệnh

là các đợt loét miệng, loét sinh dục, tổn thương mắt và da tái diễn. Biểu hiện viêm khớp mạn tính trong bệnh Behçet

không hay gặp và có thể nhầm lẫn với viêm khớp tự phát thiếu niên ở trẻ em. Bệnh đáp ứng với điều trị bằng các

thuốc ức chế miễn dịch. Chúng tôi báo cáo một trường hợp bệnh nhi nữ 7 tuổi biểu hiện viêm khớp mạn tính và

loét miệng tái diễn nhiều đợt trong 2 năm. Ban đầu, bệnh nhân được chẩn đoán viêm khớp tự phát thiếu niên và

đáp ứng một phần với điều trị bằng corticosteroid nhưng bệnh vẫn tái phát. Với các biểu hiện kết hợp khác ngoài

khớp, ở da và sinh dục, chúng tôi nghĩ tới bệnh nhân bị bệnh Behçet và điều trị bằng colchicine và methotrexate,

bệnh nhân đáp ứng tốt sau 6 tháng điều trị. Kết luận: Trên các bệnh nhân viêm khớp mạn tính, các bác sĩ

chuyên khoa cần thăm khám kỹ để phát hiện các dấu hiệu khác ngoài tổn thương khớp giúp chẩn đoán xác định

cũng như chẩn đoán phân biệt, đặc biệt với các bệnh hiếm gặp như Behçet, từ đó có chỉ định điều trị phù hợp

pdf 7 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Viêm khớp mạn tính trong bệnh behcet ở trẻ em có thể nhầm lẫn với viêm khớp tự phát thiếu niên: Báo cáo ca bệnh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Viêm khớp mạn tính trong bệnh behcet ở trẻ em có thể nhầm lẫn với viêm khớp tự phát thiếu niên: Báo cáo ca bệnh

