Về bảo vệ quyền của người nộp thuế trong Luật Quản lý thuế

Tóm tắt: Doanh nghiệp và cá nhân có nghĩa vụ nộp thuế theo Hiến Pháp và Pháp luật thuế. Luật

quản lý thuế (QLT) qui định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quá trình thu nộp nhằm bảo

đảm cho các khoản thuế được thu đúng thu đủ vào ngân sách nhà nước (NSNN). Doanh nghiệp

đóng vai trò trung gian kê khai nộp thuế gián thu cho người tiêu dùng, và thực hiện nghĩa vụ nộp

thuế với tư cách là người chịu thuế khi có thu nhập. Bảo vệ quyền lợi của người nộp thuế là cần

thiết nhằm tác động vào thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của doanh nghiệp, bởi vậy, Luật QLT cần

bảo vệ quyền lợi của người nộp thuế không chỉ bằng các qui định để thủ tục thu nộp thuế đơn giản

và thuận tiện mà phải bảo vệ lợi ích vật chất của doanh nghiệp gắn với quá trình thu nộp thuế.

pdf 9 trang phuongnguyen 4520
Bạn đang xem tài liệu "Về bảo vệ quyền của người nộp thuế trong Luật Quản lý thuế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Về bảo vệ quyền của người nộp thuế trong Luật Quản lý thuế

