Vi phẫu thuật phục hồi trong chấn thương chỉnh hình ở Việt Nam - Kết quả 23 năm ứng dụng và phát triển

Mục tiêu: Tổng quan những kết quả chính về ứng dụng và phát triển vi phẫu thuật

phục hồi ở Việt Nam.

Đối tượng và phương pháp: Những bệnh viện trong cả nước có triển khai vi phẫu

thuật phục hồi. Thu thập, thống kê kết quả từ những báo cáo khoa học tại hội nghị và

trong tạp chí chuyên ngành hiện có trong tay và thông tin từ đồng nghiệp.

 

pdf 7 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem tài liệu "Vi phẫu thuật phục hồi trong chấn thương chỉnh hình ở Việt Nam - Kết quả 23 năm ứng dụng và phát triển", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vi phẫu thuật phục hồi trong chấn thương chỉnh hình ở Việt Nam - Kết quả 23 năm ứng dụng và phát triển

Vi phẫu thuật phục hồi trong chấn thương chỉnh hình ở Việt Nam - Kết quả 23 năm ứng dụng và phát triển
Phần 4: Phần vi phẫu
269
 Nguyễn Việt Tiến
Bệnh viện TƯQĐ 108
VI PHẪU THUẬT PHụC HỒI TRONG CHẤN 
THƯƠNG CHỈNH HÌNH Ở VIỆT NAM - KẾT QUẢ 
23 NĂM ỨNG DụNG VÀ PHÁT TRIỂN
Mục tiêu: Tổng quan những kết quả chính về ứng dụng và phát triển vi phẫu thuật 
phục hồi ở Việt Nam.
Đối tượng và phương pháp: Những bệnh viện trong cả nước có triển khai vi phẫu 
thuật phục hồi. Thu thập, thống kê kết quả từ những báo cáo khoa học tại hội nghị và 
trong tạp chí chuyên ngành hiện có trong tay và thông tin từ đồng nghiệp.
Kết quả: Ở Việt Nam, vi phẫu thuật phục hồi được triển khai trong Chấn thương 
Chỉnh hình từ những năm cuối 1980, bắt đầu là khâu nối thần kinh và mạch máu nhỏ 
bằng kỹ thuật vi phẫu. Từ những năm đầu 1990, đã thực hiện thành công nối bàn tay, 
ngón tay và chuyển vạt tự do (gồm cả chuyển ngón chân lên bàn tay), những phẫu 
thuật này nhanh chóng được triển khai rộng rãi tại nhiều bệnh viện trong cả nước. Từ 
những năm cuối 2000, đã thực hiện chuyển thần kinh qua đoạn ghép có mạch nuôi 
trong điều trị tổn thương đám rối cánh tay - một loại tổn thương hiện còn là thách thức 
đối với y học hiện đại. Trong quá trình nghiên cứu ứng dụng những phẫu thuật nêu 
trên, đã nhanh chóng làm chủ kỹ thuật một cách sáng tạo nên kết quả đạt được ngày 
một cao hơn. Hiện nay, thành công trong nối chi là 85 - 90%, thành công trong chuyển 
ngón chân phục hồi ngón tay là 97%, thành công trong chuyển vạt tự do là trên 90% 
với nhiều loại vạt khác nhau được sử dụng. Chuyển thần kinh điều trị tổn thương đám 
rối cánh tay tuy mới đang trong giai đoạn bước đầu nhưng kết quả đạt được là đáng 
khích lệ. 
Kết luận: Việt Nam là một trong những nước nghèo, nhưng đã nghiên cứu áp dụng vi 
phẫu thuật phục hồi - một phương pháp phục hồi hiện đại trong chuyên ngành Chấn 
thương Chỉnh hình từ những năm cuối 1980. Đến nay, vi phẫu thuật phục hồi đã được 
triển khai tại nhiều bệnh viện khắp 3 miền Bắc - Trung - Nam với nhiều kỹ thuật khác 
nhau như: nối - ghép dây thần kinh, nối chi, chuyển ngón chân phục hồi ngón tay, 
chuyển vạt tự do, chuyển thần kinh trong điều trị tổn thương đám rối cánh tay. Kết quả 
đạt được là rất khích lệ, góp phần tạo bước tiến mới trong chuyên ngành Chấn thương 
Chỉnh hình ở nước ta.
Từ khóa: Vi phẫu thuật phục hồi
TĨM TẮT
RECONSTRUCTIVE MICROSURGERY OF THE TRAUMA AND 
ORTHOPAEDIC SURGERY IN VIET NAM - AN OVERVIEW OF 23 
YEARS OF APPLICATION AND DEVELOPMENT
Nguyen Viet Tien ABSTRACT
Objectives: An overview of application and development of reconstructive microsurgery 
in trauma and orthopaedic surgery in Viet Nam
Materials and methods: All hospitals in Viet Nam where the reconstructive microsurgery 
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2012
270
had been performed. The results were collected from scientific papers that were reported 
in meeting and published in magazines as well as informations from colleagues.
