Về văn hóa ẩm thực của người Mạ ở Lâm Đồng

Người Mạ là một dân tộc bản địa cư trú tập trung ở tỉnh Lâm Đồng. Nghiên cứu văn hóa ẩm thực của người

Mạ nhằm góp phần tìm hiểu thêm về lĩnh vực văn hóa tộc người, về địa phương Lâm Đồng và về vùng văn hóa Tây Nguyên. Bài viết tìm hiểu những biểu hiện của văn hóa ẩm thực trong truyện kể dân gian, trong văn vần dân gian

Mạ như nguồn gốc thức ăn, thức uống; về cái ăn, cái đói và giấc mơ no đủ; về motif ăn năm uống tháng và lễ ăn trâu. Bên cạnh đó, bài viết cũng giới thiệu vài nét về văn hóa ẩm thực Mạ ngày nay và những sự đổi thay của nó.

pdf 4 trang phuongnguyen 100
Bạn đang xem tài liệu "Về văn hóa ẩm thực của người Mạ ở Lâm Đồng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Về văn hóa ẩm thực của người Mạ ở Lâm Đồng

Về văn hóa ẩm thực của người Mạ ở Lâm Đồng
VỀ VĂN HÓA ẨM THỰC CỦA NGƯỜI MẠ Ở LÂM ĐỒNG
TÓM TẮT 
Người Mạ là một dân tộc bản địa cư trú tập trung ở tỉnh Lâm Đồng. Nghiên cứu văn hóa ẩm thực của người 
Mạ nhằm góp phần tìm hiểu thêm về lĩnh vực văn hóa tộc người, về địa phương Lâm Đồng và về vùng văn hóa Tây 
Nguyên. Bài viết tìm hiểu những biểu hiện của văn hóa ẩm thực trong truyện kể dân gian, trong văn vần dân gian 
Mạ như nguồn gốc thức ăn, thức uống; về cái ăn, cái đói và giấc mơ no đủ; về motif ăn năm uống tháng và lễ ăn 
trâu. Bên cạnh đó, bài viết cũng giới thiệu vài nét về văn hóa ẩm thực Mạ ngày nay và những sự đổi thay của nó.
Từ khóa: Người Mạ, văn hóa ẩm thực. 
ABSTRACT
A study of Ma ethnic group’s food and beverage in folk literature
Ma ethnic group is one of the native minorities who lived in Lam Dong Province. Studying about culinary prac-
tice of Ma Minority, we can shed light on the cultures of other ethnic groups, Lam Dong Province and highland 
region. This current study research investigates the culinary practice via Ma’s folk tales, folk poems, including 
origins of food and beverage, about food, famine and dreams for prosperous livings; motif in eating and drinking a 
lot, buffalo-eating festival. Besides, this research study also introduces present food and beverage practices of Ma 
Minority and its changes. 
Keywords: Ma ethnic, food and beverage. 
Lê Hồng Phong 
Trường Đại học Đà Lạt
phonglh@dlu.edu.vn 
Ngày nhận bài: 12/01/2016; Ngày duyệt đăng: 10/3/2016
1. Đặt vấn đề 
Người Mạ là một dân tộc bản địa cư trú tập 
trung ở tỉnh Lâm Đồng. Nghiên cứu văn hóa ẩm 
thực của người Mạ nhằm góp phần tìm hiểu thêm 
về lĩnh vực văn hóa tộc người, về địa phương 
Lâm Đồng và về vùng văn hóa Tây Nguyên. Văn 
học dân gian là một loại hình nghệ thuật mang 
đặc trưng nguyên hợp, nó hàm chứa những thành 
tố văn hóa khác nhau làm nên giá trị văn hóa bên 
cạnh giá trị văn học; là văn hóa ngôn từ nhưng 
văn học dân gian lại lưu giữ những dấu vết của 
loại hình văn hóa khác, ở đây là văn hóa ẩm 
thực. Bài viết tìm hiểu những biểu hiện của văn 
hóa ẩm thực trong nội dung văn học dân gian 
Mạ và giới thiệu vài nét về văn hóa ẩm thực Mạ 
ngày nay.
