Vị trí răng cửa trong tương quan vị trí hai hàm theo chiều trước sau ở người trưởng thành

TÓM TẮT

Mục tiêu: Đưa ra một số đặc điểm về sự thay đổi vị trí răng cửa theo chiều trước sau trong tương quan hai

hàm.

Phương pháp nghiên cứu: Đo đạc trên phim sọ nghiêng của 100 người trưởng thành có tương quan răng

cửa bình thường và tương quan răng cối hạng I Angle.

Kết quả: Khi tương quan hai hàm (ANB) thay đổi 1,00° theo chiều trước sau từ hạng II xương đến hạng

III xương thì tương ứng với răng cửa trên nghiêng hơn về phía môi 0,6° và nhô ra trước 0,5mm, răng cửa dưới

nghiêng về phía lưỡi 0,93° và độ nhô giảm 0,5mm, mặt phẳng khớp cắn bớt dốc hơn 0,55° so với nền sọ. Ở nam

giới, sự thay đổi ở răng cửa thể hiện rõ hơn so với ở nữ.

Kết luận: Kết quả nghiên cứu này gợi ý việc điều trị ngụy trang bằng cách thay đổi góc độ răng cửa nhằm

tạo cảm giác giảm độ chênh lệch tương quan hai hàm trong một số trường hợp không cần thiết phải điều trị phẫu

thuật.

pdf 9 trang phuongnguyen 7460
Bạn đang xem tài liệu "Vị trí răng cửa trong tương quan vị trí hai hàm theo chiều trước sau ở người trưởng thành", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vị trí răng cửa trong tương quan vị trí hai hàm theo chiều trước sau ở người trưởng thành

