Ví giặm xứ Nghệ từ truyền thống đến hiện đại
Ví giặm là một sản phẩm văn hóa độc đáo của đất và người xứ Nghệ, được UNESCO vinh danh là “Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại”. Tuy nhiên, có một thực tế là ví giặm đang bị mai một và đứng trước nguy cơ bị mất dần trong đời sống văn hóa hiện đại. Trên cơ sở phân tích những đặc điểm cơ bản của ví giặm trong truyền thống văn hóa xứ Nghệ, bài viết đã đề xuất những giải pháp bảo tồn, phát triển ví giặm theo nguyên tắc kết hợp hài hòa giữa bảo tồn và phát triển, truyền thống và hiện đại, dân tộc với nhân loại.
Bạn đang xem tài liệu "Ví giặm xứ Nghệ từ truyền thống đến hiện đại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ví giặm xứ Nghệ từ truyền thống đến hiện đại

Ví giặm xứ Nghệ từ truyền thống đến hiện đại Folk (purse and down) from ancient times to modern times PGS.TS. Nguyễn Văn Hạnh Trường Đại học Vinh Assoc.Prof.Ph.D. Nguyen Van Hanh Vinh University Tóm tắt Ví giặm là một sản phẩm văn hóa độc đáo của đất và người xứ Nghệ, được UNESCO vinh danh là “Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân lo ại”. Tuy nhiên, có một thực tế là ví giặm đang bị mai một và đứng trước nguy cơ bị mất dần trong đời sống văn hóa hiện đại. Trên cơ sở phân tích những đặc điểm cơ bản của ví giặm trong truyền thống văn hóa xứ Nghệ, bài viết đã đề xuất những giải pháp bảo tồn, phát triển ví giặm theo nguyên tắc kết hợp hài hòa giữa bảo tồn và phát triển, truyền thống và hiện đại, dân tộc với nhân lo i. Từ khóa: Ví Giặm, truyền thống và hiện đại... Abstract Vi Giam (sing for and sing miles Nghe Tinh) is a special cultural product in Nghe Tinh province, honored by UNESCO as “Intangible Cultural Heritage” of humanity. However, there is a fact that Vi Giam has fallen into oblivion and been at risk of being lost in modern cultural life. By analyzing the basic characteristics of Vi Giam, this article proposes solutions for conservation and development of Vi Giam based on the principle of harmonious co-ordination between conservation and development, tradition and modernity, the nation and humanity. Key-words: Vi Giam, tradition and modernity. Cũng như nhi ều quốc gi a Đ ông Nam Á, ở Việt Nam, văn hóa dân gi an luôn gi ữ một vài trò quan trọng trong tiến trình hình thành và phát triển v ăn hóa dân tộ c . Đ i ều này có nguồn gốc trong cơ tầng v ăn hóa và cấu trúc xã hội của cư dân nông nghi ệp lúa nước. Không thể nào hiểu được v ăn hóa Việt Nam, hay hẹp hơn là văn hóa một vùng miền, nếu không bắt đầu từ v ăn hóa dân gian. Với hàng ngàn năm hình thành và phát triển, cộng đồng cư dân xứ Nghệ đã ki ến tạo nên một vùng v ăn hóa dân gi an phong phú, đa d ạng trên cả hai lĩnh vực văn hóa ti nh thần và văn hóa vật chất. Trong đó, ví, giặm được xem là một “đặc sản”, một đi ểm nhấn đặc sắc, góp phần làm nên dấu ấn văn hóa xứ Nghệ trong đời sống văn hóa Vi ệt Nam. Cũng như các loại hình văn hóa dân gi an khác ở Việt Nam, ví, giặm xứ Nghệ được hình thành và phát tri ển trong môi trường v ăn hóa nông nghi ệp lúa nước . Sự ảnh hưởng của nền v ăn hóa ấy có thể thấy ở cách thức tổ chức, nội dung và hình thứ c thể hiện . N ghĩa là nó không vượt ra ngoài quỹ đ ạo của dân ca, dân vũ . Tuy nhiên, là sản phẩm văn hóa của đất và người xứ Nghệ, ví, giặm có những đặc trưng ri êng, rất riêng, khu biệt với dân ca các vùng miền trên cả nước. Không gian văn