Viêm khớp mạn tính trong bệnh behcet ở trẻ em có thể nhầm lẫn với viêm khớp tự phát thiếu niên: Báo cáo ca bệnh
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
74 TCNCYH 131 (7) - 2020
Tác giả liên hệ: Mai Thành Công, 
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 24/02/2020
Ngày được chấp nhận: 10/07/2020
VIÊM KHỚP MẠN TÍNH TRONG BỆNH BEHCET Ở TRẺ EM CÓ 
THỂ NHẦM LẪN VỚI VIÊM KHỚP TỰ PHÁT THIẾU NIÊN:
 BÁO CÁO CA BỆNH
Mai Thành Công¹, , Nguyễn Thị Diệu Thúy¹, Lương Thị Liên², 
Nguyễn Ngọc Quỳnh Lê²
1Trường Đại học Y Hà Nội, 
2Bệnh viện Nhi Trung ương
Bệnh Behçet là một bệnh viêm mạch hệ thống hiếm gặp, chưa rõ nguyên nhân. Biểu hiện đặc trưng của bệnh 
là các đợt loét miệng, loét sinh dục, tổn thương mắt và da tái diễn. Biểu hiện viêm khớp mạn tính trong bệnh Behçet 
không hay gặp và có thể nhầm lẫn với viêm khớp tự phát thiếu niên ở trẻ em. Bệnh đáp ứng với điều trị bằng các 
thuốc ức chế miễn dịch. Chúng tôi báo cáo một trường hợp bệnh nhi nữ 7 tuổi biểu hiện viêm khớp mạn tính và 
loét miệng tái diễn nhiều đợt trong 2 năm. Ban đầu, bệnh nhân được chẩn đoán viêm khớp tự phát thiếu niên và 
đáp ứng một phần với điều trị bằng corticosteroid nhưng bệnh vẫn tái phát. Với các biểu hiện kết hợp khác ngoài 
khớp, ở da và sinh dục, chúng tôi nghĩ tới bệnh nhân bị bệnh Behçet và điều trị bằng colchicine và methotrexate, 
bệnh nhân đáp ứng tốt sau 6 tháng điều trị. Kết luận: Trên các bệnh nhân viêm khớp mạn tính, các bác sĩ 
chuyên khoa cần thăm khám kỹ để phát hiện các dấu hiệu khác ngoài tổn thương khớp giúp chẩn đoán xác định 
cũng như chẩn đoán phân biệt, đặc biệt với các bệnh hiếm gặp như Behçet, từ đó có chỉ định điều trị phù hợp.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh Behçet (Behçet's disease - BD) là một 
bệnh viêm mạch hệ thống, ảnh hưởng đến cả 
động mạch và tĩnh mạch với mọi kích cỡ khác 
nhau trong cơ thể. Bệnh đặc trưng bởi các biểu 
hiện lâm sàng tái diễn và tự giới hạn ở nhiều cơ 
quan, như loét miệng, loét sinh dục, tổn thương 
da, mắt, tiêu hóa, thần kinh và viêm khớp.1,2
Các báo cáo về BD trên thế giới cho thấy 
bệnh không phổ biến. Tuy nhiên, bệnh thường 
được mô tả tại các nước nằm dọc con đường 
tơ lụa cổ đại (tuyến đường giao thương kéo 
dài từ Nhật Bản và Trung Quốc đến biển Địa 
Trung Hải). Điều này cũng giải thích tại sao BD 
còn có tên gọi khác là “bệnh con đường tơ lụa” 
(Silk Road Disease). Tỉ lệ hiện mắc cao nhất ở 
Thổ Nhĩ Kì (421/100 000 dân), sau đó đến Iran, 
Israel, Trung Quốc và Nhật Bản; hiếm gặp ở 
các nước châu Mĩ và châu Phi.1–4
BD thường khởi phát ở độ tuổi trung bình từ 
20 đến 40 tuổi, hiếm gặp ở trẻ em và người trên 
55 tuổi. Tuổi khởi phát sớm tiên lượng mức độ 
nặng và nguy cơ tử vong của bệnh.1,5,6
Cho đến nay, nguyên nhân gây ra BD chưa 
được biết chính xác. Một số giả thuyết cho rằng 
yếu tố môi trường có thể kích hoạt phản ứng 
tự viêm trên cá thể mang gen nhạy cảm bệnh 
(HLA - B51).1,2,5 Phản ứng này ảnh hưởng đến 