Vị trí răng cửa trong tương quan vị trí hai hàm theo chiều trước sau ở người trưởng thành
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 35
VỊ TRÍ RĂNG CỬA TRONG TƯƠNG QUAN VỊ TRÍ HAI HÀM 
THEO CHIỀU TRƯỚC SAU Ở NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH 
Nguyễn Trần Như An*, Đống Khắc Thẩm** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đưa ra một số đặc điểm về sự thay đổi vị trí răng cửa theo chiều trước sau trong tương quan hai 
hàm. 
Phương pháp nghiên cứu: Đo đạc trên phim sọ nghiêng của 100 người trưởng thành có tương quan răng 
cửa bình thường và tương quan răng cối hạng I Angle. 
Kết quả: Khi tương quan hai hàm (ANB) thay đổi 1,00° theo chiều trước sau từ hạng II xương đến hạng 
III xương thì tương ứng với răng cửa trên nghiêng hơn về phía môi 0,6° và nhô ra trước 0,5mm, răng cửa dưới 
nghiêng về phía lưỡi 0,93° và độ nhô giảm 0,5mm, mặt phẳng khớp cắn bớt dốc hơn 0,55° so với nền sọ. Ở nam 
giới, sự thay đổi ở răng cửa thể hiện rõ hơn so với ở nữ. 
Kết luận: Kết quả nghiên cứu này gợi ý việc điều trị ngụy trang bằng cách thay đổi góc độ răng cửa nhằm 
tạo cảm giác giảm độ chênh lệch tương quan hai hàm trong một số trường hợp không cần thiết phải điều trị phẫu 
thuật. 
Từ khoá: Chiều trước sau, nhô ra trước. 
ABSTRACT 
ANALYSIS OF INCISOR POSITION VARIATIONS IN ANTEROPOSTERIOR JAW RELATIONSHIP IN 
VIETNAMESE ADULTS 
Nguyen Tran Nhu An, Dong Khac Tham 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 2 - 2014: 35 - 43 
 Objectives: The aim of this study was to evaluate dental compensation with variations in anteroposterior 
jaw relationships. 
Methods: 100 adults having normal incisor relationship and a class I molar relation were selected. 
Measurements taken from their cephalometric films were analyzed. 
Results: A 1.00° (ANB) shift in anteroposterior jaw relationships from skeletal Class II to Class III was 
found to correspond to the upper incisors inclining more labial by 0.60° and being 0.5mm more protrusive, the 
lower incisors inclining more lingual by 0.93° and being less protrusive and the cant of occlusal plane flattening 
by 0.55°. 
Conclusion: The results of this study suggested the potential use of masking treatments based on changes of 
the incisors angulation to decrease the anteroposterior jaw discrepancies in cases without indications for surgery. 
Key words: Anteroposterior, protrusive. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Mục tiêu của chỉnh hình răng mặt là thiết lập 
sự tương quan tốt nhất và ổn định của khớp cắn 
với hình dạng thẩm mỹ chấp nhận được của 
khuôn mặt. 
Khi điều trị chỉnh hình đối với người trưởng 
* BS RHM 1997-2003 Khoa RHM-Đại học Y Dược TP.HCM 
** Bộ môn CHRM-Khoa RHM-Đại học Y Dược TP.HCM 
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Trần Như An ĐT: 0983266602 Email: an.nguyentran@gmail.com 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 36
thành, việc quyết định có hay không điều trị 
