Vi phẫu thuật phục hồi trong chấn thương chỉnh hình ở Việt Nam - Kết quả 23 năm ứng dụng và phát triển
Mục tiêu: Tổng quan những kết quả chính về ứng dụng và phát triển vi phẫu thuật
phục hồi ở Việt Nam.
Đối tượng và phương pháp: Những bệnh viện trong cả nước có triển khai vi phẫu
thuật phục hồi. Thu thập, thống kê kết quả từ những báo cáo khoa học tại hội nghị và
trong tạp chí chuyên ngành hiện có trong tay và thông tin từ đồng nghiệp.
Bạn đang xem tài liệu "Vi phẫu thuật phục hồi trong chấn thương chỉnh hình ở Việt Nam - Kết quả 23 năm ứng dụng và phát triển", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Vi phẫu thuật phục hồi trong chấn thương chỉnh hình ở Việt Nam - Kết quả 23 năm ứng dụng và phát triển
Phần 4: Phần vi phẫu 269 Nguyễn Việt Tiến Bệnh viện TƯQĐ 108 VI PHẪU THUẬT PHụC HỒI TRONG CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH Ở VIỆT NAM - KẾT QUẢ 23 NĂM ỨNG DụNG VÀ PHÁT TRIỂN Mục tiêu: Tổng quan những kết quả chính về ứng dụng và phát triển vi phẫu thuật phục hồi ở Việt Nam. Đối tượng và phương pháp: Những bệnh viện trong cả nước có triển khai vi phẫu thuật phục hồi. Thu thập, thống kê kết quả từ những báo cáo khoa học tại hội nghị và trong tạp chí chuyên ngành hiện có trong tay và thông tin từ đồng nghiệp. Kết quả: Ở Việt Nam, vi phẫu thuật phục hồi được triển khai trong Chấn thương Chỉnh hình từ những năm cuối 1980, bắt đầu là khâu nối thần kinh và mạch máu nhỏ bằng kỹ thuật vi phẫu. Từ những năm đầu 1990, đã thực hiện thành công nối bàn tay, ngón tay và chuyển vạt tự do (gồm cả chuyển ngón chân lên bàn tay), những phẫu thuật này nhanh chóng được triển khai rộng rãi tại nhiều bệnh viện trong cả nước. Từ những năm cuối 2000, đã thực hiện chuyển thần kinh qua đoạn ghép có mạch nuôi trong điều trị tổn thương đám rối cánh tay - một loại tổn thương hiện còn là thách thức đối với y học hiện đại. Trong quá trình nghiên cứu ứng dụng những phẫu thuật nêu trên, đã nhanh chóng làm chủ kỹ thuật một cách sáng tạo nên kết quả đạt được ngày một cao hơn. Hiện nay, thành công trong nối chi là 85 - 90%, thành công trong chuyển ngón chân phục hồi ngón tay là 97%, thành công trong chuyển vạt tự do là trên 90% với nhiều loại vạt khác nhau được sử dụng. Chuyển thần kinh điều trị tổn thương đám rối cánh tay tuy mới đang trong giai đoạn bước đầu nhưng kết quả đạt được là đáng khích lệ. Kết luận: Việt Nam là một trong những nước nghèo, nhưng đã nghiên cứu áp dụng vi phẫu thuật phục hồi - một phương pháp phục hồi hiện đại trong chuyên ngành Chấn thương Chỉnh hình từ những năm cuối 1980. Đến nay, vi phẫu thuật phục hồi đã được triển khai tại nhiều bệnh viện khắp 3 miền Bắc - Trung - Nam với nhiều kỹ thuật khác nhau như: nối - ghép dây thần kinh, nối chi, chuyển ngón chân phục hồi ngón tay, chuyển vạt tự do, chuyển thần kinh trong điều trị tổn thương đám rối cánh tay. Kết quả đạt được là rất khích lệ, góp phần tạo bước tiến mới trong chuyên ngành Chấn thương Chỉnh hình ở nước ta. Từ khóa: Vi phẫu thuật phục hồi TĨM TẮT RECONSTRUCTIVE MICROSURGERY OF THE TRAUMA AND ORTHOPAEDIC SURGERY IN VIET NAM - AN OVERVIEW OF 23 YEARS OF APPLICATION AND DEVELOPMENT Nguyen Viet Tien ABSTRACT Objectives: An overview of application and development of reconstructive microsurgery in trauma and orthopaedic surgery in Viet Nam Materials and methods: All hospitals in Viet Nam where the reconstructive microsurgery TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2012 270 had been performed. The