tế bào nội mạc mạch máu dẫn đến viêm và 
huyết khối, với bằng chứng của sự thâm nhiễm 
bạch cầu trung tính tại các tổn thương và tăng 
nồng độ các cytokine trong huyết thanh (TNF, 
IL - 1β, IL - 8).1,7
Chẩn đoán BD chỉ dựa vào triệu chứng 
lâm sàng, theo tiêu chuẩn ICBD (International 
Từ khóa: Bệnh Behçet, viêm khớp trong bệnh Behçet, trẻ em.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
75TCNCYH 131 (7) - 2020
Criteria for Behçet’s Disease) với các biểu hiện: 
(1) loét miệng, (2) loét sinh dục, (3) tổn thương 
mắt, (4) tổn thương da, (5) biểu hiện thần kinh 
(6) biểu hiện mạch và (7) test pathergy dương 
tính (phản ứng quá mức, không đặc hiệu của 
da với những chấn thương nhỏ, được đánh giá 
bằng cách quan sát thấy nốt sẩn hoặc mụn mủ 
vô khuẩn sau 24 – 48 giờ tại vị trí tiêm trong 
da).8
Tổn thương khớp gặp trong một nửa các 
trường hợp BD nhưng không phải là tiêu chuẩn 
để chẩn đoán bệnh. Bệnh nhân thường biểu 
hiện đau khớp hoặc viêm một hoặc ít khớp, 
không gây bào mòn hay biến dạng khớp; diễn 
biễn từng đợt, mỗi đợt thường kéo dài vài tuần. 
Viêm khớp mạn tính hiếm gặp trong BD, có thể 
gây nhầm lẫn với các bệnh lí khớp khác nếu 
không chú ý đến các biểu hiện lâm sàng khác 
của BD.5,9
Chúng tôi báo cáo một trường hợp bệnh 
nhi mắc bệnh Behçet có biểu hiện viêm khớp 
mạn tính, được chẩn đoán ban đầu là viêm 
khớp tự phát thiếu niên, thất bại với điều trị 
corticosteroid. Việc chẩn đoán đúng bệnh và sử 
dụng thuốc thích hợp theo tổn thương đã giúp 
bệnh nhân có đáp ứng điều trị khá tốt.
II. BÁO CÁO CA BỆNH 
Bệnh nhân nữ 7 tuổi được đưa đến khám 
chuyên khoa khớp tại bệnh viện Nhi Trung 
ương với biểu hiện sưng khớp gối trái khoảng 
hai năm nay, có vài đợt sưng khớp khủy tay 
trái, khớp không đau và không cứng khớp buổi 
sáng. Ngoài ra, bệnh nhân có biểu hiện đau 
loét miệng nhiều đợt trong ba năm nay; không 
sốt, không phát ban, không rụng tóc. Trước đó, 
bệnh nhân đã đến khám tại một bệnh viện khác 
tại Hà Nội và được chẩn đoán viêm khớp tự 
phát thiếu niên thể ít khớp. Sau 6 tháng điều trị 
corticosteroid, các triệu chứng cải thiện nhưng 
vẫn tái phát, gia đình bỏ điều trị 1 năm và cho 
trẻ dùng thuốc nam 6 tháng gần đây.
Trên lâm sàng, trẻ có thể trạng gầy (cân 
nặng 19 kg). Khớp gối trái sưng, sờ thấy nóng 
nhẹ nhưng không đỏ, không đau; các khớp 
khác bình thường. Niêm mạc miệng và lưỡi có 
nhiều ổ loét kích thước lớn nhất khoảng 1 cm, 
đáy trắng, viền hồng nhạt, gây đau. Bệnh nhân 
có nhiều hạch dưới cằm và góc hàm hai bên, 
kích thước hạch lớn nhất khoảng 1,5 – 2 cm, di 
động, không đau. Ngoài ra, chúng tôi còn phát 
hiện thấy hồng ban nút ở cẳng chân, sẹo loét 
cũ vùng sinh dục (mẹ bệnh nhân nói rằng trước 
đó trẻ có nhiều đợt loét, đau vùng sinh dục) và 
test pathergy dương tính (tại vị trí lấy máu xét 
nghiệm và vị trí chọc dịch khớp sau khoảng 24 
giờ xuất hiện một mụn mủ nổi gồ trên da) (hình 
1).
Siêu âm khớp gối trái phát hiện dịch khớp 
dày 29 mm. X - quang khớp gối trái không có 
hình ảnh bất thường. Bệnh nhân được chọc hút 
dịch khớp làm xét nghiệm: PCR lao âm tính, 
nuôi cấy dịch không có vi khuẩn gây bệnh.
Số lượng các tế bào máu ngoại vi nằm 
trong giới hạn bình thường: số lượng bạch 
cầu 8 G/L, số lượng tiểu cầu 369 G/L, nồng độ 
hemoglobin 110 g/L. Tốc độ máu lắng và nồng 
độ protein C phản ứng (CRP) huyết thanh tăng 
(lần lượt là 53 mm/h và 28,3 mg/L). Các xét 
nghiệm thăm dò khác như nồng độ bổ thể C3, 
C4 bình thường; kháng thể kháng nhân, kháng 
thể kháng dsDNA và yếu tố dạng thấp (RF) đều 
âm tính. Bệnh nhân được gửi đến chuyên khoa 
mắt khám nhưng không có tổn thương.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
76 TCNCYH 131 (7) - 2020
Hình 1. Biểu hiện lâm sàng của bệnh nhân Behçet trước điều trị
A – Loét miệng nhiều vị trí, B – Viêm khớp gối trái, C - Sẹo loét cũ vùng sinh dục, D - Hồng ban 
nút ở cẳng chân, E – Test pathergy dương tính (mụn nước trên da xuất hiện sau 24 giờ lấy máu 
xét nghiệm và chọc dịch khớp tại vị trí tương ứng). 
 Bệnh nhân được chẩn đoán xác định là bệnh Behçet theo tiêu chuẩn ICBD.⁸ Chúng tôi bắt đầu 
điều trị bằng prednisolone liều 0,8 mg/kg/ngày và methotrexate liều 15 mg/m2/tuần đường uống. 
Triệu chứng hồng ban nút mất nhanh sau điều trị, các triệu chứng loét miệng và viêm khớp cải thiện 
nhưng vẫn tái phát trong 2 tháng đầu. Vì vậy, chúng tôi kết hợp thêm colchicine liều 0,25 mg/kg/ngày. 
Trong 4 tháng tiếp theo, bệnh nhân không còn loét miệng và sưng hạch góc hàm, biểu hiện viêm 
khớp cùng các xét nghiệm chỉ số viêm cải thiện dần (hình 2, hình 3), (bảng 1). 
Hình 2. Biểu hiện loét miệng theo thời gian điều trị.
 A – Trước điều trị; B – Sau điều trị 2 tháng; C – Sau điều trị 3 tháng; D – Sau điều trị 6 tháng
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
77TCNCYH 131 (7) - 2020
Hình 3. Biểu hiện viêm khớp gối bên trái theo thời gian điều trị
 A – Trước điều trị; B – Sau điều trị 2 tháng; C – Sau điều trị 3 tháng; D – Sau điều trị 6 tháng.
Bảng 1. Thay đổi một số chỉ số xét nghiệm trong quá trình điều trị
Thời gian điều 
trị
Số lượng bạch 
cầu
(4 – 10 G/L)
Tốc độ máu lắng
(< 20 mm/h)
Nồng độ CRP 
huyết thanh
(< 6 mg/L)
Số lượng dịch 
khớp gối trên 
siêu âm (mm)
Trước điều trị 8,00 53 28,37 29
Sau 1 tháng 12,36 52 19,59
Sau 2 tháng 12,38 35 39,42 10
Sau 3 tháng 12,28 36 19,73 15
Sau 4 tháng 11,05 27 25,31 13
Sau 5 tháng 10,43 23 9,67 2,6
Sau 6 tháng 8,86 23 8,36 4
Trẻ tăng 2 kg trong 6 tháng kể từ khi bắt đầu điều trị bệnh. Chúng tôi giảm dần liều prednisolone 
xuống 0,2 mg/kg/ngày, giữ liều methotrexate và colchicine như trước.
III. BÀN LUẬN
Bệnh Behçet là một bệnh hiếm, đặc biệt ở trẻ em (3,3% các trường hợp BD dưới 16 tuổi).⁶ Cùng 
với các biểu hiện chính hay gặp như loét miệng, loét sinh dục, tổn thương mắt và da; biểu hiện tại 
khớp cũng gặp trong khoảng một nửa số ca bệnh (45 – 60%).2,4,5 Một số nghiên cứu cho thấy biểu 
hiện khớp ở trẻ em mắc BD cao hơn ở người lớn (73,68%).⁹
Các biểu hiện tại khớp gặp trong BD bao gồm: đau khớp, viêm một khớp hoặc viêm nhiều khớp; 