phẫu thuật rất quan trọng cho sự thành công của 
kết quả điều trị. Điều trị không phẫu thuật chỉ 
hiệu quả ở trường hợp có ít sai biệt giữa hai hàm, 
trong khi đó điều trị phẫu thuật cần thiết đối với 
những trường hợp chênh lệch hai hàm quá 
nhiều. Tuy nhiên thật khó quyết định trong 
những trường hợp nằm ở ranh giới giữa có nên 
điều trị phẫu thuật hay không phẫu thuật. 
Trong tiến trình tăng trưởng sọ mặt, một 
khớp cắn bình thường có thể đạt được do sự bù 
trừ răng. Sự thay đổi vị trí của răng cửa hàm trên 
và hàm dưới dẫn đến một tương quan răng cửa 
bình thường và góc của mặt phẳng khớp cắn 
cũng góp phần điều chỉnh tương quan theo 
chiều trước sau giữa cung răng hàm trên và hàm 
dưới. Một đánh giá về sự thích ứng của xương ổ 
răng đối với tương quan hai hàm sẽ cung cấp 
thêm thông tin trong việc xác định vị trí thích 
hợp của răng cửa trong điều trị chỉnh hình. Góc 
độ của răng cửa trong tương quan với xương 
hàm và xương nền sọ ngoài việc tạo một vẻ đẹp 
nhìn nghiêng hài hòa, cân đối, còn đóng vai trò 
quan trọng trong việc duy trì sự cân bằng tương 
quan răng cửa sau điều trị. Nhưng quan niệm 
“một khuôn mặt đẹp" và “một khớp cắn hoàn chỉnh” 
khác nhau ở mỗi dân tộc. Chính vì thế, chúng tôi 
thực hiện đề tài này nhằm khẳng định một số 
đặc điểm cần chú ý về vị trí của răng cửa trong 
điều trị chỉnh hình đối với người Việt Nam để có 
thể đạt được kết quả điều trị như mong muốn. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Cắt ngang mô tả, chọn mẫu thuận tiện. 
Đối tượng nghiên cứu 
Mẫu gồm 100 phim sọ nghiêng của sinh viên 
Đại Học Y Dược Tp.HCM (50 nam và 50 nữ) tuổi 
từ 20 đến 27, được chụp phim tại bộ môn tia X 
khoa Răng Hàm Mặt - Đại Học Y Dược Tp.HCM 
với tiêu chuẩn lựa chọn như sau: 
Có cha mẹ, ông bà nội ngoại là người Việt 
Nam, dân tộc Kinh. 
Khớp cắn hạng I Angle. 
Độ cắn phủ 2,45 ± 1,2 mm (từ 1 - 4- mm). 
Độ cắn chìa 2,98 ± 1,15 mm (từ 2 - 4 mm)(2), 
không có sự xoay nhiều của răng cửa. 
Không thiếu răng vĩnh viễn (không kể răng 
khôn). 
Không có triệu chứng lâm sàng của loạn 
năng khớp thái dương hàm hay bệnh nha chu. 
Không có những dị tật bẩm sinh và dị hình. 
Không mắc bệnh ảnh hưởng đến sự phát 
triển cơ thể và đầu, răng mặt. 
Có nét mặt nhìn nghiêng chấp nhận được, 
môi trên môi dưới khép kín ở trạng thái bình 
thường. 
Chưa từng điều trị về chỉnh hình răng mặt 
hay giải phẩu thẩm mỹ trước đó. 
Phương pháp nghiên cứu 
Vẽ nét và đo đạc trên phim sọ nghiêng 
Tất cả các phim đều do một người vẽ nét trên 
giấy vẽ chuyên dùng trong chỉnh hình răng mặt 
với viết chì đường kính nhỏ 0,3 mm. Các phim 
có 2 nét thì vẽ 2 đường sau đó lấy đường giữa. 
Việc đo đạc các góc, các khoảng cách được thực 
hiện bởi một người duy nhất. Đối với các kích 
thước, dùng thước kẹp điện tử (Electronic 
Digital Caliper) có độ nhạy 0,01 mm. Đối với các 
số đo góc, dùng thước đo góc chuyên dụng (hiệu 
Ormco- Sybron) trong chỉnh hình răng mặt. 10 
phim được chọn ngẫu nhiên để vẽ và đo lại với 
phương pháp như trên. Sai số chấp nhận được 