hóa của ví, giặm trải dài, phủ rộng trên địa bàn hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, từ miền núi đến đồng bằng ven biển và hai bên bờ sông Lam. Ra khỏi vùng đất xứ Nghệ, chia tách khỏi người Nghệ, ví, giặm khó tồn tại, phát triển . Đây là một nét riêng, rất riêng của ví, giặm, cho thấy bên c nh khung cảnh thiên nhiên, tâm hồn điệu sống, sinh ho ạt văn hóa của cư dân xứ Nghệ có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành, phát triển của ví, giặm. Nói cách khác, sinh quyển của ví, giặm đ ợc t o nên từ tâm hồ , đ ệu sống của đất và người xứ Nghệ. Mất những yếu tố đó, ví, giặm không có cơ sở để tồn tại, phát triển. Một đặc điểm nổi bật của văn hóa truyền thống Việt Nam là làng xã luôn giữ một vai trò quan tr ng trong việc hình thành và bảo tồn các giá trị văn hóa cộng đồng. Quan hệ xã hộ i của người Vi ệt Nam chủ yếu là quan hệ dòng tộc, láng giềng . Làng không chỉ là đơn vị hành chính mà còn là nơi lưu truyền ngôn ngữ và văn hoá dân gian, nền tảng của ngôn ngữ và văn hóa dân tộc . Cây đa, bến nước, sân đình là những hình ảnh thân quen, trở thành biểu tượng đặc trưng của làng quê V iệt Nam . Nếu văn hóa, văn học dân gian luôn thể hiện một khát v ng và ý thức dân chủ của người bình dân, thì ví, giặm là một điển hình. Ở đó không có luật lệ nghiêm nhặt, không có phân biệt trên dưới, sang hèn, và không có những điều cấm kỵ. Sự phóng túng trong tư tưởng được thể hiện ở ngôn từ, ở sự bình đẳng, gần gũi trong hình thức xưng hô . Trong di ễn xướng, người hát thường sử dụng từ xưng hô ở ngôi thứ nhất, thứ hai số ít; dùng từ xưng hô mang tính định danh cụ thể ; đưa tên riêng của các vai giao tiếp vào lời hát; dung nạp nhiều ngôn từ mộc mạc, dân dã . Đ iều này đã góp phần xóa đi khoảng cách, tôn ti, phá vỡ tính khép kín của xã hội truyền thống. Có thể nói, đó là một phương thức giao tiếp độc đáo, đặc sắc ở các làng quê xứ Nghệ truyền thống. Nhiều giá trị tinh thần nhờ đó được lưu giữ và phát triển. Là một thể lo i dân ca không có nh c đệm, ví, giặm đ ợc cấu thành bởi ba yếu tố: l ời ca, giai điệu, phương thức diễn xướng. Hồn cốt và sự độc đáo của ví, giặm đều được thể hiện ở đó . Theo Nguyễn Đổng Chi, Thái Kim Đỉnh, ví, giặm trở thành một hình thức sinh ho ạt văn hóa phổ biến ở xứ Nghệ từ thế kỷ XVIII. Nếu điều đó là xác thực, thì đến nay, ví, giặm đã có một lịch sử tồn tại và phát triển hơn hai thế kỷ. Đó là khoảng thời gi an chưa dài, song đã đủ để ví, giặm định hình, thấm sâu vào đời sống tinh thần của con người xứ Nghệ. Không gian, thời gian diễn xướng của ví, giặm gắn với lao động, không có những mùa, những lễ hội riêng như hát xoan Phú Thọ , hát quan họ Bắc Ninh. Ví, giặm không có nghệ nhân, truyền nhân, không có làng truyền thống theo đúng nghĩa của những từ này. Những tên người, tên làng được nhắc đến không gợi tính chuyên nghiệp, mà chỉ mang ý nghĩa nổi bật, tiêu biểu cho hát ví, giặm . Nó đơn giản chỉ là cuộc chơi, thú chơi mộc mạc, dân dã, nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần của người dân xứ Nghệ. Cách gọi tên, phân lo ại, cũng chỉ là tương đối, dựa trên nghề nghiệp của chủ thể diễn xướng, như: ví phường vải , ví đò đưa, ví phường nón, ví phường cắt tranh, ví trèo non, ví phường bện võng, ví phường vàng, ví phường róc cau, ví phường lau mía, ví phường chắp gai đan lưới, ví phường củi, ví phường cỏ, ví phường măng, ví phường bẻ chè, ví