viêm khớp có thể là triệu chứng đầu tiên trong 18,23% trường hợp. Bệnh cảnh lâm sàng hay gặp 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
78 TCNCYH 131 (7) - 2020
viêm một khớp. Trường hợp viêm ít khớp hoặc 
viêm đa khớp thường có tính chất đối xứng, 
nhưng cũng có thể không. Vị trí khớp thường 
gặp nhất là khớp gối, sau đó đến khớp cổ tay, 
khớp cổ chân và khớp khủy.⁹
Đặc trưng của viêm khớp trong BD là viêm 
không phá hủy khớp và nặng lên từng đợt, sau 
đó tự thuyên giảm (mỗi đợt thường không quá 
2 – 3 tuần). Tuy nhiên, một số tác giả đã báo 
cáo tình trạng biến dạng khớp khuỷu tay hoặc 
cổ chân và viêm khớp mạn tính kéo dài.5,9
Viêm khớp trong BD thường biểu hiện bằng 
khớp sưng và nóng nhưng không có biểu hiện 
đỏ da tại khớp. Một số bệnh nhân có dấu hiệu 
cứng khớp buổi sáng.⁹
Trên mô bệnh học, có tình trạng xâm nhập 
bạch cầu đa nhân trung tính và đơn nhân vào 
bao hoạt dịch khớp, kèm theo tổn thương các 
mạch máu nhỏ với sự hình thành huyết khối.1,2
Trong đợt viêm khớp tiến triển, tốc độ máu 
lắng và nồng độ CRP tăng. Kháng thể kháng 
nhân, anti - CCP (anti - cyclic citrulline peptide), 
và RF âm tính ở bệnh nhân Behçet. Chụp X - 
quang khớp viêm trong BD thường không thấy 
hình ảnh tổn thương.4,5,9
Bệnh nhân của chúng tôi viêm một khớp 
gối với biểu hiện khớp sưng và nóng, không 
đỏ, không đau, không cứng khớp buổi sáng; 
siêu âm thấy tràn dịch khớp; tốc độ máu lắng 
và CRP tăng. Trước đó, bệnh nhân cũng có 
vài đợt sưng khớp khủy tay bên trái, tự thuyên 
giảm. Điều đặc biệt ở bệnh nhân chúng tôi là 
biểu hiện viêm khớp gối kéo dài trong hai năm, 
mặc dù cũng có những đợt nặng lên khiến bệnh 
nhân đến khám chuyên khoa khớp.
Cho đến nay, chưa có một xét nghiệm đặc 
hiệu nào giúp chẩn đoán xác định BD. Tiêu 
chuẩn chẩn đoán ICBD - 2014 chỉ dựa vào các 
biểu hiện lâm sàng: loét miệng (2 điểm), loét 
sinh dục (2 điểm), tổn thương mắt (2 điểm), 
tổn thương da (1 điểm), biểu hiện thần kinh (1 
điểm), biểu hiện bệnh mạch máu lớn (1 điểm), 
test pathergy dương tính (1 điểm). Phân loại 
là BD khi tổng điểm ≥ 4 điểm.8 Bệnh nhân của 
chúng tôi được chẩn đoán BD với 6 điểm (loét 
miệng, sẹo loét sinh dục, hồng ban nút và test 
pathergy dương tính). 
Chẩn đoán BD ở trẻ em là một thách thức vì 
thời gian từ khi xuất hiện triệu chứng đầu tiên 
cho đến khi có đủ các biểu hiện lâm sàng đáp 
ứng tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh khá dài, trung 
bình khoảng 3 năm.⁶ Mặc dù loét miệng là triệu 
chứng đầu tiên hay gặp nhất,⁴ bệnh nhân có 
thể đến khám chuyên khoa khớp vì các biểu 
hiện tại khớp. Và trong trường hợp viêm khớp 
xuất hiện trước các triệu chứng khác, rất khó 
để phân biệt BD với các bệnh lí khác có biểu 
hiện tại khớp như viêm khớp tự phát thiếu niên, 
lupus ban đỏ hệ thống, viêm khớp phản ứng, 
viêm mạch, sarcoid hoặc bệnh ruột viêm. Bệnh 
nhân của chúng tôi mặc dù biểu hiện loét miệng 
trước khi xuất hiện viêm khớp 1 năm nhưng với 