Results: In Viet Nam, reconstructive microsurgeries have been applied in trauma and 
orthopaedic surgeries since the late 1980s. At the beginning it was only nerve repaire 
and small vessel anastomosis with microsurgical technique. From 1990s up to now, many 
types of reconstructive microsurgery such as limb replantation and toe to hand and free 
flap transfer have been performed in many hospitals. Since the late 2000s, neurotizations 
or nerve transfers via vascularized nerve graft in treatment of brachial plexus injuries 
that are one of the serious chanllenges to the modern medicine have been performed 
too. All these operations have been hardly learned and applied creatively therefore the 
results achieved better and better. At present, the successful rates were 85 - 90 percent in 
limb replantation and 97 percent in toe to hand transfer and more than 90 percent in free 
flap transfer with many kinds of tissue flaps used. Although nerve transfers in treatment 
of brachial plexus injuries had been only started, they had been achieved encouraging 
results.
Conclusions: Although Viet Nam is being the one of poor countries in the world, 
reconstructive microsurgeries have been applied in trauma and orthopaedic surgeries 
since the late 1980s. Up to now, they are being performed in many hospitals in the 
North, Centre and the South of Viet Nam with many different techniques such as nerve 
repair with microsurgical technique, limb replantation, toe to hand and free flap transfer 
and nerve transfers in treatment of brachial plexus injuries. The achieve results in 
reconstructive microsurgeries are being taken part in creating the new advances in 
trauma and orthopaedic surgeries in our country.
Keyword: Reconstructive microsurgery
Từ những năm giữa thập niên 60, kỹ thuật vi 
phẫu (KTVP - microsurgical technique) đã tạo bước 
phát triển cĩ tính nhảy vọt trong phẫu thuật phục 
hồi. Phẫu thuật phục hồi cĩ sử dụng KTVP được gọi 
là vi phẫu thuật phục hồi (VPTPH - reconstructive 
microsurgery), đảm bảo thực hiện thành cơng những 
phẫu thuật phục hồi hiện đại (modern reconstructive 
surgical procedures) như: khâu nối bàn tay, ngĩn tay 
bị đứt lìa; chuyển ngĩn chân phục hồi ngĩn tay bị cụt 
mất; nối, ghép thần kinh và thậm chí ghép thần kinh 
cĩ nối mạch máu nuơi thần kinh; chuyển vạt tổ chức 
gồm: vạt da, vạt cân, vạt cơ, vạt xương đơn thuần 
hoặc vạt phức hợp những tổ chức này ở dạng tự do 
để điều trị những khuyết hổng tổ chức phức tạp trên 
cơ thể, hoặc để tái tạo dương vật, tái tạo vú trong một 
lần mổ; ghép thần kinh chéo mặt và sau đĩ chuyển 
ghép cơ cĩ chức năng vận động để điều trị liệt mặt; 
chuyển ghép đoạn ruột non để phục hồi thực quản bị 
khuyết hổng; chuyển tinh hồn bị lạc chỗ; nối dương 
vật đứt lìa; nối ống dẫn tinh và ống dẫn trứng; nối 
bạch mạch Những phẫu thuật này khơng thể thực 
hiện được bằng các kỹ thuật ngoại khoa kinh điển. 
Để thực hiện được những phẫu thuật trên, địi hỏi 
phải cĩ đội ngũ phẫu thuật viên được đào tạo căn 
bản theo từng chuyên ngành, những dụng cụ thiết 
yếu đảm bảo cho thực hiện KTVP như: kính hiển vi 
phẫu thuật, dụng cụ phẫu thuật cầm tay chuyên dụng, 
máy đốt lưỡng cực, kim chỉ cực mảnh khơng chấn 
thương loại 9/0 - 11/0 (đường kính sợi chỉ từ 25 - 20 
µm). Khơng chỉ thế, VPTPH đều là những phẫu thuật 
phức tạp, kéo dài nên địi hỏi phải cĩ đội ngũ cán bộ 
và trang thiết bị đảm bảo tốt cho vơ cảm trong mổ, 
hồi sức sau mổ. 
Ở Việt Nam, từ những năm cuối thập niên 80, 
đã nghiên cứu ứng dụng KTVP trong nhiều chuyên 
ngành ngoại khoa, đặc biệt là trong Phẫu thuật Tạo 
hình và Chấn thương Chỉnh hình (CTCH). Cho đến 
nay, nhiều khoa CTCH tại nhiều bệnh viện trong cả 
nước đã thực hiện thành cơng VPTPH, đem lại lợi 
ích to lớn cho bệnh nhân (BN), gĩp phần từng bước 
hội nhập với khu vực và quốc tế.
Phần 4: Phần vi phẫu
271
Hiện nay, với sự phát triển của sản xuất, xây dựng, 
giao thơng thì những tổn thương cĩ chỉ định điều trị bằng 
VPTPH cũng tăng cao. Điều này địi hỏi bác sĩ chuyên 
ngành CTCH cần quan tâm và làm chủ các kỹ thuật về 
VPTPH thuộc chuyên ngành mình.
Trong báo cáo này, xin tổng quan kết quả trong 23 năm 
qua để đồng nghiệp phần nào thấy được sự phát triển của 
VPTPH thuộc chuyên ngành CTCH trong điều kiện thực 
tiễn ở nước ta.
1. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
- Đối tượng: Những bệnh viện trong cả nước cĩ triển 
khai VPTPH từ năm 1990 - 2013.