Về bảo vệ quyền của người nộp thuế trong Luật Quản lý thuế
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 1 (2013) 42-50 
 42 
Về bảo vệ quyền của người nộp thuế trong Luật Quản lý thuế 
Nguyễn Thị Lan Hương* 
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 12 tháng 1 năm 2013 
Chỉnh sửa ngày 18 tháng 2 năm 2013; chấp nhận đăng ngày 14 tháng 3 năm 2013 
Tóm tắt: Doanh nghiệp và cá nhân có nghĩa vụ nộp thuế theo Hiến Pháp và Pháp luật thuế. Luật 
quản lý thuế (QLT) qui định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quá trình thu nộp nhằm bảo 
đảm cho các khoản thuế được thu đúng thu đủ vào ngân sách nhà nước (NSNN). Doanh nghiệp 
đóng vai trò trung gian kê khai nộp thuế gián thu cho người tiêu dùng, và thực hiện nghĩa vụ nộp 
thuế với tư cách là người chịu thuế khi có thu nhập. Bảo vệ quyền lợi của người nộp thuế là cần 
thiết nhằm tác động vào thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của doanh nghiệp, bởi vậy, Luật QLT cần 
bảo vệ quyền lợi của người nộp thuế không chỉ bằng các qui định để thủ tục thu nộp thuế đơn giản 
và thuận tiện mà phải bảo vệ lợi ích vật chất của doanh nghiệp gắn với quá trình thu nộp thuế. 
1. Đặt vấn đề∗ 
Điều 80 Hiến pháp 1992 qui định: “Công 
dân có nghĩa vụ nộp thuế theo qui định của 
pháp luật”. Đây là cơ sở pháp lý để Quốc hội 
ban hành các Luật thuế. Một cá nhân khi có thu 
nhập đến ngưỡng chịu thuế tự kê khai nộp thuế 
hoặc bị khấu trừ thuế tại nguồn trước khi nhận 
thu nhập. Còn doanh nghiệp khi đăng ký kinh 
doanh phải nộp thuế môn bài và thực hiện nghĩa 
vụ nộp các loại thuế gián thu phát sinh trong 
quá trình kinh doanh như thuế xuất nhập khẩu, 
thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt...và 
khi kinh doanh có lãi doanh nghiệp phải giành 
¼ khoản lợi nhuận nộp cho Nhà nước dưới hình 
thức thuế thu nhập doanh nghiệp1. Khi kinh tế 
thị trường càng phát triển, doanh nghiệp có 
_______ 
∗
 Tác giả liên hệ. ĐT: 84-973590888. 
 E-mail: huongng70@hotmail.com 
1
 Theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành , thuế 
suất áp dụng là 25%/ Tổng thu nhập chịu thuế. 
nhiều cơ hội kinh doanh để tạo ra thu nhập, 
nhưng thua lỗ phá sản là “bạn đường” của 
doanh nghiệp nên không phải lúc nào mục đích 
thành lập doanh nghiệp đều đạt được. Sự bất ổn 
của nền kinh tế kéo theo ý thức phòng vệ bằng 
việc tạo ra thu nhập nhanh chóng, lúc này, 
người nộp thuế trở thành chủ thể đối kháng lợi 
ích thực sự với Nhà nước. Doanh nghiệp tìm 
cách trì hoãn nộp thuế, tự mình hoặc thông 
đồng với cán bộ thuế để trốn thuế... Còn Tổng 
Cục Thuế và Bộ tài chính thường xuyên phải rà 
soát chính sách, pháp luật để đề xuất các giải 
pháp để chống lại tình trạng thất thu thuế. Vậy 
làm thế nào để Cơ quan Thuế bớt phải sử dụng 
quyền lực nhà nước để truy thu thuế, làm thế 
nào để người nộp thuế tự giác tuân thủ pháp 
luật thuế, nộp đúng nộp đủ vào NSNN? Đây là 
những vấn đề trăn trở của tất cả các cơ quan 
nhà nước ở Trung ương và địa phương và cũng 
chính là vấn đề cần nghiên cứu và thể hiện 
N.T.L. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 1 (2013) 42-50 
43 
trong Dự thảo sửa đổi Luật QLT và các văn bản 
pháp luật liên quan. Bài viết phân tích một số 
khía cạnh về quyền thu thuế của Nhà nước và 
đánh giá thực tiễn thi hành Pháp luật QLT để 
đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật để 
bảo vệ quyền lợi của người nộp thuế. 
 2. Thực trạng pháp luật về quyền của người 
nộp thuế trong Luật quản lý thuế 
 2.1. Quyền của Cơ quan Thuế trong thực hiện 
thủ tục hành chính thuế 
a) Tôn trọng quyền của người nộp thuế 