2. Văn hóa ẩm thực trong truyện kể dân 
gian Mạ
2.1. Về nguồn gốc thức ăn, thức uống
Trong kho tàng truyện kể người Mạ có những 
huyền thoại về nguồn gốc sự vật, trong đó dân 
gian đã giải thích nguồn gốc lương thực, thực 
phẩm, chẳng hạn các truyện: Lúa, bắp, cà, ớt; 
Muối, sắt, cá; Nguồn gốc rượu cần... Huyền 
thoại cho biết mẹ Ka Grup (hoặc Ka Rup) lấy 
chồng Kon Chau (Con Người), đẻ ba chàng trai, 
ba chàng trai nói sau này sẽ có muối, sắt, cá... 
Mọi người trong làng cho đó là chuyện lạ, đã 
nghi ngờ ba người đó là malai. Họ buộc phải 
chết và xin được chết ở những miền khác nhau, 
hóa thân thành ba vật lạ cần thiết cho cư dân 
sau này là muối, sắt, cá. Hoặc huyền thoại khác 
cho biết mẹ Ka Grau đã ngủ mơ thấy ông già bỏ 
vào tay mình những thứ hạt giống lạ, tỉnh dậy có 
hạt giống, gieo xuống đất thì mọc lúa, bắp, cà, 
ớt. Đó là truyện về nguồn gốc lương thực, thực 
phẩm, gia vị.
2.2. Về cái ăn, cái đói và giấc mơ no đủ
Trong truyện kể dân gian, các hành động kinh 
tế chiếm đoạt xảy ra trong rừng, trên rẫy, dưới 
suối nhằm săn, bắt, hái, lượm. Phương thức kinh 
tế nguyên thủy ấy còn để lại dấu vết trong truyện 
kể dân gian Mạ. Nhân vật đi săn nai, khỉ, dọc; 
đi bắt cá, thuốc cá dưới suối bằng vỏ cây, đi đặt 
pàm (đó) đơm cá; đi hái đọt mây, đọt bí, chặt 
măng, đào củ mài; hái dưa, dừa, đu đủ... Tên 
nhiều nhân vật và hình dáng nhân vật cũng phảng 
phất nét ẩm thực truyền thống của cư dân “ăn 
rừng”: nàng Dưa, chàng Dừa, chàng Xoài, chàng 
Đu đủ, chàng Tôm, chàng Cóc, chàng Chuối...
Trong truyện kể dân gian Mạ có nói đến cái đói, 
sự thiếu ăn, thiếu lúa gạo, nhất là khi kể về cảnh 
ngộ của nhân vật mồ côi. Cái đói được giải thích 
là sau khi có hạt lúa thần trời cho hoặc thần cho, 
hạt to hay hạt nhỏ nhưng khi nấu thì nở ra nhiều 
cơm, mỗi lần chỉ cần nấu bảy hạt gạo. Cháu nhỏ 
không nghe lời bà dặn, hoặc nghe lời xui bậy của 
ma quỷ nên nấu quá nhiều gạo, từ đó hạt lúa nhỏ 
lại, hạt gạo không nở to, người dân bị đói, phải 
làm nhiều mà vẫn không đủ ăn. Cũng có khi, do 
xung đột, người ngoài lấy mất cái chóe gạo, gạo 
bỏ đi... Cùng với việc làm ra cái ăn là làm ra thức 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN SỐ 11 - THÁNG 5/2016
30
uống, nhất là rượu cần. Truyện kể dân gian cho 
rằng việc biết làm và biết uống rượu cần là do 
nhím bày cho người. Truyện kể dân gian cũng đề 
cập đến giấc mơ ẩm thực. Nhân vật K’Bâu đói 
khát, vừa ngủ vừa nói mơ rằng mình đói ăn, đói 
nước uống, đói thuốc hút. Cũng trong mơ, nàng 
Ngà đã bày cho cách thò tay vào cái ngà voi mà 
lấy. Tỉnh dậy, làm theo lời mách bảo, thò tay vào 
ngà voi thì có ngay cái mà mình vừa muốn trong 
giấc ngủ. Giấc mơ no đủ còn thể hiện qua motif 
quả bầu thiêng. Quả bầu các dân tộc Đông Nam 
Á có thể là quả bầu- mẹ nở ra người, quả bầu - 
con do người đẻ ra, hoặc quả bầu - thuyền giúp 
người tránh đại hồng thủy. Trong truyện kể dân 
gian Mạ, rất phổ biến motif quả bầu - của cải. Từ 
quả bầu thần cho, hoặc từ quả bầu do mình trồng 
trên rẫy đã nở ra lúa, hoặc tuôn ra lúa và đồ dùng. 