- Phương pháp: 
+ Thu thập số liệu từ những báo cáo khoa học trong hội 
nghị chuyên ngành và các bài báo được đăng tải trong tạp 
chí hiện cĩ trong tay và thơng tin từ đồng nghiệp.
+ Phân tích từng cơng trình, tổng hợp và đánh giá 
kết quả.
2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ỨNG DụNG VÀ 
PHÁT TRIểN VI PHẪU THUẬT PHụC HờI
Vi phẫu thuật phục hồi ở nước ta bắt đầu từ nối mạch 
máu, thần kinh bằng KTVP, tiếp đĩ là nối chi thể đứt lìa và 
chuyển vạt tự do (bao gồm cả chuyển ngĩn chân phục hồi 
ngĩn tay). Trong 7 năm gần đây là chuyển thần kinh trong 
điều trị tổn thương đám rối thần kinh cánh tay (ĐRCT).
Nối bàn tay, ngĩn tay được tiến hành từ đầu thập niên 
80, ban đầu là tại Bệnh viện TƯQĐ 108, Bệnh viện CTCH 
thành phố Hồ Chí Minh. Từ đầu thập niên 90, Bệnh viện 
TƯQĐ 108 triển khai chuyển vạt tự do để phục hồi tổ chức 
bị tổn khuyết [12]. Đến nay, phẫu thuật nối - ghép thần 
kinh, nối chi thể và chuyển vạt tự do bằng KTVP đã trở 
thành thường quy tại nhiều bệnh viện khắp 3 miền Bắc - 
Trung - Nam [2], [3], [4], [6], [7], [8], [9], [10], [13], [15], 
[17], [18], [19].
Ở miền Bắc, ngồi Bệnh viện TƯQĐ 108, cịn cĩ 
Bệnh viện Việt Đức, Bệnh viện Quân y 103, Viện bỏng 
Quốc gia, Bệnh viện Xanh Pơn, Bệnh viện Việt Tiệp - Hải 
Phịng, Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên.
Ở miền Trung, cĩ Bệnh viện Trung ương Huế, Bệnh 
viện Trường Đại học Y Dược Huế, Bệnh viện Đa khoa Đà 
Nẵng, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Khánh Hịa, Bệnh viện Đa 
khoa Phú Yên, Bệnh viện Đa khoa Đắc Lắc, Bệnh viện Đa 
khoa tỉnh Kon Tum, Bệnh viện Bà Rịa - Vũng Tàu.
Ở miền Nam, ngồi Bệnh viện CTCH thành phố Hồ 
Chí Minh cịn cĩ Bệnh viện Quân y 175, Bệnh viện Chợ 
Rẫy, Bệnh viện Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, 
Bệnh viện Ung bướu thành phố Hồ Chí Minh, Bệnh viện 
Nhân dân Gia Định.
Đặc biệt, từ năm 2006, Viện CTCH - Bệnh viện TƯQĐ 
108 đã tiến hành chuyển thần kinh bằng KTVP để điều trị 
tổn thương hồn tồn hoặc khơng hồn tồn đám rối thần 
kinh cánh tay (ĐRCT). Đến nay, đã điều trị cho hàng trăm 
BN với kết quả phục hồi chức năng vận động và cảm giác 
của chi thể rất khích lệ [5], [16].
2.1. Về phẫu thuật nối chi
Phẫu thuật nối chi được thực hiện khá phổ biến từ những 
năm 1990. Tuy nhiên, từ đầu những năm 2000, liên tục cĩ 
nhiều báo cáo về phẫu thuật nối chi tại hội nghị khoa học và 
được đăng trong tạp chí chuyên ngành. Những báo cáo này 
chủ yếu là của đồng nghiệp cơng tác tại Bệnh viện TƯQĐ 
108, Bệnh viện CTCH thành phố Hồ Chí Minh, Bệnh viện 
Đa khoa Đắc Lắc, Bệnh viện Bà Rịa - Vũng Tàu. 
Năm 2011, Viện CTCH - Bệnh viện TƯQĐ 108 cĩ báo 
cáo khá chi tiết với số lượng lớn về phẫu thuật nối chi 
[17]. Trong báo cáo này, đã thực hiện nối 595 phần chi 
thể cho 388 BN với thành cơng như sau: tỷ lệ chi sống là 
90,3% (537/595), Thành cơng trong nhĩm nối cánh tay, 
cẳng tay là 26/26, nối cổ tay là 98,04% (50/51), nối giữa 
bàn tay là 30/30, nối ngĩn tay cái là 81,2% (108/133), nối 
ngĩn tay dài là 90,72% (313/345). Thành cơng trong nối 
tổn thương bị đứt sắc gọn là 93,77% (256/237), đứt bầm 
dập và đứt giằng giật là 87,27% (281/322). Cĩ 58 phần 
chi nối bị hoại tử, nguyên nhân là: tắc tĩnh mạch: 7 ngĩn 
tay cái và 7 ngĩn tay dài; tắc động mạch: 12 ngĩn tay cái 
và 14 ngĩn tay dài; nhiễm khuẩn: 3 ngĩn tay dài; bỏng 
lạnh: 1 bàn tay do ngâm trực tiếp vào nước đá. Trong số 
những trường hợp thành cơng, cĩ 92 chi nối được phẫu 
thuật sử chữa bổ sung, gồm: khâu lại gân duỗi: 17; gỡ dính 
gân và khớp: 42; kết lại xương hoặc chỉnh trục: 12; đĩng 
cứng khớp: 21. Kết quả xa (> 6 tháng) ở 387 chi nối lại với 
thời gian theo dõi trung bình là 25 tháng theo bảng phân 
loại kết quả của Pho.R.W. H cho thấy: 57,11% (221/387) 
chi thể được nối cĩ chức năng vận động, cảm giác gần 
như bình thường, 35,4% (137/387) là cĩ tác dụng, BN 
chấp nhận được. Cĩ 7,49% (29/387) chi thể sống nhưng 
các khớp bị cứng, khơng cĩ chức năng vận động. Tỷ lệ 
đạt kết quả gần như bình thường ở nhĩm tổn thương đứt 
gọn là 76,02% (130/171), ở nhĩm dập nát và giằng giật là 
42,13% (91/216), sự khác biệt về kết quả ở 2 nhĩm này cĩ 
ý nghĩa thống kê, (p < 0,05). 