trong phân tích đo sọ do 2 lần đo được đánh giá 
là 0,5 mm cho các số đo về khoảng cách và 0,5° 
cho các số đo về góc. 
Phân tích đo sọ tương quan 2 hàm theo chiều 
trước sau 
Số đo về góc: 4 số đo (°). 
Góc ANB: đánh giá tương quan giữa xương 
hàm trên và xương hàm đưới. 
Góc mặt phẳng A-B: đánh giá tương quan 
giữa xương hàm trên và xương hàm dưới so với 
mặt phẳng mặt (đi qua Nasion và Pogonion). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 37
Góc lồi của mặt: thể hiện độ nhô phần hàm 
trên của mặt so với toàn bộ mặt nhìn nghiêng. 
Góc được tạo thành bởi 2 đường: một từ Na và 
một từ Pg, cả hai gặp nhau ở A. Nếu điểm A ở 
phía sau mặt phẳng mặt, góc tạo thành là góc âm 
và nếu ở phía trước là góc dương. 
Góc SN-AB. 
Số đo về khoảng cách: 1 số đo (mm). 
Số đo Wits: khoảng cách AO-BO đánh giá sự 
chênh lệch của xương nền, là khoảng cách giữa 2 
điểm chiếu vuông góc của điểm A và B trên mặt 
phẳng khớp cắn. Khoảng cách này dương khi A 
ở phía trước B và âm khi A ở sau B. 
Phân tích đo sọ tương quan răng với xương 
hàm và nền sọ 
Số đo về góc: 8 số đo (°) 
SN-I SN-i SN-OP 
FH-I FH-i FH-OP 
SN-OP FH-OP 
Hình 1: 8 số đo về độ nghiêng răng cửa 
1.SN-I, 2.FH-I, 3.PP-I, 4.SN-i, 5.FH-i, 6.MP-i, 
7.SN-OP, 8.FH-OP. 
Số đo về khoảng cách: 2 số đo (mm). 
Độ nhô răng cửa trên so với xương hàm trên 
(I-NA): khoảng cách từ điểm nhô nhất của mặt 
ngoài răng cửa trên đến đường NA. 
Độ nhô răng cửa dưới so với xương hàm 
dưới (i-NB): khoảng cách từ điểm nhô nhất của 
mặt ngoài răng cửa dưới đến đường NB. 
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 
Sự bù trừ độ nghiêng răng cửa trong tương quan 2 hàm 
Mức độ kết hợp giữa các số đo về xương và 
răng được đánh giá bởi phân tích tương quan. 
Theo bảng 1, kết quả nghiên cứu cho thấy tất cả 
các số đo về răng đều tương quan có ý nghĩa 
thống kê với các số đo về xương nhưng hệ số 
tương quan thay đổi (trừ một vài ngoại lệ). 
Trong đó, đối với răng cửa trên, chỉ có tương 
quan giữa SN-AB với độ nghiêng răng cửa trên 
là có ý nghĩa thống kê và hệ số tương quan cao 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 38
nhất là 0,546 (p<0,01) được tìm thấy giữa SN-AB 
và SN-I. Đối với răng cửa dưới, hầu hết tương 
quan của các cặp số đo đều có ý nghĩa thống kê 
ngoại trừ tương quan giữa số đo về xương SN-
AB với độ nghiêng răng cửa dưới MP-I và hệ số 
tương quan giữa SN-AB và SN-i là cao nhất 0,661 
(p<0,01). Đối với mặt phẳng khớp cắn, đa số 
tương quan là không có ý nghĩa thống kê ngoại 
trừ tương quan giữa SN-OP (với các số đo về 
tương quan hai hàm như góc ANB, góc lồi mặt, 
góc SN-AB) và tương quan giữa SN-AB và FH-
OP; hệ số tương quan cao nhất là -0,644 (p<0,01) 
được tìm thấy giữa SN-AB và SN-OP. 
 Như vậy, sự kết hợp nhiều nhất của độ 
nghiêng răng cửa và độ dốc của mặt phẳng khớp 
cắn, so với nền sọ và xương hàm, trong tương 
quan vị trí hai hàm là giữa các cặp số đo SN-AB 
và SN-I, SN-AB và SN-i, SN-AB và SN-OP. Từ 
mối liên hệ với các số đo về răng SN-I, SN-i, SN-