Nhân vật đã trở nên no đủ, thậm chí giàu có, làm 
cho bon làng no đủ và giàu theo. 
Có khi dân gian thay motif quả bầu thiêng 
bằng motif cái chiêng thần hoặc cây gươm thần. 
Phần nhiều, khi phát rẫy, nhân vật phát xong thì 
cây lại bị khỉ, vượn làm cho sống lại; rình bắt 
được con đầu đàn, nó phải đền cho cái chiêng 
muốn gì được nấy. Có khi con ma rừng đền 
cho dũng sĩ Tis Tơli cái gươm thần. Vai trò của 
chiêng, gươm...cơ bản như nhau. Chúng tôi gọi 
đó là motif kép: cây sống lại – đền vật thiêng, 
một biến thể của motif sự ban tặng vật báu. Từ 
vật báu ấy, nhân vật ước ba dãy nhà trên, ba dãy 
nhà dưới, dãy lớn nhất của mình ở giữa; ước 
dòng nước sạch để ăn uống; ước lương thực, 
thực phẩm, vật nuôi này khác; ước ra con người, 
binh lính đông đúc. Làng bon mới ấy giàu có do 
nhân vật cai quản hoặc giao lại cho ông cậu rồi 
đi về trời... 
Ở đây không chủ ý bàn về cái kết thúc có hậu 
hay vai trò nghệ thuật của yếu tố thần kỳ mà chỉ 
nhấn mạnh giá trị văn hóa trong văn học. Truyện 
cổ là một loại hình văn hóa dân gian lại ẩn chứa 
các nội dung văn hóa khác nhau. Nó đã cho thấy 
tầm quan trọng của vấn đề ẩm thực, giấc mơ no 
đủ hoặc giàu có của cư dân. Họ không mơ những 
cái viễn vông, xa xỉ mà chỉ mơ những cái cốt yếu 
cho cuộc sống con người, đó là ẩm thực, sau đó 
là trang phục, nhà cửa, dụng cụ sản xuất, binh 
khí... Giấc mơ trong văn chương liên quan đến 
khát vọng đời thường, giấc mơ và sự sáng tạo 
văn chương phản ánh chân thực cuộc sống có 
thật của cư dân, xuất phát từ cái đói, cái rét, cái 
gian khổ có thật. Có thể nói đến một giấc mơ ẩm 
thực của cộng đồng qua truyện kể dân gian.