tình trạng viêm khớp mạn tính kéo dài, ban đầu 
bệnh nhân được chẩn đoán là viêm khớp tự 
phát thiếu niên – một bệnh viêm khớp mạn tính 
hay gặp nhất ở tuổi thiếu niên, khởi phát trước 
16 tuổi, viêm ít nhất một khớp kéo dài trên 6 
tuần và phải loại trừ các nguyên nhân khác có 
khả năng gây ra viêm khớp.
Mục tiêu chính trong điều trị BD là làm giảm 
các triệu chứng, giảm tần suất tái phát và phòng 
tránh các biến chứng đe dọa tính mạng. Lựa 
chọn điều trị phụ thuộc vào biểu hiện lâm sàng 
và mức độ nặng của cơ quan tổn thương, với 
sự ưu tiên cho tổn thương mắt, tiêu hóa, thần 
kinh trung ương và tim mạch. Một loạt các liệu 
pháp thuốc chống viêm và ức chế miễn dịch 
được đề xuất cho điều trị BD. Tuy nhiên, việc 
sử dụng thuốc kéo dài liên quan đến những tác 
dụng không mong muốn và chưa có phác đồ 
nào được chứng minh là có hiệu quả tuyệt đối. 
Trong trường hợp đáp ứng điều trị kém, cần 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
79TCNCYH 131 (7) - 2020
phải kết hợp cả corticosteroid và thuốc ức chế 
miễn dịch và/hoặc thuốc sinh học.1,2
Năm 2008, Liên đoàn chống Thấp khớp 
châu Âu (EULAR: European League Against 
Rheumatism) đưa ra hướng dẫn đầu tiên về 
quản lí bệnh Behçet và đã cập nhật thành 10 
khuyến cáo theo từng cơ quan tổn thương vào 
năm 2018. Theo đó, colchicine là lựa chọn đầu 
tiên cho các trường hợp viêm khớp cấp tính, 
có tác dụng phòng tránh các đợt viêm khớp. 
Glucocorticoid tiêm nội khớp có thể sử dụng 
cho viêm một khớp cấp tính nhưng thường 
không cần thiết vì các đợt viêm khớp thường 
tự thuyên giảm và hết triệu chứng sau 2 – 3 
tuần. Azathioprine, kháng thể đơn dòng ức chế 
TNF - α (tumour necrosis factor alpha) hoặc 
interferon - α được cân nhắc cho các trường 
hợp viêm khớp mạn tính hoặc tái diễn. Một số 
tác giả lại duy trì corticosteroid liều thấp cho 
bệnh nhân viêm khớp không kiểm soát được 
bằng colchicine.10 Methotrexate cũng có thể 
được sử dụng cho tổn thương khớp và da niêm 
mạc ở bệnh nhân Behçet.¹
IV. KẾT LUẬN
Bệnh Behçet là bệnh viêm mạch gây tổn 
thương ở nhiều cơ quan nên bệnh nhân có thể 
đến khám tại nhiều chuyên khoa khác nhau. 
Biểu hiện viêm khớp mạn tính hiếm gặp ở bệnh 
nhân Behçet nhưng lại là lí do mà bệnh nhân 
đến khám chuyên khoa khớp và có thể bị nhầm 
lẫn với các nguyên nhân gây viêm khớp mạn 
tính khác. Do đó, các bác sĩ chuyên khoa khớp 
cần chú ý phát hiện các biểu hiện lâm sàng kèm 
theo viêm khớp để chẩn đoán đúng bệnh và lựa 
chọn điều trị phù hợp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Zeidan MJ, Saadoun D, Garrido M, 
Klatzmann D, Six A, Cacoub P. Behçet’s disease 
physiopathology: a contemporary review. Auto 
- Immun Highlights. 2016;7(1). doi:10.1007/
s13317 - 016 - 0074 - 1.
2. Cho SB, Cho S, Bang D. New Insights in 
the Clinical Understanding of Behçet’s Disease. 
Yonsei Med J. 2012;53(1):35 - 42. doi:10.3349/
ymj.2012.53.1.35.
3. Keino H, Okada AA. Behçet’s disease: 
global epidemiology of an Old Silk Road 