OP, trong các số đo đánh giá tương quan giữa 
hai hàm, ta thấy SN-AB có tương quan nhiều với 
sự thay đổi độ nghiêng của răng cửa trên cũng 
như răng cửa dưới và với sự thay đổi độ dốc của 
mặt phẳng khớp cắn so với nền sọ. 
Xét tính ổn định của mặt phẳng tham chiếu 
với những giá trị tương quan, thì SN-AB (số đo 
tương quan xương) và SN-I, SN-i, SN-OP (số đo 
về răng) là những tham số thích hợp nhất mô tả 
sự thay đổi vị trí răng cửa theo tương quan hai 
hàm. 
Biểu đồ phân phối và đường thẳng hồi quy 
của SN-AB đối với SN-I, SN-i, SN-OP ở hình 1 
cho thấy khi góc SN-AB tăng lên 1,0° thì góc SN-I 
tăng thêm 0,68°, góc SN-i tăng thêm 0,93° và góc 
SN-OP giảm đi 0,55° so với mặt phẳng tham 
chiếu SN. 
Điều này biểu thị rằng khi tựơng quan 2 hàm 
thay đổi từ hạng II đến hạng III xương (SN-AB 
tăng) thì răng cửa trên nghiêng về phía môi hơn 
(SN-I tăng), còn răng cửa dưới nghiêng về phía 
lưỡi hơn (SN-i tăng) và mặt phẳng khớp cắn bớt 
dốc hơn (SN-OP giảm) so với nền sọ (Hình 2). 
Như thế, sự sai biệt giữa hai hàm sẽ được che lấp 
bởi sự thay đổi độ nghiêng răng cửa và sự thay 
đổi góc độ của mặt phẳng khớp cắn, giúp vẻ mặt 
nhìn nghiêng hài hòa hơn hoặc có khuôn mặt 
chấp nhận được. 
Trong so sánh với hệ số tương quan giữa 3 
cặp số đo, SN-i và SN-OP cho thấy có sự tương 
quan nhiều với SN-AB hơn là SN-I, nghĩa là độ 
nghiêng răng cửa dưới và độ dốc mặt phẳng 
khớp cắn thì liên quan nhiều đến tương quan vị 
trí hai hàm theo chiều trước sau. Hơn nữa, về 
phần độ nghiêng răng cửa, SN-i chứng tỏ sự 
thay đổi trong khoảng rộng hơn của SN-I đối với 
mỗi độ thay đổi của SN-AB. Độ nghiêng răng 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 39
cửa trên thay đổi 0,5° thì răng cửa dưới nghiêng 
thêm 1°. 
Hình 3: Sự thay đổi độ nghiêng răng cửa và mặt 
phẳng khớp cắm theo góc SN-AB. 
Như vậy, độ nghiêng răng cửa dưới đóng 
vai trò quan trọng hơn so với răng cửa trên trong 
việc đạt tương quan răng cửa bình thường. Tóm 
lại, các cặp số đo thật sự đánh giá sự thay đổi vị 
trí răng cửa theo tương quan hai hàm trong 
nghiên cứu cũng giống như trong nghiên cứu 
của tác giả Mitsui Miyuki(3), với độ nghiêng của 
răng cửa dưới và độ dốc của mặt phẳng khớp 
cắn đóng vai trò quan trọng hơn răng cửa trên 
trong việc làm giảm sự sai biệt theo chiều trước 
sau của hai hàm, song song đó, tương quan răng 
cửa bình thường đạt được phần lớn do sự điều 
chỉnh độ nghiêng của răng cửa dưới. 
Sự thay đổi độ nhô của răng cửa trong 
tương quan 2 hàm 
Bên cạnh đó, ngoài độ nghiêng của răng cửa, 
độ nhô của chúng cũng chịu sự ảnh hưởng của 
tương quan hai hàm. Theo Bảng 1, ta thấy độ 
nhô răng cửa trên có tương quan cao nhất với 
góc mặt phẳng A-B, độ nhô răng cửa dưới có 
tương quan cao nhất với góc lồi mặt. Khi đó, góc 
mặt phẳng A-B tăng tức là tương quan xương 
thay đổi đến hạng III thì độ nhô răng cửa trên 
tăng so với xương hàm trên và góc lồi mặt tăng 
tức là xương hàm trên nhô ra trước hơn so với 