2.3. Motif ăn năm uống tháng và lễ ăn trâu
Người ta cũng hay nhắc tới việc đám cưới ăn 
bảy trâu, bảy bò, bảy heo, bảy dê, bảy gà, bảy 
vịt, uống bảy chóe rượu cần trong thời gian bảy 
ngày, bảy đêm... Số lượng bảy chóe rượu cưới 
hoặc bảy chóe, bảy chiêng làm quà tặng hoặc 
nộp phạt cũng thể hiện tầm quan trọng của rượu 
cần trong đời sống văn hóa tộc người. Văn hóa 
ẩm thực, nhu cầu ẩm thực chi phối sự sáng tạo 
văn chương, không chỉ nói lên nỗi khát khao no 
đủ hay giàu có, mà còn thể hiện sự cộng cảm 
trong bầu không khí sinh hoạt chung của cộng 
đồng ngay cả trong vấn đề thưởng thức những 
lễ vật - cũng là lương thực, thực phẩm. Trâu bò, 
heo, dê hay gà, vịt không đơn thuần là vật nuôi 
để ăn thịt, nhất là trâu. Trâu không hề là sức 
kéo hay nguồn hữu cơ bón ruộng, rẫy. Trâu là 
vật ngang giá – một loại tiền tệ trao đổi truyền 
thống, một vật để định tội trong khi xử phạt theo 
luật tục, nhưng quan trọng nhất: trâu là vật hiến 
sinh. Nó có đủ tư cách nối liền tình cảm con 
người với thần linh, người ta dâng nó lên các 
thần (Yàng) chứ không phải làm thịt trâu thông 
thường. Phải chuẩn bị công phu cho cái cọc buộc 
trâu, cái nhà cúng, các hoa văn trang trí, phải 
nhảy múa, đánh chiêng và làm động tác đâm trâu 
cúng thần. Từ xa xưa, huyền thoại dân gian đã 
kể rằng các thần như K’Đu, K’Đồng đã dùng 
lưng trâu, sừng trâu... làm “vật liệu” chế tác trời, 
trăng, sao... Niềm tin trong tín ngưỡng đã chi 
phối nghi lễ và phong tục đâm trâu cúng Yàng. 
Chính vì tính chất trang trọng và linh thiêng, trâu 
trở thành vật hiến sinh hàng đầu cho nhiều nghi 
lễ trong đời người, trong sinh hoạt tinh thần của 
các cộng đồng Mạ và Tây Nguyên nói chung. 
Nhô sa rpu theo nghĩa đen là uống ăn trâu, chúng 
ta quen dịch là Lễ đâm trâu. Nhưng đâm trâu chỉ 
là một thao tác trong toàn bộ hệ thống hành động 
lễ, nên dịch là Lễ ăn trâu. Sử thi Tây Nguyên đã 
nói tới việc ăn năm, uống tháng là phản ánh phần 
nào tính chất liên tục, quy mô lớn của những dịp 
lễ hội ẩm thực liên quan đến tín ngưỡng đa thần 
nguyên thủy của cư dân Tây Nguyên thời chưa 
xa xôi lắm. Truyện kể dân gian Mạ cũng nói đến 
ẩm thực ở quy mô nhỏ hơn sử thi, theo ngôn ngữ 
riêng của thể loại, nhưng hầu như truyện nào 
cũng có liên quan đến vấn đề ăn uống ở mức độ 
này hay khác.
3. Văn hóa ẩm thực trong văn vần dân gian 
Mạ
Bài nrí (ndrí) xuất hiện trong lễ cúng cùng với 
lễ vật dâng thần linh, có mục đích mời gọi thần 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN SỐ 11 - THÁNG 5/2016
31
linh về chứng giám tấm lòng thành của cư dân, 
về hưởng thụ thức cúng, về để phù trợ cho cộng 
đồng: Khui rượu cần tôi mời nếm thử, Rượu cần 
ngon tôi mời thần uống, Hương nhựa trầm tôi 
mời thần đến.
Cũng có bài nrí có tính chất luật tục, được 
người già sử dụng trong xét xử. Để luật tục có 
sức mạnh, bài ca viện dẫn đến các tổ tiên thần 
thánh xưa kia, với các hành động sáng tạo có 
tính huyền thoại liên quan đến nhiều mặt của đời 
sống cộng đồng. Người ta liệt kê tên tuổi nhiều 
vị thần linh – tổ tiên để biết ơn, để noi theo và 
nhắn nhủ con cháu nói theo: K’Yút đã dạy giết 
trâu, N’Đu chỉ cách dựng bon làng, K’Tiêng, 
K’Tàng chỉ cách đẽo cối, bào chày giã gạo.
Ngay trong khi kể về tổ tiên – thần thánh, dân 
gian vẫn đề cập đến một số từ ngữ thuộc văn hóa 
ẩm thực. 
Loại nrí tình cảm lại vẫn ít nhiều đề cập đến 
ẩm thực, ca ngợi vẻ đẹp người con gái trẻ, cái 
đẹp hiện ra trong mắt các chàng trai, dân gian 
đã so sánh con người với động, thực vật ở rừng: 
Cô kia đẹp như lá hành nghiêng, Anh sóc bắt 
gặp. Cô kia trắng anh rái cá bắt gặp. Cô kia đẹp 
phượng hoàng bắt gặp. Gái mới lớn heo rừng 
đâm cây...
Trong môi trường rừng, trong phương thức 
kinh tế “ăn rừng”, dân gian Mạ ví vẻ đẹp con gái 
với cây quả của rừng: Thân con gái như thân rau 
rịa, Tay con gái như măng mới mọc, Thân con 
gái chuối chín trên cây...
Xin được giới thiệu một bài tục ngữ Mạ để 
cung cấp thêm một loạt hình ảnh về cây, trái, vật 
nuôi, vật rừng có liên quan đến văn hóa ẩm thực 
truyền thống của cư dân Mạ: Rau hái rau lơ-ạ; 
Nước múc suối Bring, Ching đánh ching Bro, 
Sóc bắn con sóc già, Cua bắt con cua béo, Phải 
bắt phượng hoàng bạc, Cá phải bắt cá trắng, 
Rượu phải uống ché đen, Phát rẫy phát rừng già, 
Ăn mía ăn cây lớn, Kèn thổi kèn sừng trâu, Ăn 
dê ăn dê cái...
Chỉ một bài văn vần Mạ mà đã nhắc tới rất 
nhiều thức liên quan tới văn hóa ẩm thực cho 
thấy có hai vấn đề xưa cũ nhưng vẫn còn đúng: 
Một là, văn chương nào cũng phản ánh hiện thực 
– một hiện thực cuộc sống gắn chặt với tự nhiên; 
hai là, văn học dân gian chỉ là một lĩnh vực văn 
hóa thuộc folklore nhưng lại hàm chứa các giá 
trị văn hóa khác, trong đó có văn hóa ẩm thực.
Không thể không nhắc đến bài Nhu t’nơm 
(uống rượu cần). Bài hát này khá phổ biến ở 
vùng Mạ, đến vùng Mạ - M’nông, nhu được thay 
bằng ngềt, còn khi lưu hành trong cả vùng K’Ho 
anh em, có thể thay nhu bằng từ nhô,... nhưng lời 
bài hát, nhịp điệu và điệp khúc mời gọi vẫn thiết 
tha và chân thành như nhau.
4. Ẩm thực ngày nay: Sự đổi thay
Ngay sau khi đất nước thống nhất, người Mạ 
và nhiều tộc người Tây Nguyên đã hội nhập vào 
quốc gia Việt Nam thống nhất đa dân tộc. Những 
chủ trương, chính sách lớn của nhà nước Việt 
Nam về kinh tế, văn hóa, xã hội đã làm thay đổi 
đáng kể bộ mặt các thôn bon vùng Mạ. Sự thay 
đổi ấy có thể thấy trong các khâu (điện, đường, 
trường, trạm), trong các lĩnh vực chăn nuôi, trong 
trọt, làm kinh tế vườn rừng, vườn chè và cà phê... 
Sự thay đổi có thể thấy ở lượng học sinh, sinh 
viên, lượng trí thức Mạ đang học tập và công 
tác trong các lĩnh vực khác nhau. Trong những 
thay đổi chung có sự đổi thay trong lĩnh vực văn 
hóa ẩm thực. Bên cạnh những thức săn bắt được 
từ suối, từ rừng, rau dại trong rừng là vật nuôi 
và rau trồng trên rẫy đã làm cho bữa ăn thường 
ngày thay đổi. Nhiều nơi đã xuất hiện chợ hoặc 
quán tạp hóa ngay trong bon. Từ đó, người dân 
có thể mua muối, cá khô, mì tôm... làm thức ăn. 
Cư dân cũng có thể mua rượu trắng, bia, nước 
ngọt... là các thức uống ngay tại các quán đó. 