Đặc biệt, cĩ 2 đề tài luận án tiến sỹ về phẫu thuật nối 
chi được bảo vệ thành cơng, đĩ là của Phan Đức Minh 
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2012
272
Mẫn cơng tác tại Bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình 
Thành phố Hồ Chí Minh bảo vệ năm 2011 [8] và của 
Nguyễn Việt Nam cơng tác tại Bệnh viện TƯQĐ 108 
bảo vệ năm 2012 [9].
2.2. Về phẫu thuật chuyển vạt tự do
Phẫu thuật chuyển vạt tự do cũng được thực hiện 
khá phổ biến từ những năm 1990 trong chuyên ngành 
Phẫu thuật Tạo hình và CTCH [12], được nhiều bệnh 
viện quan tâm đầu tư phát triển. Trong CTCH, căn 
cứ vào những báo cáo khoa học tại hội nghị và tạp 
chí chuyên ngành, những nỗ lực và thành cơng về 
chuyển vạt tự do phải kể đến Viện CTCH - Bệnh viện 
TƯQĐ 108, Bệnh viện Trung ương Huế, Bệnh viện 
Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, Bệnh viện 
Chợ Rẫy, Bệnh viện CTCH thành phố Hồ Chí Minh. 
Số lượng những báo cáo khoa học và số luận án tiến 
sỹ về chuyển vạt tự cũng là nhiều nhất (gần trăm báo 
cáo khoa học, gần chục luận án tiến sỹ) thuộc VPTPH 
trong CTCH. Cho đến nay, đã cĩ vài chục loại vạt 
khác nhau được sử dụng, trong đĩ cĩ cả chuyển vạt 
cơ kèm theo nối thần kinh nhằm phục hồi vận động 
của chi thể [11].
Trong báo cáo của Viện CTCH - Bệnh viện 
TƯQĐ 108 năm 2011 [17], đã chuyển 471 vạt tự do 
để điều trị 461 khuyết hổng phức tạp ở 458 BN với 
14 loại vạt tại những nơi cho khác nhau và dạng tổ 
chức khác nhau (vạt da đơn thuần, cân đơn thuần, 
cơ đơn thuần, xương đơn thuần, hoặc phức hợp 
của những tổ chức này). Kết quả cho thấy: tỷ lệ vạt 
sống là 96,2% (453/471), hoại tử là 3,8% (18/471). 
Thành cơng trong chuyển vạt phần mềm là 96,2% 
(359/373), chuyển vạt xương là 95,4% (84/88 vạt). 
Tỷ lệ thành cơng giữa các vạt khơng cĩ sự khác biệt 
(p > 0,05). Tất cả 458 BN với 461 khuyết hổng đều 
được kiểm tra, theo dõi, đánh giá kết quả sau mổ từ 
6 tháng - 12 năm (trung bình là 30 tháng) ; kết quả 
đạt được như sau: kết quả tốt (làm liền tổn thương, 
phục hồi được tổ chức bị tổn khuyết, đạt yêu cầu 
về chức năng và thẩm mỹ. Đối với vạt xương, đạt 
liền xương nhanh ở cả hai đầu xương ghép tiếp nối 
với xương nhận theo thời gian liền xương của Merle 
d’Aubigre – 1960) là 96,3% (444/461) trường hợp, 
kết quả vừa (vùng nhận viêm rị kéo dài, phải can 
thiệp để làm liền tổn thương, hoặc vạt to xù - phải 
can thiệp thu gọn vạt, kết quả cuối cùng là làm liền 
được tổn thương. Đối với vạt xương, liền xương 
chậm hoặc khơng liền, phải can thiệp bổ sung để làm 
liền xương) là 2,2% (10/461), xấu (tổn thương khơng 
liền, phải tháo bỏ vạt) là 1,5% (7/461). Kết quả điều 
trị khuyết hổng phần mềm (KHPM) đạt loại tốt là 
97,3% (363/373) trường hợp, điều trị khuyết hổng 
xương (KHX) đạt loại tốt là 92% (81/88 trường hợp). 