xương hàm dưới (hạng II xương) thì độ nhô răng 
cửa dưới tăng so với xương hàm dưới. 
Tuy nhiên, nó không đánh giá được mối 
tương quan giữa độ nhô của cả hai răng cửa trên 
và dưới trong tương quan vị trí hai hàm. Mối 
liên quan hệ trên chỉ đơn thuần cho thấy khi vị 
trí hai thay đổi đến hạng III xương (góc mặt 
phẳng A-B tăng) thì răng cửa trên nhô ra trước 
hơn. Ngược lại, khi tương quan hai hàm ở hạng 
II xương (góc lồi mặt tăng) thì răng cửa dưới lại 
nhô ra trước. Bởi vì giá trị tương quan cao của 
góc ANB (số đo tương quan hai hàm) đối với 
tham số về độ nhô của cả răng cửa trên và dưới 
(I-NA, i-NB) nên chúng tôi chọn tương quan 
giữa góc ANB với I-NA và i-NB để khảo sát sự 
thay đổi độ nhô răng cửa trong tương quan vị trí 
hai hàm theo chiều trước sau. 
Kết quả ở Bảng 2 cho thấy khi góc ANB tăng 
nghĩa là vị trí hai hàm thay đổi từ hạng III đến 
hạng II xương thì răng cửa trên lùi về sau hơn so 
với xương hàm trên và răng cửa dưới nhô ra 
trước hơn so với xương hàm dưới (Hình 3). 
Khi góc ANB tăng thêm 1° (vị trí hàm trên 
thay đổi theo hướng nhô ra trước hơn so với 
xương hàm dưới) thì răng cửa trên giảm độ nhô 
ra trước 0,5 mm, trong khi đó răng cửa dưới tăng 
độ nhô 0,5 mm về phía trước. 
Tóm lại, khi tương quan hai hàm thay đổi 
theo chiều trước sau từ hạng III đến hạng II 
xương thì có sự thay đổi không chỉ về độ 
nghiêng răng cửa mà cả về độ nhô của chúng. 
Như thế sự thay đổi tự nhiên sẽ giúp giảm bớt 
độ chênh lệch giữa hai hàm. Điều này gợi ý rằng 
trong một số trường hợp chúng ta có thể điều trị 
ngụy trang, che lấp sự sai biệt giữa hai hàm bằng 
cách điều trị chỉnh hình thay đổi vị trí răng cửa 
theo quy luật bù trừ của tự nhiên. Dựa vào hình 
4 chúng ta thấy tùy từng cá nhân cụ thể mà có 
thể định hướng điều trị đến mức định sẵn và 
điều trị thay đổi các góc độ của răng cửa sao cho 
phù hợp với những số liệu sẵn có trên các mốc 
đã định. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 40
Theo nghiên cứu của Bibby(1) thì sự bù trừ 
răng cửa thể hiện qua sự thay đổi độ nghiêng 
của chúng theo từng loại hạng xương. Răng cửa 
dưới đều nhô ra trước trong cả hạng I và hạng II 
xương, trong khi đó ở hạng III xương thì chúng 
nghiêng về phía lưỡi. Đối với độ nghiêng của 
răng cửa trên thì có sự khác biệt có ý nghĩa giữa 
các hạng xương, răng cửa trên thì nghiêng về 
phía khẩu cái hơn trong hạng II xương và nhô ra 
trước ở hạng III xương. Sự sai biệt hai hàm được 
điều chỉnh bằng sự lùi răng cửa dưới ở hàm 
dưới nhô ra trước trong hạng III xương cùng lúc 
đó răng cửa trên nhô ra trước. Sự bù trừ này 
cũng thấy trong hạng II xựơng nhưng với cách 
khác, răng cửa trên lùi sau khi hàm trên nhô 
trước và răng cửa dưới chỉ hơi nghiêng nhẹ ra 
trước so với trường hợp hạng I xương. Khi 
tương quan răng cửa được thiết lập trong hạng II 
xương thì phần lớn sự bù trừ chịu ảnh hưởng 
của răng cửa trên. 
So sánh sự thay đổi độ nghiêng và độ nhô 
răng cửa giữa nam và nữ 
Ở nam, cả 3 số đo về răng SN-I, SN-i, SN-OP 