results were collected from scientific papers that were reported in meeting and published in magazines as well as informations from colleagues. Results: In Viet Nam, reconstructive microsurgeries have been applied in trauma and orthopaedic surgeries since the late 1980s. At the beginning it was only nerve repaire and small vessel anastomosis with microsurgical technique. From 1990s up to now, many types of reconstructive microsurgery such as limb replantation and toe to hand and free flap transfer have been performed in many hospitals. Since the late 2000s, neurotizations or nerve transfers via vascularized nerve graft in treatment of brachial plexus injuries that are one of the serious chanllenges to the modern medicine have been performed too. All these operations have been hardly learned and applied creatively therefore the results achieved better and better. At present, the successful rates were 85 - 90 percent in limb replantation and 97 percent in toe to hand transfer and more than 90 percent in free flap transfer with many kinds of tissue flaps used. Although nerve transfers in treatment of brachial plexus injuries had been only started, they had been achieved encouraging results. Conclusions: Although Viet Nam is being the one of poor countries in the world, reconstructive microsurgeries have been applied in trauma and orthopaedic surgeries since the late 1980s. Up to now, they are being performed in many hospitals in the North, Centre and the South of Viet Nam with many different techniques such as nerve repair with microsurgical technique, limb replantation, toe to hand and free flap transfer and nerve transfers in treatment of brachial plexus injuries. The achieve results in reconstructive microsurgeries are being taken part in creating the new advances in trauma and orthopaedic surgeries in our country. Keyword: Reconstructive microsurgery Từ những năm giữa thập niên 60, kỹ thuật vi phẫu (KTVP - microsurgical technique) đã tạo bước phát triển cĩ tính nhảy vọt trong phẫu thuật phục hồi. Phẫu thuật phục hồi cĩ sử dụng KTVP được gọi là vi phẫu thuật phục hồi (VPTPH - reconstructive microsurgery), đảm bảo thực hiện thành cơng những phẫu thuật phục hồi hiện đại (modern reconstructive surgical procedures) như: khâu nối bàn tay, ngĩn tay bị đứt lìa; chuyển ngĩn chân phục hồi ngĩn tay bị cụt mất; nối, ghép thần kinh và thậm chí ghép thần kinh cĩ nối mạch máu nuơi thần kinh; chuyển vạt tổ chức gồm: vạt da, vạt cân, vạt cơ, vạt xương đơn thuần hoặc vạt phức hợp những tổ chức này ở dạng tự do để điều trị những khuyết hổng tổ chức phức tạp trên cơ thể, hoặc để tái tạo dương vật, tái tạo vú trong một lần mổ; ghép thần kinh chéo mặt và sau đĩ chuyển ghép cơ cĩ chức năng vận động để điều trị liệt mặt; chuyển ghép đoạn ruột non để phục hồi thực quản bị khuyết hổng; chuyển tinh hồn bị lạc chỗ; nối dương vật đứt lìa; nối ống dẫn tinh và ống dẫn trứng; nối bạch mạch Những phẫu thuật này khơng thể thực hiện được bằng các kỹ thuật ngoại khoa kinh điển. Để thực hiện được những phẫu thuật trên, địi hỏi phải cĩ đội ngũ phẫu thuật viên được đào tạo căn bản theo từng chuyên ngành, những dụng cụ thiết yếu đảm bảo cho thực hiện KTVP như: kính hiển vi phẫu thuật, dụng cụ phẫu thuật cầm tay chuyên dụng, máy đốt lưỡng cực, kim chỉ cực mảnh khơng chấn thương loại 9/0 - 11/0 (đường kính sợi chỉ từ 25 - 20 µm). Khơng chỉ thế, VPTPH đều là những phẫu thuật phức tạp, kéo dài nên địi hỏi phải cĩ đội ngũ cán bộ và trang thiết bị đảm bảo tốt cho vơ cảm trong mổ, hồi sức sau mổ. Ở Việt Nam, từ những năm cuối thập niên 80, đã nghiên cứu ứng dụng KTVP trong nhiều chuyên ngành ngoại khoa, đặc biệt là trong Phẫu thuật Tạo hình và Chấn thương Chỉnh hình (CTCH). Cho đến nay, nhiều khoa CTCH tại nhiều bệnh viện trong cả nước đã thực hiện thành cơng VPTPH, đem lại lợi ích to lớn cho bệnh nhân (BN), gĩp phần từng bước hội nhập với khu vực và quốc tế. Phần 4: Phần vi phẫu 271 Hiện nay, với sự phát triển của sản xuất, xây dựng, giao thơng thì những tổn thương cĩ chỉ định điều trị bằng VPTPH cũng tăng cao. Điều này địi hỏi bác sĩ chuyên ngành CTCH cần quan tâm và làm chủ các kỹ thuật về VPTPH thuộc chuyên ngành mình. Trong báo cáo này, xin tổng quan kết quả trong 23 năm qua để đồng nghiệp phần nào thấy được sự phát triển của VPTPH thuộc chuyên ngành CTCH trong điều kiện thực tiễn ở nước ta. 1. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP - Đối tượng: Những bệnh viện trong cả nước cĩ triển khai VPTPH từ năm 1990 - 2013. - Phương pháp: + Thu thập số liệu từ những báo cáo khoa học trong hội nghị chuyên ngành và các bài báo được đăng tải trong tạp chí hiện cĩ trong tay và thơng tin từ đồng nghiệp. + Phân tích từng cơng trình, tổng hợp và đánh giá kết quả. 2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ỨNG DụNG VÀ PHÁT TRIểN VI PHẪU THUẬT PHụC HờI Vi phẫu thuật phục hồi ở nước ta bắt đầu từ nối mạch máu, thần kinh bằng KTVP, tiếp đĩ là nối chi thể đứt lìa và chuyển vạt tự do (bao gồm cả chuyển ngĩn chân phục hồi ngĩn tay). Trong 7 năm gần đây là chuyển thần kinh trong điều trị tổn thương đám rối thần kinh cánh tay (ĐRCT). Nối bàn tay, ngĩn tay được tiến hành từ đầu thập niên 80, ban đầu là tại Bệnh viện TƯQĐ 108, Bệnh viện CTCH thành phố Hồ Chí Minh. Từ đầu thập niên 90, Bệnh viện TƯQĐ 108 triển khai chuyển vạt tự do để phục hồi tổ chức bị tổn khuyết [12]. Đến nay, phẫu thuật nối - ghép thần kinh, nối chi thể và chuyển vạt tự do bằng KTVP đã trở thành thường quy tại nhiều bệnh viện khắp 3 miền Bắc - Trung - Nam [2], [3], [4], [6], [7], [8], [9], [10], [13], [15], [17], [18], [19]. Ở miền Bắc, ngồi Bệnh viện TƯQĐ 108, cịn cĩ Bệnh viện Việt Đức, Bệnh viện Quân y 103, Viện bỏng Quốc gia, Bệnh viện Xanh Pơn, Bệnh viện Việt Tiệp - Hải Phịng, Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên. Ở miền Trung, cĩ Bệnh viện Trung ương Huế, Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế, Bệnh viện Đa khoa Đà Nẵng, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Khánh Hịa, Bệnh viện Đa khoa Phú Yên, Bệnh viện Đa khoa Đắc Lắc, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Kon Tum, Bệnh viện Bà Rịa - Vũng Tàu. Ở miền Nam, ngồi Bệnh viện CTCH thành phố Hồ Chí Minh cịn cĩ Bệnh viện Quân y 175, Bệnh viện Chợ Rẫy, Bệnh viện Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, Bệnh viện Ung bướu thành phố Hồ Chí Minh, Bệnh viện Nhân dân Gia Định. Đặc biệt, từ năm 2006, Viện CTCH - Bệnh viện TƯQĐ 108 đã tiến hành chuyển thần kinh bằng KTVP để điều trị tổn thương hồn tồn hoặc khơng hồn tồn đám rối thần kinh cánh tay (ĐRCT). Đến nay, đã điều trị cho hàng trăm BN với kết quả phục hồi chức năng vận động và cảm giác của chi thể rất khích lệ [5], [16]. 