Kết quả điều trị KHPM khơng khác biệt so với điều 
trị KHX (p > 0,05). Biến chứng, di chứng tại nơi cho 
vạt: những nơi cho vạt phần mềm và vạt xương mào 
chậu đều khơng cĩ biến chứng hoặc di chứng quan 
trọng về chức phận; ở nơi cho vạt xương mác: cĩ 1 
trường hợp bị hoại tử cơ khu cẳng chân sau do chèn 
ép khoang và 1 trường hợp hoại tử một phần các cơ 
mác do thiểu dưỡng.
Tại Bệnh viện Trung ương Huế, năm 2006 đã báo 
cáo chuyển cơ thon cĩ nối thần kinh vận động để 
phục hồi cơ ở khu vực cẳng tay trước bị khuyết hổng 
nhằm phục hồi vận động của chi thể [11]. 
Trong quá trình nghiên cứu triển khai phẫu thuật 
này, đã cĩ nhiều đề tài luận án tiến sỹ về chuyển vạt 
tự do đã bảo vệ như: ghép xương mác cĩ nối mạch 
nuơi trong điều trị mất đoạn thân xương dài [13]; 
chuyển vạt cơ lưng to để điều trị khuyết hổng phần 
mềm ở chi dưới [4]; chuyển vạt da cân vùng bả vai để 
điều trị khuyết hổng phần mềm ở khu vực cẳng chân 
- bàn chân [6]; tạo hình khuyết hổng da vùng gĩt 
chân bằng vạt cuống liền hoặc tự do [7] và hiện đang 
cĩ 3 đề tài khác về chuyển vạt tự do, đĩ là: chuyển 
vạt cơ thon, chuyển vạt bẹn, chuyển vạt delta trong 
điều trị KHPM ở chi thể.
Phải khẳng định rằng, chuyển vạt tự do để điều 
trị những khuyết hổng phức tạp ở chi thể là một thế 
mạnh trong chuyên ngành CTCH ở nước ta, cứu 
nhiều chi thể khỏi bị cắt cụt.
2.3. Về phẫu thuật chuyển ngĩn chân
Theo dõi y văn trong nước cho đến nay, hiện cĩ 
3 bệnh viện đã triển khai phẫu thuật chuyển ngĩn 
chân phục hồi ngĩn tay, đĩ là: Viện CTCH - Bệnh 
viện TƯQĐ 108, Bệnh viện CTCH thành phố Hồ Chí 
Minh và Viện bỏng Quốc gia. 
Tại Viện CTCH - Bệnh viện TƯQĐ 108, đã thực 
hiện phẫu thuật này từ 1994 và cũng đã cĩ một số 
báo cáo khoa học từ nhiều năm trước [14]. Trong báo 
cáo khoa học năm 2011, cĩ 27 BN được chuyển ngĩn 
chân phục hồi ngĩn tay vởi tỷ lệ thành cơng là 26/27 
BN [17]. Đến nay, con số này là 37 BN với tỷ lệ thành 
cơng là 36/37 BN. Đánh giá kết quả xa (>6 tháng) ở 
32 BN cho thấy: 29/32 BN với ngĩn chuyển cĩ vận 
động gấp và duỗi tốt (biên độ gấp, duỗi như trước khi 
Phần 4: Phần vi phẫu
273
chuyển); 3/29 BN cĩ vận động gấp, duỗi của ngĩn chuyển 
bị hạn chế (2 BN chuyển ngĩn chân thứ hai phục hồi ngĩn 
tay cái và 1 BN chuyển ngĩn chân thứ hai phục hồi ngĩn 
tay giữa); tuy vậy, ngĩn chuyển cĩ tác dụng như một gọng 
kìm và các ngĩn khác với tới được nên chức năng cầm, 
nắm, nhĩn nhặt của bàn tay, của ngĩn tay đạt yêu cầu phẫu 
thuật. Cảm giác đau xuất hiện vào tháng thứ 3, cảm giác 
nĩng - lạnh và xúc giác xuất hiện vào tháng thứ 4 - 5 sau 
mổ. Sau mổ trên 1 năm, cảm giác của ngĩn chuyển phục 
hồi gần như ngĩn lành được thấy ở cả 29/29 ngĩn chuyển. 
Về thẩm mỹ: 7 trường hợp chuyển ngĩn chân cái được thu 
nhỏ để phục hồi ngĩn tay cái đều đạt kết quả tốt về chức 
năng và thẩm mỹ. Tại bàn chân được lấy ngĩn: 25 trường 
hợp lấy ngĩn chân thứ hai và 7 trường hợp lấy ngĩn chân 
cái tới khớp bàn - ngĩn thì BN đi lại trong sinh hoạt và 
lao động bình thường; 5 trường hợp lấy ngĩn chân cái tới 
thân xương bàn gây ảnh hưởng nhiều đến thẩm mỹ của 
bàn chân, đi chân đất ở đường trơn cĩ bị ảnh hưởng do dễ 
bị trượt.
2.4. Về phẫu thuật chuyển thần kinh điều trị thương 
đám rối cánh tay
Điều trị tổn thương ĐRCT do chấn thương kín vẫn 
là một thách thức đối với y học hiện đại, đặc biệt là tổn 
thương nhổ tất cả các rễ ĐRCT khỏi tủy sống. 