đều có tương quan nhiều với SN-AB, R>0,6 
(p<0,01). Trong đó, SN-OP liên quan nhiều nhất 
với tương quan hai hàm, R= -0,722 (p<0,01). Khi 
tương quan hai hàm thay đổi từ hạng II đến 
hạng III xương (SN-AB tăng) thì răng cửa trên 
nghiêng về phía môi, răng cửa dưới nghiêng về 
phía lưỡi và mặt phẳng khớp cắn bớt dốc hơn 
giúp giảm sự sai biệt theo chiều trước sau giữa vị 
trí hai hàm và để có thể đạt được tương quan 
răng cửa bình thường. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 41
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 42
Về độ nghiên răng cửa 
Đối với nữ, trong số các cặp số đo thì chỉ có 
SN-i là có hệ số tương quan với SN-AB cao R>0,6 
(p<0,01). Độ nghiêng răng cửa trên và độ dốc của 
mặt phẳng khớp cắn có hệ số tương quan với 
những số đo về xương tương đối thấp mặc dù hệ 
số tương quan SN-I/SN-AB và SN-OP/SN-AB 
nhiều hơn hẳn các số đo khác nhưng R<0,5. Điều 
này cho thấy độ nghiêng răng cửa trên và độ dốc 
của mặt phẳng khớp cắn ít có ảnh hưởng đến sự 
bù trừ chênh lệch giữa hai hàm, trong khi độ 
nghiêng của răng cửa dưới thì có ảnh hưởng. Có 
thể nói ở nữ, răng cửa trên thay đổi không rõ 
trong tương quan vị trí của hai hàm theo chiều 
trước sau mà chỉ có sự thay đổi độ nghiêng răng 
cửa dưới là có ý nghĩa góp phần điều chỉnh sự 
chênh lệch của hai hàm. 
Như vậy, mức độ liên quan giữa độ nghiêng 
răng cửa, độ dốc của mặt phẳng khớp cắn với 
tương quan hai hàm ở nam thì mạnh mẽ hơn 
nhiều so với ở nữ. Sự thay đổi răng cửa ở nam 
thể hiện rõ và có ý nghĩa trong việc giảm bớt sự 
mất cân đối vị trí trước sau của hai hàm cũng 
như đạt được một tương quan răng cửa bình 
thường hơn so với nữ. 
Bảng 4: So sánh hệ số tương quan giữa nữ Việt Nam 
và nữ Nhật Bản. 
 Nữ VN Nữ NB 
SN-I/SN-AB 0,331* 0,531** 
SN-i/SN-AB 0,604** 0,760** 
SN-OP/SN-A -0,456** -0,770** 
*p<0,05; **p<0,01. 
VN: Việt Nam; NB: Nhật Bản. 
Độ nghiêng của răng cửa dưới liên quan 
nhiều nhất đến tương quan hai hàm ở cả 2 
nghiên cứu. Nghĩa là răng cửa dưới đóng vai trò 
quan trọng hơn trong việc giảm sai biệt giữa hai 
hàm theo chiều trước sau so với răng cửa trên. 
Tuy nhiên, ở dân số nữ Việt Nam, sự thay đổi độ 
nghiêng răng cửa trên và độ dốc mặt phẳng 
khớp cắn tác động đến sự bù trừ sự bất hài hòa 
hai hàm rất ít, ngược lại với nghiên cứu của 
Mitsui Miyuki(3), hệ số tương quan cả hai đều 
cao. Theo phương trình đường thẳng hồi quy 
của 3 cặp số đo SN-I và SN-AB, SN-i và SN-AB, 
SN-OP và SN-AB, ở dân số nữ Nhật Bản, khi 
tương quan hai hàm thay đổi từ hạng II đến 
hạng III xương (SN-AB tăng) thì răng cửa trên 
nghiêng về phía môi 0,58°, răng cửa dưới 
nghiêng về phía lưỡi 1,12°, và mặt phẳng khớp 
cắn bớt dốc hơn 0,56° so với nền sọ. 
Tóm lại, chỉ có sự thay đổi độ nghiêng răng 
cửa dưới góp phần điều chỉnh sự chênh lệch hai 
hàm ở nữ Việt Nam, khác với nữ Nhật trong 
nghiên cứu của Mitsui Miyuki là có sự thay đổi 
vị trí răng cửa trên và dưới trong mối quan hệ 
giữa hai hàm theo chiều trước sau. 
Về độ nhô răng cửa 