disease. Br J Ophthalmol. 2007;91(12):1573 - 
1574. doi:10.1136/bjo.2007.124875.
4. Mohammad A, Mandl T, Sturfelt G, 
Segelmark M. Incidence, prevalence and clinical 
characteristics of Behcet’s disease in southern 
Sweden. Rheumatol Oxf Engl. 2013;52(2):304 - 
310. doi:10.1093/rheumatology/kes249.
5. Saadoun D, Wechsler B. Behçet’s 
disease. Orphanet J Rare Dis. 2012;7:20. 
doi:10.1186/1750 - 1172 - 7 - 20.
6. Atmaca L, Boyvat A, Yalçındağ FN, 
Atmaca - Sonmez P, Gurler A. Behçet 
disease in children. Ocul Immunol Inflamm. 
2011;19(2):103 - 107. doi:10.3109/09273948.2
011.555592.
7. Verity DH, Wallace GR, Vaughan 
RW, Stanford MR. Behçet’s disease: from 
Hippocrates to the third millennium. Br 
J Ophthalmol. 2003;87(9):1175 - 1183. 
doi:10.1136/bjo.87.9.1175.
8. International Team for the Revision of the 
International Criteria for Behçet’s Disease (ITR 
- ICBD). The International Criteria for Behçet’s 
Disease (ICBD): a collaborative study of 27 
countries on the sensitivity and specificity of 
the new criteria. J Eur Acad Dermatol Venereol 
JEADV. 2014;28(3):338 - 347. doi:10.1111/
jdv.12107.
9. Benamour S, Zeroual B, Alaoui FZ. Joint 
manifestations in Behçet’s disease. A review of 
340 cases. Rev Rhum Engl Ed. 1998;65(5):299 
- 307.
10. Hatemi G, Christensen R, Bang D, et al. 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
80 TCNCYH 131 (7) - 2020
Summary
CHRONIC ARTHRITIS IN THE CHILDHOOD BEHÇET’S 
DISEASE MIMICKING JUVENILE IDIOPATHIC ARTHRITIS: A 
CASE REPORT
Behçet's disease (BD) is a rare systemic vasculitis disorder of unknown etiology. The disease 
is characterized by recurrent attacks of oral aphthous ulcers, genital sores, ocular lesions, 
and skin manifestations. Chronic arthritis in childhood BD is uncommon and can mimic juvenile 
idiopathic arthritis. The principal treatment of BD is immunosuppressant medications. We report 
a case of a 7 years old girl with chronic arthritis and recurrent aphthous stomatitis for 2 years. 
She was initially diagnosed with juvenile idiopathic arthritis and responded partially to corticosteroid, 
but still relapsed. Besides chronic arthritis, she suffered from skin and genital manifestations, 
that suggested she could be diagnosed with BD. She responded well with colchicine and 
methotrexate therapy and the symptoms improve after 6 months of treatment. Conclusion: In 
patients with chronic arthritis, physisians should perform a detailed physical examination to 
detect supplemental signs or symtoms other than joints damage for both definitive and differential 
diagnosis, especially for rare cases such as Behçet's disease to provide appropriate treatment.
Keywords: Behçet's disease, arthritis in Behçet's disease, children.
2018 update of the EULAR recommendations 
for the management of Behçet’s syndrome. Ann 
Rheum Dis. 2018;77(6):808 - 818. doi:10.1136/
annrheumdis - 2018 - 213225.

File đính kèm:

  • pdfviem_khop_man_tinh_trong_benh_behcet_o_tre_em_co_the_nham_la.pdf