Cũng vậy, bên cạnh thuốc rê hút bằng tẩu mà cư 
dân tự trồng, tự chế, người Mạ cũng có thể mua 
thuốc điếu tại quán, mua lẻ từng điếu hoặc cả 
gói, chủ yếu là thuốc rẻ tiền, có cả thuốc đầu lọc 
(thuốc đót) loại thường. Hầu như mọi đàn ông và 
cả đàn bà trung niên, thậm chí cả trẻ em nam đều 
hút thuốc. Phải có tiền thì mới mua được thức 
ăn, thức uống, thức hút nhưng các quán cũng 
biết tiếp thị, giữ khách bằng cách bán chịu, đến 
mùa chè, cà phê thì trả. Không chỉ thay đổi trong 
món ăn, cách ăn cũng có thay đổi cơ bản. Ngoài 
những lúc đi rừng, trừ người già cả, các gia đình 
hầu như đều có chén bát, dùng đũa ăn cơm thay 
cho việc ăn theo truyền thống. Cùng với nước 
suối, giếng, nhiều gia đình đã dùng nước đun sôi, 
nước chè tươi, nước trà gói và có thêm xu hướng 
dùng rượu trắng và thức uống mới thay cho rượu 
cần. Riêng cưới hỏi là lĩnh vực được các nhà 
nghiên cứu xếp vào văn hóa tinh thần (phong tục 
hôn nhân) gắn chặt với văn hóa vật chất. Ở đây 
chỉ nhắc đến một số điểm liên quan đến ẩm thực: 
ẩm thực trong đám cưới, vì vấn đề chia tách các 
lĩnh vực nghiên cứu thành văn hóa vật chất và 
tinh thần chỉ là tương đối. Qua việc tham dự một 
số đám cưới của bạn bè người Mạ có thể thấy 
nhiều nét đổi khác. Có đám cưới diễn ra trong 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN SỐ 11 - THÁNG 5/2016
32
bảy ngày, hai nhà ăn hết 8 con heo, uống hai 
trăm chai bia, hai trăm lít rượu trắng trong tiệc 
chính đãi khách và chỉ có... một chóe rượu cần!
Với ba đám cưới mà người viết được may 
mắn tham dự thì bên cạnh nét truyền thống 
(nhiều heo, gà, rượu...) đã xuất hiện nhiều nét 
mới, có cái rất khác lạ. Đó là thuê mướn bàn 
ghế, thuê đầu bếp người Kinh; thuê nhạc cụ để 
chơi nhạc sống; hát bài hát mới chứ không phải 
là bài hát truyền thống của dân tộc; uống nhiều 
bia, rượu trắng chứ không phải là rượu cần v.v... 
Kinh tế - xã hội đã đổi thay trong sự giao lưu 
thì văn hóa ẩm thực cũng thay đổi. Cái hiện đại 
thay dần cho truyền thống, khả năng văn minh, 
hiện đại hóa càng cao thì nguy cơ mai một văn 
hóa ẩm thực càng thấy rõ; hay văn minh tăng 
lên, văn hóa ẩm thực giảm xuống? Nghịch lí 
này không phải chỉ xảy ra với người Mạ, mà cả 
người Kinh và cả nhiều dân tộc ở Đông Á, Đông 
Nam Á... từ khi tiếp nhận văn minh phương Tây. 
Chi tiết cái bàn kê ngay trước cửa, trên đó có cái 
thùng đựng quà (tiền) chúc mừng là mới lạ, báo 
hiệu nguy cơ mất dần bản sắc văn hóa tộc người, 
do chính những người trong cuộc tiếp nhận một 
cách hồn nhiên và không hề cảm thấy lai căng. 
Như vậy, người Mạ đang giữ lại một số nét 
ẩm thực truyền thống: vẫn còn lưu lại nhiều 
chóe (ráp, yang); vẫn còn biết chế men rượu và 
làm rượu cần; vẫn còn phong tục uống rượu cần, 
tiếp khách bằng rượu cần... Tuy nhiên, đã có 
nhiều thay đổi về văn hóa ẩm thực: Chủng loại 
thức ăn thay đổi, nhất là thức ăn khô bán tại các 
quán trong thôn; kỹ thuật chế biến món ăn, nhất 
là trong đám cưới đã thay đổi; xu hướng dùng 
đũa, chén, bát đang thay thế cách ăn truyền thống.