2.1. Về phẫu thuật nối chi Phẫu thuật nối chi được thực hiện khá phổ biến từ những năm 1990. Tuy nhiên, từ đầu những năm 2000, liên tục cĩ nhiều báo cáo về phẫu thuật nối chi tại hội nghị khoa học và được đăng trong tạp chí chuyên ngành. Những báo cáo này chủ yếu là của đồng nghiệp cơng tác tại Bệnh viện TƯQĐ 108, Bệnh viện CTCH thành phố Hồ Chí Minh, Bệnh viện Đa khoa Đắc Lắc, Bệnh viện Bà Rịa - Vũng Tàu. Năm 2011, Viện CTCH - Bệnh viện TƯQĐ 108 cĩ báo cáo khá chi tiết với số lượng lớn về phẫu thuật nối chi [17]. Trong báo cáo này, đã thực hiện nối 595 phần chi thể cho 388 BN với thành cơng như sau: tỷ lệ chi sống là 90,3% (537/595), Thành cơng trong nhĩm nối cánh tay, cẳng tay là 26/26, nối cổ tay là 98,04% (50/51), nối giữa bàn tay là 30/30, nối ngĩn tay cái là 81,2% (108/133), nối ngĩn tay dài là 90,72% (313/345). Thành cơng trong nối tổn thương bị đứt sắc gọn là 93,77% (256/237), đứt bầm dập và đứt giằng giật là 87,27% (281/322). Cĩ 58 phần chi nối bị hoại tử, nguyên nhân là: tắc tĩnh mạch: 7 ngĩn tay cái và 7 ngĩn tay dài; tắc động mạch: 12 ngĩn tay cái và 14 ngĩn tay dài; nhiễm khuẩn: 3 ngĩn tay dài; bỏng lạnh: 1 bàn tay do ngâm trực tiếp vào nước đá. Trong số những trường hợp thành cơng, cĩ 92 chi nối được phẫu thuật sử chữa bổ sung, gồm: khâu lại gân duỗi: 17; gỡ dính gân và khớp: 42; kết lại xương hoặc chỉnh trục: 12; đĩng cứng khớp: 21. Kết quả xa (> 6 tháng) ở 387 chi nối lại với thời gian theo dõi trung bình là 25 tháng theo bảng phân loại kết quả của Pho.R.W. H cho thấy: 57,11% (221/387) chi thể được nối cĩ chức năng vận động, cảm giác gần như bình thường, 35,4% (137/387) là cĩ tác dụng, BN chấp nhận được. Cĩ 7,49% (29/387) chi thể sống nhưng các khớp bị cứng, khơng cĩ chức năng vận động. Tỷ lệ đạt kết quả gần như bình thường ở nhĩm tổn thương đứt gọn là 76,02% (130/171), ở nhĩm dập nát và giằng giật là 42,13% (91/216), sự khác biệt về kết quả ở 2 nhĩm này cĩ ý nghĩa thống kê, (p < 0,05). Đặc biệt, cĩ 2 đề tài luận án tiến sỹ về phẫu thuật nối chi được bảo vệ thành cơng, đĩ là của Phan Đức Minh TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2012 272 Mẫn cơng tác tại Bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình Thành phố Hồ Chí Minh bảo vệ năm 2011 [8] và của Nguyễn Việt Nam cơng tác tại Bệnh viện TƯQĐ 108 bảo vệ năm 2012 [9]. 2.2. Về phẫu thuật chuyển vạt tự do Phẫu thuật chuyển vạt tự do cũng được thực hiện khá phổ biến từ những năm 1990 trong chuyên ngành Phẫu thuật Tạo hình và CTCH [12], được nhiều bệnh viện quan tâm đầu tư phát triển. Trong CTCH, căn cứ vào những báo cáo khoa học tại hội nghị và tạp chí chuyên ngành, những nỗ lực và thành cơng về chuyển vạt tự do phải kể đến Viện CTCH - Bệnh viện TƯQĐ 108, Bệnh viện Trung ương Huế, Bệnh viện Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, Bệnh viện Chợ Rẫy, Bệnh viện CTCH thành phố Hồ Chí Minh. Số lượng những báo cáo khoa học và số luận án tiến sỹ về chuyển vạt tự cũng là nhiều nhất (gần trăm báo cáo khoa học, gần chục luận án tiến sỹ) thuộc VPTPH trong CTCH. Cho đến nay, đã cĩ vài chục loại vạt khác nhau được sử dụng, trong đĩ cĩ cả chuyển vạt cơ kèm theo nối thần kinh nhằm phục hồi vận động của chi thể [11]. Trong báo cáo của Viện CTCH - Bệnh viện TƯQĐ 108 năm 2011 [17], đã chuyển 471 vạt tự do để điều trị 461 khuyết hổng phức tạp ở 458 BN với 14 loại vạt tại những nơi cho khác nhau và dạng tổ chức khác nhau (vạt da đơn thuần, cân đơn thuần, cơ đơn thuần, xương đơn thuần, hoặc phức hợp của những tổ chức này). Kết quả cho thấy: tỷ lệ vạt sống là 96,2% (453/471), hoại tử là 3,8% (18/471). Thành cơng trong chuyển vạt phần mềm là 96,2% (359/373), chuyển vạt xương là 95,4% (84/88 vạt). Tỷ lệ thành cơng giữa các vạt khơng cĩ sự khác biệt (p > 0,05). Tất cả 458 BN với 461 khuyết hổng đều được kiểm tra, theo dõi, đánh giá kết quả sau mổ từ 6 tháng - 12 năm (trung bình là 30 tháng) ; kết quả đạt được như sau: kết quả tốt (làm liền tổn thương, phục hồi được tổ chức bị tổn khuyết, đạt yêu cầu về chức năng và thẩm mỹ. Đối với vạt xương, đạt liền xương nhanh ở cả hai đầu xương ghép tiếp nối với xương nhận theo thời gian liền xương của Merle d’Aubigre – 1960) là 96,3% (444/461) trường hợp, kết quả vừa (vùng nhận viêm rị kéo dài, phải can thiệp để làm liền tổn thương, hoặc vạt to xù - phải can thiệp thu gọn vạt, kết quả cuối cùng là làm liền được tổn thương. Đối với vạt xương, liền xương chậm hoặc khơng liền, phải can thiệp bổ sung để làm liền xương) là 2,2% (10/461), xấu (tổn thương khơng liền, phải tháo bỏ vạt) là 1,5% (7/461). Kết quả điều trị khuyết hổng phần mềm (KHPM) đạt loại tốt là 97,3% (363/373) trường hợp, điều trị khuyết hổng xương (KHX) đạt loại tốt là 92% (81/88 trường hợp). Kết quả điều trị KHPM khơng khác biệt so với điều trị KHX (p > 0,05). Biến chứng, di chứng tại nơi cho vạt: những nơi cho vạt phần mềm và vạt xương mào chậu đều khơng cĩ biến chứng hoặc di chứng quan trọng về chức phận; ở nơi cho vạt xương mác: cĩ 1 trường hợp bị hoại tử cơ khu cẳng chân sau do chèn ép khoang và 1 trường hợp hoại tử một phần các cơ mác do thiểu dưỡng. Tại Bệnh viện Trung ương Huế, năm 2006 đã báo cáo chuyển cơ thon cĩ nối thần kinh vận động để phục hồi cơ ở khu vực cẳng tay trước bị khuyết hổng nhằm phục hồi vận động của chi thể [11]. Trong quá trình nghiên cứu triển khai phẫu thuật này, đã cĩ nhiều đề tài luận án tiến sỹ về chuyển vạt tự do đã bảo vệ như: ghép xương mác cĩ nối mạch nuơi trong điều trị mất đoạn thân xương dài [13]; chuyển vạt cơ lưng to để điều trị khuyết hổng phần mềm ở chi dưới [4]; chuyển vạt da cân vùng bả vai để điều trị khuyết hổng phần mềm ở khu vực cẳng chân - bàn chân [6]; tạo hình khuyết hổng da vùng gĩt chân bằng vạt cuống liền hoặc tự do [7] và hiện đang cĩ 3 đề tài khác về chuyển vạt tự do, đĩ là: chuyển vạt cơ thon, chuyển vạt bẹn, chuyển vạt delta trong điều trị KHPM ở chi thể. Phải khẳng định rằng, chuyển vạt tự do để điều trị những khuyết hổng phức tạp ở chi thể là một thế mạnh trong chuyên ngành CTCH ở nước ta, cứu nhiều chi thể khỏi bị cắt cụt. 2.3. Về phẫu thuật chuyển ngĩn chân Theo dõi y văn trong nước cho đến nay, hiện cĩ 3 bệnh viện đã triển khai phẫu thuật chuyển ngĩn chân phục hồi ngĩn tay, đĩ là: Viện CTCH - Bệnh viện TƯQĐ 108, Bệnh viện CTCH thành phố Hồ Chí Minh và Viện bỏng Quốc gia. Tại Viện CTCH - Bệnh viện TƯQĐ 108, đã thực hiện phẫu thuật này từ 1994 và cũng đã cĩ một số báo cáo khoa học từ nhiều năm trước [14]. Trong báo cáo khoa học năm 2011, cĩ 27 BN được chuyển ngĩn chân phục hồi ngĩn tay vởi tỷ lệ thành cơng là 26/27 BN [17]. Đến nay, con số này là 37 BN với tỷ lệ thành cơng là 36/37 BN. Đánh giá kết quả xa (>6 tháng) ở 32 BN cho thấy: 29/32 BN với ngĩn chuyển cĩ vận động gấp và duỗi tốt (biên độ gấp, duỗi như trước khi Phần 4: Phần vi phẫu 273 chuyển); 3/29 BN cĩ vận động gấp, duỗi của ngĩn chuyển bị hạn chế (2 BN chuyển ngĩn chân thứ hai phục hồi ngĩn tay cái và 1 BN chuyển ngĩn chân thứ hai phục hồi ngĩn tay giữa); tuy vậy, ngĩn chuyển cĩ tác dụng như một gọng kìm và các ngĩn khác với tới được nên chức năng cầm, nắm, nhĩn nhặt của bàn tay, của ngĩn tay đạt yêu cầu phẫu thuật. Cảm giác đau xuất hiện vào tháng thứ 3, cảm giác nĩng - lạnh và xúc giác xuất hiện vào tháng thứ 