Nhìn chung, sự kết hợp giữa độ nhô răng 
cửa với tương quan vị trí hai hàm có phần giống 
nhau giữa nam và nữ. Độ nhô răng cửa trên có 
hệ số tương quan cao nhất với góc mặt phẳng A-
B ở nam với R=0,831 (p<0,01) và ở nữ với R=0,556 
(p<0,01). Như vậy, khi góc mp A-B tăng (từ hạng 
II đến hạng III xương) thì độ nhô răng cửa trên 
tăng. Độ nhô răng cửa dưới có hệ số tương quan 
cao nhất với góc lồi mặt ở nam với R=0,513 
(p<0,01) và ở nữ với R=0,670 (p<0,01). Như vậy, 
khi góc lồi mặt tăng (từ hạng III đến hạng II 
xương) thì độ nhô răng cửa dưới tăng. 
Tuy vậy, có sự khác biệt về sự thay đổi độ 
nhô răng cửa giữa nam và nữ. Ở nam, số đo 
tương quan hai hàm ANB có tương quan với độ 
nhô của cả răng cửa trên và dưới trong khi ở nữ 
thì không. Khi góc ANB tăng, tức hai hàm thay 
đổi từ hạng III đến hạng II xương, thì răng cửa 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 43
trên lùi về sau hơn, còn răng cửa dưới nhô ra 
trước hơn. 
KẾT LUẬN 
Nghiên cứu khảo sát trên phim sọ nghiêng 
của 100 bệnh nhân có tương quan răng cửa bình 
thường và tương quan răng cối hạng I Angle để 
đánh giá mức độ thay đổi vị trí răng cửa. Số đo 
sọ thích hợp nhất để mô tả sự thay đổi độ 
nghiêng răng cửa là SN-AB (số đo về xương) và 
SN-I, SN-i, SN-OP (số đo về răng). Mặt khác, cặp 
số đo ANB và I-NA, ANB và i- NB được sử dụng 
để đánh giá sự thay đổi về độ nhô răng cửa 
trong vị trí hai hàm. Với những số đo này, cứ 
thay đổi 1,0° theo chiều trước sau từ hạng II 
xương đến hạng III xương, tương ứng với răng 
cửa trên nghiêng về phía môi 0,6°, răng cửa dưới 
nghiêng về phía lưỡi 0,93° và mặt phẳng khớp 
cắn bớt dốc hơn 0,55° so với nền sọ. Độ nghiêng 
của răng cửa dưới và độ dốc mặt phẳng khớp 
cắn có tương quan mạnh mẽ với tương quan hai 
hàm và đóng vai trò quan trọng trong việc đạt 
được tương quan răng cửa bình thường. 
Sự thay đổi này thể hiện rõ ở nam giới. 
Ngược lại, đối với nữ thì mức độ liên quan của 
độ nghiêng răng cửa và góc độ của mặt phẳng 
khớp cắn với vị trí hai hàm nhìn chung hầu như 
rất ít. Với bảng số liệu tham khảo trên, chúng tôi 
hy vọng đóng góp thêm dữ liệu để chẩn đoán và 
lập kế hoạch điều trị chỉnh hình răng mặt cho 
người Việt Nam. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO: 
1. Bibby RE (1980). Incisor relationships in different skeletofacial 
patterns. Angle Orthod, 50: 41-44. 
2. Hoàng Tử Hùng, Nguyễn Phúc Diên Thảo (1987). Bước đầu 
nghiên cứu đặc điểm hình thái vận động biên của điểm răng 
cửa trên mặt phẳng dọc giữa (Sơ đồ Posselt) và thử ghi trên 
người Việt. Tiểu luận tốt nghiệp Bác sĩ Răng Hàm Mặt, Đại 
học Y Dược Tp.HCM. 
3. Mitsui M, Ishikawa H (2001). Quantitative analysis of dental 
compensation for variations in sagittal jaw relationships. 
Orthodontic Waves, 60(3). 
Ngày nhận bài báo: 03/01/2014 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/01/2014 
Ngày bài báo được đăng: 20/03/2014 

File đính kèm:

  • pdfvi_tri_rang_cua_trong_tuong_quan_vi_tri_hai_ham_theo_chieu_t.pdf