phường bẻ ngô, ví phường buôn, ví phường nhổ mạ, ví phường gặt ... Gắn với mỗi dòng sông, mỗi chuyến đi lại có cách gọi riêng, như: ví sông Phố, ví đò đưa sông La, ví đò đưa sông Lam, ví đò đưa xuôi dòng, ví đò đưa nước ngược... Sự khác biệt trong gi ai điệu, khúc thức âm nhạc giữa các loại ví đó là không nhiều. Thời gian, môi trường diễn xướng của ví giặm không có những mùa, những lễ hội riêng mà gắn với lao động, tuỳ vào công việc lao động . Chẳng hạn, ví phường vải thường diễn ra vào ban đêm, kéo dài thâu đêm suốt sáng ở trong làng; ví đò đưa diễn ra trong không gian trên bến dưới thuyền, hoặc giữa các thuyền trên sông nước; ví phường gặt, ví phường nhổ mạ, ví phường cấy thường diễn ra trên đồng ruộng, hay những đêm trăng khi công việc đồng áng của một ngày đã kết thúc... Hoàn cảnh diễn xướng, hoặc mang tính ngẫu hứng đối cảnh sinh tình, hoặc gắn với những đêm hát phường, hát hội. Với những đặc điểm đó, ví, giặm có một khả năng phổ biến, lan tỏa nhanh, mạnh trong cộng đồng cư dân xứ Nghệ. Có thể xem đây như một “thú chơi” của những người bình dân, hoặc những nhà nho chuộng lối sống bình dân: hồn nhiên, mộc mạc, lạc quan yêu đời, lấy tình làm trọng, lấy nghĩa làm đầu. Trong số hơn 20 hình thức hát ví của dân ca xứ Nghệ, ví phường vải và ví đò đưa được xem là hai hình thức tiêu biểu, đặc sắc nhất. Từ rất sớm, một cộng đồng người Nghệ đã hình thành và định cư, c anh tác quanh lưu vực sông Lam. Gắn với nó là sự ra đời của nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt vải và nghề sông nước. Những chuyến đò ngược xuôi trên sông Lam, sông La không chỉ để trao đổi, lưu thông hàng hóa giữa những vùng miền ở xứ Nghệ, mà còn chở những câu hò , điệu ví đối đáp giữa trai gái trên bến dưới thuyền. Ở đó có những lời ca, những lối nói đã trở thành mòn sáo, được di ễn l ại, và có cả những lời ca được ứng tác trong quá trình di ễn xướng. Tài năng, hồn cốt của người hát được thể hiện rõ nhất ở l i ca, gi ng hát, chứ không phải là khúc thức âm nhạc . Đ ó là một cuộc chơi, mà những người chơi không cần nhìn rõ mặt, không cần biết thân phận của nhau, và không có gì phải ràng buộc. Ở đó có cả những ý tứ, nỗi niềm được trao gửi và có cả những câu hát bông đùa, tếu táo, thể hiện sự chất phác, hồn nhiên của người dân lao động. Tất cả đều bình đẳng, tự do. Cũng có đặc điểm tương tự là ví phường vải, một hình thức sinh ho ạt văn hóa dân gian gắn với nghề trồng dâu, nuôi tằm dệt vải, thường diễn ra ở những nơi non nước hữu tình. Ở xứ Nghệ, ví phường vải tập trung và nổi tiếng nhất là Nam Đàn, Đô Lương, Q uỳnh Lun (Nghệ An) và Đức Thọ , Can Lộc , Kỳ Anh (Hà Tĩnh) . Cũng như các hình thức dân ca nói chung, nội dung của ví phư ờng vải mang đậm tính trữ tình. Tuy nhi ên, do có sự tham gia của các trí thức nho học nên ví phường vải có những đặc tính riêng. Lời ca được trau chuốt, sử dụng nhiều đi ển tích, chơi chữ, ẩn ý, quy cách, hình thức phức tạp, chặt chẽ hơn . Ở đó c ó sự pha trộn ít nhiều giữa văn hóa bác họ c và văn hóa bình dân do sự tham dự của c ác nhà nho . Đ ây được xem là những điểm khác nhau cơ bản giữa hát ví phường vải với các thể hát ví khác trong dân ca xứ Nghệ. Vai trò của các nhà nho trong cuộc hát là người đặt lời, dẫn dắt, còn di ễn xướng vẫn là những nam thanh, nữ tú bình dân . Nói c ách khác đó là quá trình dân gian hóa những sáng tác bác h c. Thông qua hình thức hát đố i đáp, người