Những thôn bon gần thị tứ đã mất dần thói 
quen làm men rừng, ủ rượu cần, đồ uống truyền 
thống được thay dần bằng các thứ rượu chưng 
cất, bia, nước ngọt... Chiêng, chóe mất dần vai 
trò ở những vùng văn minh này và nguy cơ biến 
mất một loại dụng cụ văn hóa vật chất, mất đi một 
chế phẩm men rượu có nguồn gốc từ rừng, mất đi 
một chủng loại thức uống truyền thống là có thật. 
Những thôn bon vùng sâu, lượng chóe đang còn 
khá nhiều, các gia đình đang chế biến và đang sử 
dụng rượu cần truyền thống. Cũng có khi người 
dân làm rượu cần bằng men chợ như người Kinh. 
Ở Lộc Bắc (xã anh hùng), khi khách đến, Già 
làng vẫn mang rượu cần đãi khách, nhưng chính 
ông lại không uống vì rượu được làm bằng men 
chợ, không còn là rượu cần đích thực.
Sự thay đổi đang diễn ra hàng ngày trong các 
bon làng Mạ và không chỉ trong vùng Mạ mà 
khắp cả Tây Nguyên. Đánh giá sự thay đổi trong 
lĩnh vực văn hóa ẩm thực hay trong các lĩnh vực 
khác là công việc tế nhị, nhưng thấy có cả ưu 
điểm và nhược điểm. Sự thay đổi theo hướng tiến 
bộ, văn minh, hiện đại trong quá trình hiện đại 
hóa đất nước là quy luật tất yếu, mang lại diện 
mạo mới cho cộng đồng Mạ nói riêng, các dân 
tộc Việt Nam nói chung. Về chủng loại thức ăn, 
kỹ thuật nấu nướng và cách ăn uống thì sự thay 
đổi cơ bản là tiến bộ; mặt trái của hiện đại hóa là 
sự ra đi của văn hóa truyền thống. Nếu nhà dài, 
chiêng chóe, dân ca, rượu cần, thổ cẩm... cũng ra 
đi thì bản sắc văn hóa tộc người còn lại là gì? Đó 
là câu hỏi khó khăn cho cả nhà nghiên cứu, các 
nhà quản lý và chính cư dân Mạ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Jean Boulbet (1999), Xứ người Mạ lãnh thổ của thần linh, NXB Đồng Nai.
[2] Mạc Đường (chủ biên, 1983), Vấn đề dân tộc ở Lâm Đồng, Sở Văn hoá Thông tin Lâm Đồng.
[3] Cửu Long Giang, Toan Ánh (1974), Miền Thượng Cao Nguyên, NXB Sài Gòn.
[4] Nguyễn Xuân Kính (chủ biên, 2010), Tổng tập văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam, Tập 20, NXB KHXH, 
Hà Nội.
[5] Viện dân tộc học (1984), Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam), NXB KHXH, Hà Nội.
[6] Phan Đăng Nhật (1981), Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam – trước cách mạng tháng Tám, NXB Văn hoá, Hà 
Nội.
[7] Võ Quang Nhơn (1983), Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam, NXB ĐH&THCN, Hà Nội.
[8] Lê Hồng Phong (2006), Tìm hiểu truyện cổ Tây Nguyên trường hợp Mạ và K’Ho, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, 
NXB Văn học, TP.HCM.
[9] Lê Hồng Phong (chủ biên, 2015), Nghiên cứu Folklore theo hướng tiếp cận liên ngành, NXB ĐHQG Hà Nội, Hà Nội.
[10] Đặng Nghiêm Vạn và các đồng tác giả (1985, 1986), Truyện cổ các dân tộc Trường Sơn - Tây Nguyên, 
2 tập, NXB Văn học, Hà Nội. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN SỐ 11 - THÁNG 5/2016
33

File đính kèm:

  • pdfve_van_hoa_am_thuc_cua_nguoi_ma_o_lam_dong.pdf