Về nguyên tắc, người nộp thuế có nghĩa vụ 
đăng ký thuế, kê khai thuế và nộp thuế theo 
Điều 7 Luật QLT. 
Khi không tuân thủ nghĩa vụ theo các Luật 
thuế và Luật QLT, người nộp thuế bị coi là vi 
phạm, tùy theo mức độ sẽ bị xử lý theo pháp 
luật. Để xem xét một cá nhân, doanh nghiệp có 
vi phạm pháp luật thuế hay không, Cơ quan 
Thuế được trao thẩm quyền xác định hành vi vi 
phạm chậm kê khai, chậm nộp, gian lận, trốn 
thuế. Điều 9 Luật QLT qui định quyền hạn của 
Cơ quan Thuế gắn với nghĩa vụ quản lý thu 
thuế. Có thể phân chia làm hai nhóm quyền 
hạn: (1) Nhóm quyền yêu cầu hỗ trợ thu thuế: 
yêu cầu cung cấp thông tin về việc xác định 
nghĩa vụ nộp thuế và (2) Nhóm quyền có sử 
dụng quyền lực: kiểm tra, thanh tra, ấn định, 
cưỡng chế thuế, xử lý vi phạm và áp dụng biện 
pháp ngăn chặn. 
Nhóm quyền (1) cho phép cơ quan thuế 
thực hiện việc thu thuế trên cơ sở tự nguyện, tự 
giác của người nộp thuế. Cơ quan Thuế không 
chỉ làm các thủ tục xác định khoản thuế phải 
nộp mà còn là cơ quan giải thích pháp luật thuế. 
Do đặc thù của các Luật thuế và Luật QLT chỉ 
là luật khung nên để xác định một người chịu 
mức thuế bao nhiêu cần phải đi tìm các căn cứ 
tính thuế. Nhiều khi Nghị định của Chính phủ 
mới là căn cứ xác định cụ thể đối tượng nộp 
thuế và đối tượng chịu thuế, các chính sách ưu 
đãi, trong khi đó để xác định chính xác số thuế 
phải nộp phải tìm đến Thông tư hướng dẫn của 
Bộ Tài chính và các Công văn trả lời của Tổng 
cục Thuế. Sự rườm rà của pháp luật, sự thiếu 
nhiệt tâm của Cơ quan Thuế và cán bộ thuế 
khiến cho người nộp thuế thường mất nhiều 
thời gian và chi phí để làm thủ tục nộp thuế và 
tuân thủ pháp luật thuế. Luật QLT tạo thuận lợi 
cho doanh nghiệp trong áp dụng các qui định về 
gia hạn nộp thuế trong một số trường hợp bất 
khả kháng và do thực hiện các chính sách của 
Nhà nước (Điều 49 Luật QLT), cho phép hoàn 
thuế trước, kiểm tra hồ sơ sau bên cạnh thực 
hiện thủ tục kiểm tra trước hoàn thuế sau (Điều 
60 Luật QLT). Tuy nhiên, ngoài những trường 
hợp dự kiến theo qui định pháp luật, không ít 
doanh nghiệp vẫn trì hoãn nộp thuế do nhiều lý 
do khác nhau, bởi trì hoãn nộp thuế có thể tạo 
lợi ích cho chính bản thân doanh nghiệp, nên 
cho dù họ có bị áp dụng mức phạt cao nhưng 
vẫn có lợi hơn so với trả lãi suất vay vốn cho 
ngân hàng2. Bởi vậy, tình trạng nợ thuế do ý chí 
chủ quan của người nộp thuế vẫn gia tăng mà 
chưa có biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa. Tại 
kỳ họp Quốc hội tháng 6/2012, việc thảo luận 
tăng mức phạt từ 0,05%/ngày/ trên số tiền chậm 
nộp lên 0,07% /ngày trên số tiền chậm nộp có 
thể coi là giải pháp trước mắt để hạn chế tình 
trạng chây ì nộp thuế, tuy nhiên, khi doanh 
nghiệp kinh doanh không có lãi, không có khả 
năng nộp thuế và phải phá sản thì Nhà nước 
cũng không thể thu được thuế, ngoài ra Nhà 
nước còn phải tốn nhiều chi phí để giải quyết 
tình trạng hậu phá sản của doanh nghiệp. Bởi 
_______ 
2
 Lãi suất cho vay của ngân hàng từ giữa năm 2011 đến 
tháng 4 năm 2012 nhiều thời điểm lên tới 20-24%/năm, 
nhiều doanh nghiệp có vay được cũng không thể có lãi. 
N.T.L. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 1 (2013) 42-50 
44 
vậy, bất cứ giải pháp sửa đổi Luật QLT nào 
được đề xuất đều phải cân nhắc tổng thể các 
chính sách kinh tế tác động đến người nộp thuế 
chứ không thể một chiều sửa đổi Luật để tăng 
mức xử phạt. 
b) Thực hiện quyền kiểm tra, thanh tra 
Một trong những hoạt động thường xuyên 
của Cơ quan Thuế là kiểm tra và thanh tra thuế. 
Về nguyên tắc, hoạt động này được thực hiện 