hát đã dân gian hóa một số hình thức nghệ thuật được coi là sản phẩm của văn học bác họ c như hình thức đố chữ, cách dùng dẫn ngữ là đi ển tích văn chương . . . Đ i ều này không chỉ làm phong phú, sâu sắc hơn văn hóa dân gian mà còn góp phần làm tươi mới, sống động hơn cho văn chương bác học, khi tác giả của nó - những nhà nho, được tắm gội trong nguồn mạch dân gian. Sáng tác của họ , nhờ đó phóng túng, tự do hơn. Cũng như dân ca của nhiều vùng, miền trong cả nước , phương thức diễn xướng của ví, giặm vừa có hát lẻ (hát một mình, không cần tuân thủ lề lối, mang tính ngẫu hứng khi đang lao động, hoặc nghỉ ngơi) , hát cuộc (hay còn gọi là hát lề lối , thủ tục với nhiều người tham gia, diễn ra quy mô với hình thức đố i ca nam nữ) . Dù hát trên sông, trên đồng ruộng, trên bến dưới thuyền, hay bên khung cửi sau lũy tre làng . . . thì không gian diễn xướng bao trùm của ví giặm vẫn là không gian làng quê, gắn với ba yếu tố cơ bản là nông thôn, nông nghiệp, nông dân. Ví, giặm không có sự phong phú về làn điệu như dân ca đồng bằng Bắc Bộ, nhưng giai điệu của ví, giặm lại có sức mê hoặc, ám ảnh đến lạ lùng. Theo cách nói của nhạc sĩ An Thuyên, đó là “nỗi buồn thăm thẳm tận đáy” thể hiện cái khí chất, tính cách, hồn cốt của con người xứ Nghệ. Những câu ví mượt mà, đằm thắm không chỉ thể hiện nỗi niềm, trao gửi niềm thương nỗi nhớ, làm vợi đi sự vất vả của công việc đồng áng, mà còn gắn kết tình làng nghĩa xóm, đưa con người xích lại gần nhau. Sự phong phú, đặc sắc và khả năng bảo tồn, lan tỏa của ví, giặm đều gắn với làng quê. Ca từ của ví, giặm nhìn chung là mộc mạc, dân dã, gần ngôn ngữ đời sống, ngoại trừ một số không nhiều do các nhà nho đặt lời mang tính bác học thông qua lối chơi chữ, sử dụng nhiều điển tích, điển cố trong kinh sách. Về nguồn gốc, ca từ ví, giặm được hình thành trong quá trình lịch sử, gắn với lao động và đời sống tinh thần của cư dân xứ Nghệ. Ở đó, có những ca từ do người Nghệ sáng tác, và những ca từ được “Nghệ hóa”, “dân gian hóa” từ vốn ca từ có sẵn, tạo nên một hệ thống ca từ phong phú, đặc sắc vào lo i bậc nhất trong kho tàng dân ca Việt Nam. Ca từ ví, giặm mang đậm chất thơ, một chất thơ toát ra từ tình yêu cuộc sống; từ lối cảm, lối nghĩ chân chất, thực lòng của con người xứ Nghệ, những con người luôn sống với tận cùng niềm vui và nỗi buồn, hạnh phúc và khổ đau . N ét nổi bật của ca từ ví, giặm, là sử dụng nhiều phương ngữ, gắn với cách dùng từ, phát âm rất riêng của người Nghệ, chỉ có ở người Nghệ, người vùng khác khó bắt chước, học theo. Ở đó vừa có phương ngữ địa lý, vừa có phương ngữ xã hội gắn với tập quán, nghề nghiệp, giới tính, tuổi tác... của những người diễn xướng, được thể hiện trên nhiều phương diện, như: cách sử dụng từ ngữ, nhất là từ xưng hô, từ chỉ không gian, thời gian, từ chỉ công việc ; cách sử dụng nghệ thuật chơi chữ (nói lái, đồng âm, đồng nghĩa . . . ) . Với đặc điểm đó, việc phổ thông hóa tiếng Nghệ trong ví, giặm, vô hình trung đã làm mất đi rất nhiều nét riêng, đặc sắc của ví, giặm, cho dù đó là một xu thế tất yếu của quá trình hội nhập văn hóa. Đây là một nghịch lý, một thách thức đối với quá trình bảo tồn phát triển ví, giặm trong xu thế hội nhập ngày nay. Làm thế nào để kết hợp hài hòa màu sắc địa phương và tính phổ thông của ca từ ví, giặm? Đó quả là điều không d . Thành công của Nguy n Trung Phong trong Giận mà thương (1967) có thể xem là một mẫu mực của sự kết hợp này. So với nhiều sinh ho ạt văn hóa dân gian khác, khả năng "thành thị hóa" của ví, giặm là rất ít . Đây là một thách thức cho việc bảo tồn, phát triển ví, giặm trong bối cảnh đô thị hóa ngày càng mạnh mẽ như ngày nay. Không gian làng quê truyền thống đã bị phá vỡ. Lối sống, thị hiếu thẩm mỹ, nhu cầu văn hóa của con người, nhất là giới trẻ, cũng đã khác trước . Con người cộng đồng trong văn hóa truyền thống đã được thay bằng con người cá nhân, cá tính. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống được nhận thức lại và mất dần vị thế trong ý thức cộng đồng. Tình trạng khép kín với tính chất tự cung tự cấp của làng quê truyền thống đã được thay thế bằng giao lưu, hội nhập, hợp tác giữa các vùng miền, và xa hơn là quốc tế. Sinh ho ạt văn hóa, nhu cầu tinh thần của con người cũng trở nên phong phú, đa dạng và có khả năng được đáp ứng theo nhiều hình thức khác nhau. Theo đó, những câu ví, giặm ngày càng thưa, vắng dần trong sinh ho ạt văn hóa nơi làng quê xứ Nghệ. Văn hóa có tính bền vững. Nó là sản phẩm của con người, tồn tại trong đời sống của con người, gắn với con người, góp phần làm nên giá trị của con người. Sự phát triển của khoa h c công nghệ và giao lưu hội nhập trong đ ời sống hiện đại đã phá vỡ tình tr ng khép kín, biệt lập của các vùng văn hóa. Đó là một xu thế tất yếu. Quan niệm về bản sắc văn hóa cũng cần phải thay đổi. Bảo tồn các giá trị truyền thống không đồng nghĩa với phục cổ mà phải làm cho nó tươi mới hơn, phù hợp với nhu cầu của con người hiện đại. Một tâm lý phổ biến của con người, đặc biệt là ở các nước có nền văn hóa nông nghiệp như V iệt Nam, thường dị ứng với cái mới, dị ứng với cái khác. Niềm tự hào về truyền thống luôn gắn liền với nỗi lo lắng về sự mất đi cái cũ. Trong khi đó, yêu cầu đặt ra cho nền văn hóa hiện đại là bên cạnh giá trị truyền thống phải hướng tới những giá trị phổ quát của nhân loại. Nếu xét theo yêu cầu đó, việc bảo tồn các giá trị văn hóa tinh thần truyền thống như ví, giặm cần phải có một chiến lược tổng thể. Duy ý chí, chủ quan, thực dụng... là hiểm họa, nguy cơ làm băng ho ại các giá trị văn hóa truyền thống, trong đó có ví, giặm. Làm thế nào để bảo tồn phát triển ví, giặm? Những yếu tố nào của ví, giặm có thể bảo tồn, phát triển trong đời sống hiện đại? Bảo tồn phát triển bằng cách nào? Đó là những vấn đề cần được nghiên cứu một cách thấu đáo, sâu sắc . Đ ể làm được điều đó, theo chúng tôi, trước mắt cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau đây: Thứ nhất, cần có một cuộc "kiểm kê" toàn diện di sản dân ca, ví, giặm thông qua những cuộ c sưu tầm, điền dã một cách bài bản, hệ thống trên địa bàn hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh. Đây là công việc đã được một số nhà nghiên cứu tiến hành từ những thập niên sáu mươi , bảy mươi của thế kỷ trước. Tuy nhiên, liệu đó đã phải là tất cả di sản ví, giặm? gần nửa thế kỷ với bao đổ i thay của cuộc sống, con người xứ Nghệ, thực tr ng của ví, giặm hiện nay ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh là như thế nào? Những gì còn, những gì đã mất? Có những gì mới được sinh thành? Tất cả những điều đó chỉ được trả lời thỏa đáng dựa trên những kết quả điều tra toàn diện, đồng bộ. Thứ hai, là một di sản văn hóa tinh thần, ví, giặm có đời sống riêng, không nằm trong những cuốn sách, bản nh c in đẹp được lưu giữ trong các thư viện. Ví, giặm sinh tồn gắn với cuộc sống của người dân. Do vậy cần bảo tồn, phát triển dân ca, ví, giặm thông qua việc khôi phục phong trào sinh ho ạt văn hóa dân gian ở các làng quê xứ Nghệ, mà ở đó những câu lạc bộ dân ca là nòng cốt . Đ ề ho ạt động này được duy trì, phát triển nhất thiết phải có sự hỗ trợ từ phía nhà nước cả về chủ trương, chính sách và kinh phí. Thứ ba, cùng với việc khôi phục sinh hoạt hát dân ca, ví, giặm ở c ác địa phương, cần phải đưa dân ca ví, giặm thành một nội dung của môn Địa phương học trong các trường phổ thông, Cao đẳng, Đại học trên địa bàn hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh . 'Thứr tư, cần có sự đầu tư chiều sâu, bài bản trong việc sân khấu hóa dân ca, ví, giặm. Ở đó, phải kết hợp nhuần nhuyễn giữa bảo tồn và phát triển cả về hình thức, không gian diễn xướng và ca từ, gi ai đi ệu, tránh lối trình di ễn mang tính minh họa. Thứ năm, cần có chiến lược đưa dân ca, ví, giặm trở thành một nội dung trong du lịch văn hóa xứ Nghệ. Tuy nhiên, cần tránh lối thương mại hóa, làm biến tướng dân ca, ví, giặm. Thứ sáu, cùng với quá trình xây dựng, phát triển đất nước, những cộng đồng người Nghệ đã hình thành ở nhiều nơi, trong và ngoài nước. Ở đó ti ếng nói Nghệ, nhiều phong tục tập quán của n g ười Nghệ vẫn được bảo tồn. Nhiều sinh ho ạt văn hóa dân gian của người Nghệ có thể mất đi, song những làn điệu dân ca, ví, giặm vẫn tồn tại . Theo đó, ví, giặm đã vượt ra ngoài không gian xứ Nghệ, tái sinh, cộng sinh trong những sinh ho ạt văn hóa của nhiều vùng miền trên cả nước, và cả ở những cộng đồng người Nghệ ở nước ngoài . Đây là thế mạnh của dân ca, ví, giặm cần được khai thác, phát huy. Xu thế hội nhập của văn hóa hiện đại mở ra cho ví, giặm một khả năng tham gia mạnh mẽ vào tiến trình văn hóa dân tộc, và xa hơn là văn hóa nhân lo ại. Sự sàng lọc của thời gian, đổi thay của cuộc sống là những thử thách nghiệt ngã đối với các di sản văn hóa của nhân lo ại. Ví, giặm chỉ tồn tại, phát triển khi được tái tạo, hội nhập, góp phần thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người trong đ ời sống hiện đ ại. Tất cả những điều đó phụ thuộc vào tầm nhìn, ý thức trách nhiệm của các cấp quản lý và của mỗi người dân xứ Nghệ. TÀI LIỆU THAM KHẢO Đào Duy Anh (200 1 ), Từ điển Hán Việt, Nxb Khoa học Xã hộ i, Hà Nộ i . Nguyễn Chung Anh ( 1 958), Hát ví Nghệ Tĩnh, Nxb Văn s ử Địa. Phan Huy Chú ( 1 997), Hoàng Việt dư địa ch í, Nxb Thuận Hóa. Lê Hàm và tập thể tác giả (2000), Ẵm nhạc dân gian xứ Nghệ, Hộ i Văn nghệ dân gian Nghệ An . B ùi Dương Lị ch ( 1 993), Nghệ An kí, Nxb Khoa học Xã hộ i, Hà Nộ i . Phan Ngọc ( 1 994) , Văn hoá Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb Văn hóa, Hà Nộ i . Nhiều tác giả (2001), Văn hóa học và văn hóa thế kỷ XX, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia, Viện Thông tin Khoa học xã hội. Vi Phong ( 1 992), “Đôi điều về hát ví và sức mở của dân c a Nghệ Tĩnh”, Nghiên cứu văn học nghệ thuật, (số 6 ), tr . 32-37. Lê Chí Quế ( 1 990), Các thể loại trữ tình dân gian, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nộ i . Trần Ngọc Thêm ( 1 997), Tìm về bản sắc văn h oá Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh . Ngày nhận bài: 18/3/2016 B iên tập xong: 15/5/2016 Duyệt đăng: 20/5/2016
File đính kèm:
vi_giam_xu_nghe_tu_truyen_thong_den_hien_dai.doc
69_5509 (1)_2216597.pdf