Ở Việt Nam, Bệnh viện CTCH thành phố Hồ Chí Minh 
đã cĩ báo cáo chuyển thần kinh XI cho thần kinh cơ bì qua 
đoạn ghép là thần kinh hiển để phục hồi gấp khuỷu, đây là 
chuyển thần kinh ngồi đám rối theo kỹ thuật ghép thần 
kinh kinh điển. Theo báo cáo, kết quả gấp khuỷu đạt được 
rất khích lệ [1]. 
Từ năm 2006, Viện CTCH - Bệnh viện TƯQĐ 108 đã 
triển khai phẫu thuật chuyển rễ thần kinh C7 chéo ngực 
qua thần kinh ghép cĩ nối mạch nuơi trong điều trị tổn 
thương nhổ tất cả các rễ thần kinh của ĐRCT. Đã cĩ báo 
cáo khoa học về chuyển thần kinh trong điều trị tổn thương 
khơng hồn tồn và hồn tồn ĐRCT [5], [16]. Hiện nay, 
chuyển thần kinh bằng KTVP trong điều trị tổn thương 
khơng hồn tồn hoặc hồn tồn ĐRCT đã là thường quy 
tại đây. 
- Về tổn thương khơng hồn tồn ĐRCT, đã phẫu 
thuật cho 45 BN bị tổn thương các rễ C5, C6, ± C7. Trong 
những trường hợp này, BN mất giạng vai, mất gấp khuỷu, 
cịn vận động và cảm giác ở khu vực cẳng tay, bàn tay. 
Mục đích phẫu thuật là phục hồi gấp khuỷu và giạng vai. 
Bệnh nhân được phẫu thuật chuyển thần kinh kép (chuyển 
một vài bĩ sợi vận động của thần kinh trụ cho thần kinh 
vận động cơ nhị đầu cánh tay và một vài bĩ sợi vận động 
của thần kinh giữa cho thần kinh vận động cơ cánh tay) để 
phục hồi gấp khuỷu (Phương pháp Oberlin II) và chuyển 
thần kinh vận động đầu dài cơ tam đầu cho nhánh trước 
thần kinh mũ (Phương pháp Leechavengvongs S) kèm 
theo chuyển thần kinh XI cho thần kinh trên vai để phục 
hồi giạng vai và xoay ngồi cánh tay. Trong số này, cĩ 
35/45 BN cĩ thời gian sau mổ > 6 tháng - 30 tháng (trung 
bình 24 ± 2,8 tháng). Kết quả cho thấy: 
+ Phục hồi gấp khuỷu (n= 35): thời gian từ khi phẫu 
thuật đến khi phục hồi gấp khuỷu đạt M1 là 3 ± 0,6 tháng, 
đạt M3 là: 4 ± 0,8 tháng, đạt M4 là 6 ± 0,7 tháng. Khả 
năng nâng tạ tại thời điểm đánh giá kết quả cuối cùng của 
35 BN đạt sức gấp khuỷu M4 từ 2kg - 15kg (trung bình 
6,5 ± 1,4 kg) ở 34 BN. Phân loại kết quả gấp khuỷu theo 
Samardzic (n= 35): rất tốt: 14/35, tốt: 20/35, trung bình: 
1/35, kém: 0/35.
+ Phục hồi giạng vai (n=14): 11/14 BN cĩ thời gian 
sau mổ từ 12 tháng - 18 tháng. Thời gian từ khi phẫu thuật 
đến khi phục hồi giạng vai đạt M1 là: 9 ± 0,6 tháng, đạt 
M3 là: 12 ± 0,8 tháng, đạt M4 là 16 ± 0,7 tháng. Giạng vai 
ở thời điểm đánh giá kết quả cuối cùng của 11 BN là 1000 
± 500, xoay ngồi của khớp vai là 850 ± 300.
- Về tổn thương hồn tồn ĐRCT: trong những trường 
hợp này, BN mất hồn tồn vận động và cảm giác của chi 
thể. Vì nguồn thần kinh cho rất khĩ khăn nên yêu cầu điều 
trị là: phục hồi giạng vai, gấp khuỷu, gấp cổ tay và các 
ngĩn, phục hồi cảm giác ở khu vực cẳng tay, bàn tay do 
thần kinh giữa chi phối. Trong những trường hợp này, BN 
được chuyển thần kinh XI cho thần kinh trên vai, chuyển 
rễ C7 bên lành cho thần kinh cơ bì, thần kinh giữa và thần 
kinh nách qua đoạn ghép là thần kinh trụ cĩ nối mạch nuơi 
(chuyển rễ C7 chéo ngực).
Đến nay, đã phẫu thuật chuyển rễ C7 bên lành qua thần 
kinh trụ cĩ nối mạch nuơi để điều trị cho 148 BN (130 
nam, 18 nữ) bị tổn thương nhổ, đứt tất cả các rễ ĐRCT. 
Tuổi BN từ 12 - 57 tuổi. Thời gian bị tổn thương đến khi 
được phẫu thuật: 1 - 11 tháng (trung bình là 4,7 tháng). 