trên cơ sở phân tích thông tin, dữ liệu liên quan 
đến người nộp thuế, đánh giá việc chấp hành 
pháp luật của người nộp thuế, xác minh và thu 
thập chứng cứ để xác định hành vi vi phạm 
pháp luật về thuế (Điều 75 Luật QLT). Luật 
QLT qui định cụ thể về địa điểm kiểm tra, và 
nội dung kiểm tra. Trong quá trình kiểm tra đòi 
hỏi sự hợp tác của người nộp thuế trong cung 
cấp thông tin, chứng từ làm cơ sở để đối chiếu 
so sánh với hồ sơ thuế. Cơ quan Thuế có quyền 
yêu cầu người nộp thuế giải trình hoặc bổ sung 
thông tin, tư liệu để chứng minh số thuế khai 
đúng, ra quyết định kiểm tra, gia hạn kiểm tra 
và trong thời hạn Luật định cho phép người nộp 
thuế hoàn chỉnh hồ sơ nộp thuế. Việc ấn định 
thuế chỉ được tiến hành sau khi các biện pháp 
cứu trợ cho người nộp thuế đã được thực hiện. 
Tham khảo kinh nghiệm của các nước và 
khuyến nghị của các Tổ chức quốc tế, Luật 
QLT được đề xuất sửa đổi theo hướng kiểm tra 
thuế theo phương thức đánh giá rủi ro qua phân 
tích, đánh giá việc chấp hành pháp luật của 
người nộp thuế, thực hiện kiểm tra theo chuyên 
đề, kế hoạch hàng năm. Phương thức này có thể 
tác động vào ý thức thuân thủ pháp luật của 
người nộp thuế bởi doanh nghiệp chỉ bị kiểm 
tra khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật, khi chấp 
hành nghiêm chỉnh pháp luật sẽ bị loại trừ ra 
khỏi đối tượng bị kiểm tra, điều này đồng nghĩa 
với việc người nộp thuế tự làm giảm phiền hà 
cho mình từ việc tuân thủ pháp luật. 
Thanh tra thuế khác với kiểm tra thuế áp 
dụng khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế 
nhằm giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc theo yêu 
cầu của thủ trưởng cơ quan quản lý thuế các cấp 
hoặc Bộ trưởng Bộ Tài chính (Điều 81 Luật 
QLT). Việc thanh tra thuế do có ảnh hưởng trực 
tiếp đến doanh nghiệp nên đối với doanh nghiệp 
có ngành nghề kinh doanh đa dạng, phạm vi 
kinh doanh rộng thì thanh tra định kỳ 1 một 
năm không quá một lần. Việc thanh tra cũng 
phải dựa trên cơ sở pháp lý đó là quyết định 
thanh tra. 
Tuy nhiên, từ góc độ quản lý nhà nước, khi 
hoạt động thanh tra không kịp thời sẽ không 
ngăn chặn và xử lý được hành vi vi phạm. Bởi 
vậy, hoạt động thanh tra phải được tiến hành 
đúng đối tượng, đúng thời điểm để tránh việc 
tẩu tán tài sản, gây khó khăn cho việc truy thu 
thuế. Trong thời gian qua, không ít doanh 
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lạm dụng 
những bất cập của pháp luật thuế Việt nam đã 
tiến hành chuyển giá làm cho giá hàng hóa 
không phản ánh đúng giá trị, làm cho doanh 
nghiệp lỗ “thực” và không phải nộp thuế, hành 
vi này tạo ra sự bất công bằng trong hoạt động 
kinh doanh cũng như làm thất thu NSNN. 
Ngoài ra, còn có nhiều trường hợp doanh 
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lợi dụng được 
hưởng lợi từ thời hạn ân hạn thuế nhập khẩu đã 
nhập rất nhiều hàng hóa vào Việt Nam để bán, 
chây ì không nộp thuế và bỏ về nước[1]. 
Những hành vi trên đây tồn tại trong một thời 
gian dài nhưng gần đây mới được thanh tra và 
được đề xuất các phương án xử lý. Đây không 
chỉ là vấn đề bất cập trong qui định pháp luật 
mà còn là nguyên nhân chủ quan từ phía Cơ 
quan Thuế chưa lường hết được phạm vi thanh 
tra vi phạm pháp luật thuế để có đề xuất xử lý 
kịp thời. 
N.T.L. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 1 (2013) 42-50 
45 
c) Xử lý vi phạm hành chính thuế 
Việc xử lý vi phạm có ý nghĩa quan trọng 
để hạn chế tình trạng thất thu NSNN, đảm bảo 
môi trường cạnh tranh công bằng. Các vi phạm 
pháp luật thuế diễn ra thường xuyên và dưới 
nhiều dạng hành vi khác nhau như gian lận 