4 - 5 sau mổ. Sau mổ trên 1 năm, cảm giác của ngĩn chuyển phục hồi gần như ngĩn lành được thấy ở cả 29/29 ngĩn chuyển. Về thẩm mỹ: 7 trường hợp chuyển ngĩn chân cái được thu nhỏ để phục hồi ngĩn tay cái đều đạt kết quả tốt về chức năng và thẩm mỹ. Tại bàn chân được lấy ngĩn: 25 trường hợp lấy ngĩn chân thứ hai và 7 trường hợp lấy ngĩn chân cái tới khớp bàn - ngĩn thì BN đi lại trong sinh hoạt và lao động bình thường; 5 trường hợp lấy ngĩn chân cái tới thân xương bàn gây ảnh hưởng nhiều đến thẩm mỹ của bàn chân, đi chân đất ở đường trơn cĩ bị ảnh hưởng do dễ bị trượt. 2.4. Về phẫu thuật chuyển thần kinh điều trị thương đám rối cánh tay Điều trị tổn thương ĐRCT do chấn thương kín vẫn là một thách thức đối với y học hiện đại, đặc biệt là tổn thương nhổ tất cả các rễ ĐRCT khỏi tủy sống. Ở Việt Nam, Bệnh viện CTCH thành phố Hồ Chí Minh đã cĩ báo cáo chuyển thần kinh XI cho thần kinh cơ bì qua đoạn ghép là thần kinh hiển để phục hồi gấp khuỷu, đây là chuyển thần kinh ngồi đám rối theo kỹ thuật ghép thần kinh kinh điển. Theo báo cáo, kết quả gấp khuỷu đạt được rất khích lệ [1]. Từ năm 2006, Viện CTCH - Bệnh viện TƯQĐ 108 đã triển khai phẫu thuật chuyển rễ thần kinh C7 chéo ngực qua thần kinh ghép cĩ nối mạch nuơi trong điều trị tổn thương nhổ tất cả các rễ thần kinh của ĐRCT. Đã cĩ báo cáo khoa học về chuyển thần kinh trong điều trị tổn thương khơng hồn tồn và hồn tồn ĐRCT [5], [16]. Hiện nay, chuyển thần kinh bằng KTVP trong điều trị tổn thương khơng hồn tồn hoặc hồn tồn ĐRCT đã là thường quy tại đây. - Về tổn thương khơng hồn tồn ĐRCT, đã phẫu thuật cho 45 BN bị tổn thương các rễ C5, C6, ± C7. Trong những trường hợp này, BN mất giạng vai, mất gấp khuỷu, cịn vận động và cảm giác ở khu vực cẳng tay, bàn tay. Mục đích phẫu thuật là phục hồi gấp khuỷu và giạng vai. Bệnh nhân được phẫu thuật chuyển thần kinh kép (chuyển một vài bĩ sợi vận động của thần kinh trụ cho thần kinh vận động cơ nhị đầu cánh tay và một vài bĩ sợi vận động của thần kinh giữa cho thần kinh vận động cơ cánh tay) để phục hồi gấp khuỷu (Phương pháp Oberlin II) và chuyển thần kinh vận động đầu dài cơ tam đầu cho nhánh trước thần kinh mũ (Phương pháp Leechavengvongs S) kèm theo chuyển thần kinh XI cho thần kinh trên vai để phục hồi giạng vai và xoay ngồi cánh tay. Trong số này, cĩ 35/45 BN cĩ thời gian sau mổ > 6 tháng - 30 tháng (trung bình 24 ± 2,8 tháng). Kết quả cho thấy: + Phục hồi gấp khuỷu (n= 35): thời gian từ khi phẫu thuật đến khi phục hồi gấp khuỷu đạt M1 là 3 ± 0,6 tháng, đạt M3 là: 4 ± 0,8 tháng, đạt M4 là 6 ± 0,7 tháng. Khả năng nâng tạ tại thời điểm đánh giá kết quả cuối cùng của 35 BN đạt sức gấp khuỷu M4 từ 2kg - 15kg (trung bình 6,5 ± 1,4 kg) ở 34 BN. Phân loại kết quả gấp khuỷu theo Samardzic (n= 35): rất tốt: 14/35, tốt: 20/35, trung bình: 1/35, kém: 0/35. + Phục hồi giạng vai (n=14): 11/14 BN cĩ thời gian sau mổ từ 12 tháng - 18 tháng. Thời gian từ khi phẫu thuật đến khi phục hồi giạng vai đạt M1 là: 9 ± 0,6 tháng, đạt M3 là: 12 ± 0,8 tháng, đạt M4 là 16 ± 0,7 tháng. Giạng vai ở thời điểm đánh giá kết quả cuối cùng của 11 BN là 1000 ± 500, xoay ngồi của khớp vai là 850 ± 300. - Về tổn thương hồn tồn ĐRCT: trong những trường hợp này, BN mất hồn tồn vận động và cảm giác của chi thể. Vì nguồn thần kinh cho rất khĩ khăn nên yêu cầu điều trị là: phục hồi giạng vai, gấp khuỷu, gấp cổ tay và các ngĩn, phục hồi cảm giác ở khu vực cẳng tay, bàn tay do thần kinh giữa chi phối. Trong những trường hợp này, BN được chuyển