Trong số này, cĩ 122/148 BN được chuyển C7 cho thần 
kinh cơ bì và thần kinh giữa, 26/148 BN cĩ kết hợp đồng 
thời với chuyển thần kinh XI cho thần kinh trên vai và 
nhánh cảm giác mu tay của thần kinh trụ cho thần kinh 
nách hoặc nhánh trước thần kinh mũ. Kết quả xa (>18 
tháng) ở 104/148 BN được đánh giá theo các chỉ tiêu của 
Hội đồng nghiên cứu Y học Anh cho thấy:
+ Phục hồi gấp khuỷu (n= 104): tất cả BN (100%) đều 
gấp được khuỷu với các mức sau: M4 là 76 BN (73%), 
M3 là 19 BN (18,7%), M1 - M2 là 9 BN (8,3%), M0 = 0. 
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2012
274
Trong số 76 BN gấp khuỷu đạt mức M4, cĩ 51 BN 
gấp khuỷu một cách độc lập, 25 BN cịn lại cĩ sự 
đồng vận với bên lành.
+ Phục hồi gấp cổ tay, ngĩn tay (n = 54): 54/104 
BN (51,9%) gấp được cổ tay và ngĩn tay với các mức 
như sau: M4 là 3 BN (5,5%), M3 là 17 BN (31,5%), 
M1 - M2 là 34 BN (63%).
+ Phục hồi cảm giác (n = 89): 89/104 BN (85,6%) 
phục hồi cảm giác ở khu vực do thần kinh giữa chi 
phối với các mức như sau: S3 là 31 BN (34,8%), S2 
là 46 BN (51,7%), S1 là 12 BN (13,5%).
+ Phục hồi giạng vai (n = 26): tất cả 26 BN đồng 
thời chuyển thần kinh XI cho thần kinh trên vai và 
một phần thần kinh trụ bắc cầu từ C7 bên lành cho 
thần kinh nách hoặc nhánh trước thần kinh mũ đều 
chưa đủ thời gian để đánh giá kết quả phục hồi.
KẾT LUẬN: 
Việt Nam là một trong những nước nghèo, nhưng 
ngay từ những năm 1980 đã nghiên cứu ứng dụng 
KTVP trong nhiều chuyên ngành, đặc biệt là trong 
Phẫu thuật Tạo hình, CTCH và Phẫu thuật Thần 
kinh. Kết quả đạt được ngày một cao hơn, thể hiện ở 
việc khơng chỉ ứng dụng kỹ thuật một cách xơ cứng 
mà cịn cĩ nhiều sáng tạo nhằm đáp ứng những yêu 
cầu điều trị riêng biệt ở mỗi BN và phù hợp với thực 
tiễn Việt Nam. Kết quả đĩ cịn được thể hiện ở việc 
khơng chỉ triển khai VPTPH ở diện rộng mà cịn cả 
về chất lượng kỹ thuật. Đến nay, nhiều đơn vị CTCH 
ở nhiều bệnh viện trong cả nước đã triển khai thuần 
thục, thường quy phẫu thuật nối - ghép thần kinh, 
mạch máu bằng KTVP, nối chi thể, chuyển vạt tự 
do, chuyển ngĩn chân phục hồi ngĩn tay và cũng cĩ 
bệnh viện triển khai thành cơng nhiều kỹ thuật tiên 
tiến hiện cĩ trên thế giới trong điều trị tổn thương 
ĐRCT. Những thành cơng đĩ gĩp phần quan trọng 
trong sự nghiệp chăm sĩc sức khỏe cho cộng đồng và 
từng bước hội nhập với quốc tế. Đi đơi với thu dung 
điều trị, cơng tác nghiên cứu khoa học và huấn luyện 
đào tạo về phẫu thuật này cũng đạt được nhiều thành 
tựu đáng kể. Đã cĩ gần trăm bài báo về VPTPH được 
cơng bố, gần chục đề tài luận án tiến sỹ đã và đang 
nghiên cứu bảo vệ. Những kết quả đĩ đáng được trân 
trọng và ghi nhận trong tiến trình xây dựng chuyên 
ngành CTCH ở nước ta.
Tài liệu tham khảo
1.	 Võ	Văn	Châu: Chuyển thần kinh XI vào thần kinh cơ 
bì để phục hồi gấp khuỷu trong liệt đám rối cánh tay. 
Thời sự Y Dược học, số 4/2005, trang 195 - 202
2.	 Nguyễn	Viết	Ngọc:	Ngiên cứu giải phẫu thần kinh 
giữa, thần kinh trụ và điều trị đứt hai dây thần kinh này 
ở vùng cẳng tay bằng khâu nối với kỹ thuật vi phẫu. 
Luận án tiến sĩ y học, Hà Nội - 2009
3.	 Trần	Văn	Dương:	Đánh giá kết quả điều trị khuyết 
hổng mơ mềm vùng cẳng bàn chân bằng vạt da bẹn 
tự do. Y Học Thực Hành, số 852 + 853 năm 2012, 
trang 499-503.
4.	 Lê	Văn	Đồn:	Nghiên cứu giải phẫu và ứng dụng lâm 
sàng vạt cơ, da - cơ lung to trong điều trị khuyết hổng 
lớn ở chi dưới. Luận án tiến sỹ y học, Hà Nội - 2003
5.	 Lê	Văn	Đồn,	Chế	Đình	Nghĩa,	Nguyễn	Văn	Phú,	
Nguyễn	Viết	Ngọc,	Ngơ	Thái	Hưng: Kết quả bước 
đầu chuyển thần kinh kép phục hồi gấp khuỷu điều 
trị liệt các rễ trên đám rối thần kinh cánh tay. Tạp chí 
Chấn thuơng Chỉnh hình Việt Nam, Hội nghị khoa học 
thường niên lần thứ XI/ 2012, trang 295 - 302
6.	 Lê	Hồng	Hải:	Nghiên cứu giải phẫu và ứng dụng lâm 
sàng vạt da - cân bả vai, bên bả trong điều trị khuyết 
hổng phần mềm lớn vùng cẳng chân, bàn chân. Luận 
án tiến sỹ y học, Hà Nội - 2005
7.	 Đỗ	Phước	Hùng:	Che phủ và phục hồi chức năng 
khuyết mơ mềm vùng gĩt. Luận án tiến sĩ y học, thành 
phố Hồ Chí Minh - 2004
8.	 Phan	Đức	Minh	Mẫn:	Đánh giá kết quả khâu nối vi 
phẫu thuật ngĩn tay đứt rời. Luận án tiến sỹ y học, 
thành phố Hồ Chí Minh - 2011
9.	 Nguyễn	Việt	Nam:	Nghiên cứu giải phẫu động mạch 
bàn tay, ngĩn tay trong trồng lại bàn tay, ngĩn tay. 
Luận án tiến sỹ y học, Hà Nội - 2012
10.	 Phạm	 Đăng	 Nhật: Điều trị các khuyết hổng phần 
mềm lộ xương vùng cẳng chân do chấn thương tại 
Bệnh viện Trung ương Huế. Tạp chí Y học Thực hành 
số 620+621 (2008), trang 332-345
11.	 Phạm	Đăng	 Nhật:	Nhân một trường hợp chèn ép 
khoang ở cẳng tay bị bỏ sĩt được bảo tồn chi, tạo 
hình bằng ghép xương mác vi phẫu và chuyển cơ 
chức năng. Tạp chí Y học Việt Nam số 2/2010, tập 
374, trang 436-444
Phần 4: Phần vi phẫu
275
12.	 Nguyễn	 Huy	 Phan,	 Nguyễn	 Bắc	 Hùng,	
Nguyễn	Ngọc	Liêm,	Nguyễn	Việt	Tiến: Các 
vạt ghép tự do bằng kỹ thuật vi phẫu trong điều 
trị các tổn khuyết chi dưới do chấn thương. 
Phẫu thuật tạo hình số 1/1993, trang 31-35
13.	 Nguyễn	 Việt	 Tiến:	Nghiên cứu ứng dụng kỹ 
thuật ghép xương mác cĩ nối mạch nuơi trong 
điều trị mất đoạn thân xương dài. Luận án tiến 
sỹ y học, Hà Nội - 1995
14.	 Nguyễn	Việt	Tiến:	 Chuyển ngĩn chân để phục 
hồi ngĩn tay cái bằng kỹ thuật vi phẫu. Y học 
Thực hành số 5-1999, trang 22-24
15.	 Tien	 Nguyen	 Viet: Microvascular Free Flap 
Transplantation for Extremity Reconstruction. 
18th Annual Asia Pacific Military Medicine 
Conference. Singapore 14 – 18 April 2008
16.	 Nguyễn	 Việt	 Tiến: Chuyển rễ thần kinh C7 
chéo ngực quan thần kinh ghép cĩ mạch nuơi 
trong điều trị tổn thương nhổ các rễ đám rối thần 
kinh cánh tay - Kết quả 32 trường hợp. Tạp chí 
Y Dược Lâm sàng 108, Tập 5- số 4/2010, trang 
92 - 98 
17.	 	 Nguyễn	 Việt	 Tiến,	 Lê	 Văn	 Đồn,	 Nguyễn	
Thế	 Hồng,	 Ngơ	 Thái	 Hưng,	 Nguyễn	 Viết	
Ngọc,	Lê	Hồng	Hải,	Lưu	Hồng	Hải,	Nguyễn	
Việt	Nam,	Nguyễn	Văn	Phú,	Chế	Đình	Nghĩa:	
Phẫu thuật nối chi trên, chuyển ngĩn chân 
phục hồi ngĩn tay và chuyển vạt tổ chức tự do 
- Kết quả áp dụng trong 20 năm tại Viện Chấn 
thương - Chỉnh hình, Bệnh viện TƯQĐ 108. Tạp 
chí Y Dược Lâm sàng 108, Tập 6 - Số đặc biệt 
3/2011, trang 238 - 245
18.	 Nguyễn	Anh	Tuấn:	Che phủ khuyết da bàn tay 
bằng vạt da cuống mạch liền và hoặc vạt tự do 
nối mạch vi phẫu . Luận văn cao học, thành phố 
Hồ Chí Minh - 1998
19.	 Tuan	Anh	Nguyen	(2008):	Soft Tissue Coverage 
at the Resource-challenged Facility. Clin Orthop 
Relat Res, Springer, Vol 466:2451-2456

File đính kèm:

  • pdfvi_phau_thuat_phuc_hoi_trong_chan_thuong_chinh_hinh_o_viet_n.pdf