thần kinh XI cho thần kinh trên vai, chuyển rễ C7 bên lành cho thần kinh cơ bì, thần kinh giữa và thần kinh nách qua đoạn ghép là thần kinh trụ cĩ nối mạch nuơi (chuyển rễ C7 chéo ngực). Đến nay, đã phẫu thuật chuyển rễ C7 bên lành qua thần kinh trụ cĩ nối mạch nuơi để điều trị cho 148 BN (130 nam, 18 nữ) bị tổn thương nhổ, đứt tất cả các rễ ĐRCT. Tuổi BN từ 12 - 57 tuổi. Thời gian bị tổn thương đến khi được phẫu thuật: 1 - 11 tháng (trung bình là 4,7 tháng). Trong số này, cĩ 122/148 BN được chuyển C7 cho thần kinh cơ bì và thần kinh giữa, 26/148 BN cĩ kết hợp đồng thời với chuyển thần kinh XI cho thần kinh trên vai và nhánh cảm giác mu tay của thần kinh trụ cho thần kinh nách hoặc nhánh trước thần kinh mũ. Kết quả xa (>18 tháng) ở 104/148 BN được đánh giá theo các chỉ tiêu của Hội đồng nghiên cứu Y học Anh cho thấy: + Phục hồi gấp khuỷu (n= 104): tất cả BN (100%) đều gấp được khuỷu với các mức sau: M4 là 76 BN (73%), M3 là 19 BN (18,7%), M1 - M2 là 9 BN (8,3%), M0 = 0. TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2012 274 Trong số 76 BN gấp khuỷu đạt mức M4, cĩ 51 BN gấp khuỷu một cách độc lập, 25 BN cịn lại cĩ sự đồng vận với bên lành. + Phục hồi gấp cổ tay, ngĩn tay (n = 54): 54/104 BN (51,9%) gấp được cổ tay và ngĩn tay với các mức như sau: M4 là 3 BN (5,5%), M3 là 17 BN (31,5%), M1 - M2 là 34 BN (63%). + Phục hồi cảm giác (n = 89): 89/104 BN (85,6%) phục hồi cảm giác ở khu vực do thần kinh giữa chi phối với các mức như sau: S3 là 31 BN (34,8%), S2 là 46 BN (51,7%), S1 là 12 BN (13,5%). + Phục hồi giạng vai (n = 26): tất cả 26 BN đồng thời chuyển thần kinh XI cho thần kinh trên vai và một phần thần kinh trụ bắc cầu từ C7 bên lành cho thần kinh nách hoặc nhánh trước thần kinh mũ đều chưa đủ thời gian để đánh giá kết quả phục hồi. KẾT LUẬN: Việt Nam là một trong những nước nghèo, nhưng ngay từ những năm 1980 đã nghiên cứu ứng dụng KTVP trong nhiều chuyên ngành, đặc biệt là trong Phẫu thuật Tạo hình, CTCH và Phẫu thuật Thần kinh. Kết quả đạt được ngày một cao hơn, thể hiện ở việc khơng chỉ ứng dụng kỹ thuật một cách xơ cứng mà cịn cĩ nhiều sáng tạo nhằm đáp ứng những yêu cầu điều trị riêng biệt ở mỗi BN và phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Kết quả đĩ cịn được thể hiện ở việc khơng chỉ triển khai VPTPH ở diện rộng mà cịn cả về chất lượng kỹ thuật. Đến nay, nhiều đơn vị CTCH ở nhiều bệnh viện trong cả nước đã triển khai thuần thục, thường quy phẫu thuật nối - ghép thần kinh, mạch máu bằng KTVP, nối chi thể, chuyển vạt tự do, chuyển ngĩn chân phục hồi ngĩn tay và cũng cĩ bệnh viện triển khai thành cơng nhiều kỹ thuật tiên tiến hiện cĩ trên thế giới trong điều trị tổn thương ĐRCT. Những thành cơng đĩ gĩp phần quan trọng trong sự nghiệp chăm sĩc sức khỏe cho cộng đồng và từng bước hội nhập với quốc tế. Đi đơi với thu dung điều trị, cơng tác nghiên cứu khoa học và huấn luyện đào tạo về phẫu thuật này cũng đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Đã cĩ gần trăm bài báo về VPTPH được cơng bố, gần chục đề tài luận án tiến sỹ đã và đang nghiên cứu bảo vệ. Những kết quả đĩ đáng được trân trọng và ghi nhận trong tiến trình xây dựng chuyên ngành CTCH ở nước ta. Tài liệu tham khảo 1. Võ Văn Châu: Chuyển thần kinh XI vào thần kinh cơ bì để phục hồi gấp khuỷu trong liệt đám rối cánh tay. Thời sự Y Dược học, số 4/2005, trang 195 - 202 2. Nguyễn Viết Ngọc: Ngiên cứu giải phẫu thần kinh giữa, thần kinh trụ và điều trị đứt hai dây thần kinh này ở vùng cẳng tay bằng khâu nối với kỹ thuật vi phẫu. Luận án tiến sĩ y học, Hà Nội - 2009 3. Trần Văn Dương: Đánh giá kết quả điều trị khuyết hổng mơ mềm vùng cẳng bàn chân bằng vạt da bẹn tự do. Y Học Thực Hành, số 852 + 853 năm 2012, trang 499-503. 4. Lê Văn Đồn: Nghiên cứu giải phẫu và ứng dụng lâm sàng vạt cơ, da - cơ lung to trong điều trị khuyết hổng lớn ở chi dưới. Luận án tiến sỹ y học, Hà Nội - 2003 5. Lê Văn Đồn, Chế Đình Nghĩa, Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Viết Ngọc, Ngơ Thái Hưng: Kết quả bước đầu chuyển thần kinh kép phục hồi gấp khuỷu điều trị liệt các rễ trên đám rối thần kinh cánh tay. Tạp chí Chấn thuơng Chỉnh hình Việt Nam, Hội nghị khoa học thường niên lần thứ XI/ 2012, trang 295 - 302 6. Lê Hồng Hải: Nghiên cứu giải phẫu và ứng dụng lâm sàng vạt da - cân bả vai, bên bả trong điều trị khuyết hổng phần mềm lớn vùng cẳng chân, bàn chân. Luận án tiến sỹ y học, Hà Nội - 2005 7. Đỗ Phước Hùng: Che phủ và phục hồi chức năng khuyết mơ mềm vùng gĩt. Luận án tiến sĩ y học, thành phố Hồ Chí Minh - 2004 8. Phan Đức Minh Mẫn: Đánh giá kết quả khâu nối vi phẫu thuật ngĩn tay đứt rời. Luận án tiến sỹ y học, thành phố Hồ Chí Minh - 2011 9. Nguyễn Việt Nam: Nghiên cứu giải phẫu động mạch bàn tay, ngĩn tay trong trồng lại bàn tay, ngĩn tay. Luận án tiến sỹ y học, Hà Nội - 2012 10. Phạm Đăng Nhật: Điều trị các khuyết hổng phần mềm lộ xương vùng cẳng chân do chấn thương tại Bệnh viện Trung ương Huế. Tạp chí Y học Thực hành số 620+621 (2008), trang 332-345 11. Phạm Đăng Nhật: Nhân một trường hợp chèn ép khoang ở cẳng tay bị bỏ sĩt được bảo tồn chi, tạo hình bằng ghép xương mác vi phẫu và chuyển cơ chức năng. Tạp chí Y học Việt Nam số 2/2010, tập 374, trang 436-444 Phần 4: Phần vi phẫu 275 12. Nguyễn Huy Phan, Nguyễn Bắc Hùng, Nguyễn Ngọc Liêm, Nguyễn Việt Tiến: Các vạt ghép tự do bằng kỹ thuật vi phẫu trong điều trị các tổn khuyết chi dưới do chấn thương. Phẫu thuật tạo hình số 1/1993, trang 31-35 13. Nguyễn Việt Tiến: Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật ghép xương mác cĩ nối mạch nuơi trong điều trị mất đoạn thân xương dài. Luận án tiến sỹ y học, Hà Nội - 1995 14. Nguyễn Việt Tiến: Chuyển ngĩn chân để phục hồi ngĩn tay cái bằng kỹ thuật vi phẫu. Y học Thực hành số 5-1999, trang 22-24 15. Tien Nguyen Viet: Microvascular Free Flap Transplantation for Extremity Reconstruction. 18th Annual Asia Pacific Military Medicine Conference. Singapore 14 – 18 April 2008 16. Nguyễn Việt Tiến: Chuyển rễ thần kinh C7 chéo ngực quan thần kinh ghép cĩ mạch nuơi trong điều trị tổn thương nhổ các rễ đám rối thần kinh cánh tay - Kết quả 32 trường hợp. Tạp chí Y Dược Lâm sàng 108, Tập 5- số 4/2010, trang 92 - 98 17. Nguyễn Việt Tiến, Lê Văn Đồn, Nguyễn Thế Hồng, Ngơ Thái Hưng, Nguyễn Viết Ngọc, Lê Hồng Hải, Lưu Hồng Hải, Nguyễn Việt Nam, Nguyễn Văn Phú, Chế Đình Nghĩa: Phẫu thuật nối chi trên, chuyển ngĩn chân phục hồi ngĩn tay và chuyển vạt tổ chức tự do - Kết quả áp dụng trong 20 năm tại Viện Chấn thương - Chỉnh hình, Bệnh viện TƯQĐ 108. Tạp chí Y Dược Lâm sàng 108, Tập 6 - Số đặc biệt 3/2011, trang 238 - 245 18. Nguyễn Anh Tuấn: Che phủ khuyết da bàn tay bằng vạt da cuống mạch liền và hoặc vạt tự do nối mạch vi phẫu . Luận văn cao học, thành phố Hồ Chí Minh - 1998 19. Tuan Anh Nguyen (2008): Soft Tissue Coverage at the Resource-challenged Facility. Clin Orthop Relat Res, Springer, Vol 466:2451-2456
File đính kèm:
vi_phau_thuat_phuc_hoi_trong_chan_thuong_chinh_hinh_o_viet_n.pdf