trong kê khai, thông đồng trốn thuế, giả mạo 
hóa đơn, chứng từ  
Khi người nộp thuế vi phạm, trước khi bị 
cưỡng chế hành chính và xử lý hình sự thì phải 
chấp hành nghĩa vụ nộp tiền phạt. Theo Điều 
106 Luật QLT, người nộp thuế có hành vi chậm 
nộp tiền thuế so với thời hạn qui định, thời hạn 
gia hạn nộp thuế, thời hạn ghi trong thông báo 
của Cơ quan Thuế, thời hạn quyết định xử lý 
của Cơ quan quản lý thuế thì phải nộp đủ tiền 
thuế và bị xử phạt 0.05%/mỗi ngày/số tiền 
chậm nộp. Dự thảo mới đây được Quốc hội 
thảo luận thì nâng mức tiền chậm nộp lên 
0.07%, và phạt 10%/số thuế khai thiếu, số thuế 
được miễn giảm, hoàn cao hơn đối với trường 
hợp người nộp thuế tự phát hiện và khai bổ 
sung quá thời hạn 60 ngày kể từ ngày đăng ký 
tờ khai nhưng trước khi Cơ quan Hải quan kiểm 
tra, thanh tra tại trụ sở của người nộp thuế. Và 
phạt 20% số tiền khai thiếu, số tiền thuế được 
miễn, giảm, hoàn cao hơn đối với trường hợp 
khai bổ sung sau khi Cơ quan Hải quan kiểm 
tra, thanh tra thuế tại trụ sở người nộp thuế. Với 
tinh thần sửa đổi trên đây, có thể thấy pháp luật 
theo hướng ưu tiên áp dụng điều kiện có lợi khi 
người nộp thuế tự giác hoàn thành nghĩa vụ nộp 
thuế. Tuy nhiên, điểm bất hợp lý ở chỗ nâng 
mức phạt lên 0.07% và áp dụng cào bằng đối 
với tất cả người nộp thuế có thời hạn nợ và tổng 
số nợ khác nhau. Điều này tạo ra sự bất công 
bằng trong áp dụng chế tài phạt. 
Theo Báo cáo tổng kết của Bộ Tài chính, 
tính đến ngày 31/10/2011, tổng số người nộp 
thuế được cấp mã số thuế đang hoạt động trong 
phạm vi cả nước là 14.678.067, trong đó doanh 
nghiệp và tổ chức là 560.243, hộ cá thể là 
1.665.540, cá nhân nộp thuế là 12.452.284. Tuy 
nhiên, trong 5 năm từ 2007-2011, Cơ quan 
Thuế các cấp đã tiến hành thanh tra, kiểm tra 
5.659.761 hồ sơ doanh nghiệp tại trụ sở cơ quan 
Thuế đã phát hiện và truy thu và phạt tổng số 
tiền là 3.466 tỉ đồng. Chỉ tính riêng năm 2011 
đã kiểm tra 1.828.901 hồ sơ, truy thu số tiền 
774 tỉ đồng. Còn khi tiến hành kiểm tra 145.491 
cuộc tại trụ sở doanh nghiệp đã phát hiện và 
truy thu 10.691 tỉ đồng, trong đó năm 2011 
kiểm tra 44.109 cuộc, phát hiện và truy thu trên 
4.000 tỉ đồng [2]. 
Từ thực trạng trên cho thấy, Cơ quan Thuế 
hoàn toàn có đầy đủ công cụ để truy thu thuế, 
tuy nhiên, kết quả trên cũng thể hiện những lỗ 
hổng trong quản lý thuế trong khâu xem xét hồ 
sơ kê khai thuế. Có thể thấy rằng, việc vi phạm 
có nguyên nhân chủ quan từ người nộp thuế và 
liệu nguyên nhân này có thể hạn chế được hay 
không? và để hạn chế nó Nhà nước cần có biện 
pháp để bảo vệ quyền của người nộp thuế như 
thế nào? 
2.2. Bảo vệ quyền của người nộp thuế 
a) Bảo đảm tính hợp pháp của các cuộc 
kiểm tra, thanh tra 
Không phải mọi trường hợp, kiểm tra, thuế 
thanh tra thuế có các căn cứ chính xác về vi 
phạm của người nộp thuế. Nếu tiến hành kiểm 
tra, thanh tra không dựa trên cơ sở pháp luật sẽ 
dẫn đến hạn chế quyền của người nộp thuế. 
Luật QLT qui định về nguyên tắc, hoạt động 
kiểm tra, thanh tra thuế không được cản trở hoạt 
động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân 
người nộp thuế (Điều 75 Luật QLT). 
Kiểm tra thuế là hoạt động tiến hành thường 
xuyên tại Cơ quan Thuế nhằm đánh giá tính đầy 
đủ, chính xác của các thông tin, chứng từ trong 
N.T.L. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 1 (2013) 42-50 
46 
hồ sơ thuế và sự tuân thủ pháp luật về thuế của 
người nộp thuế (Điều 77 Khoản 1). Kiểm tra hồ 
sơ thuế để xác định số thuế phải nộp, số thuế 
được miễn, số thuế được giảm hay hoàn, trong 
quá trình này thông qua kiểm tra, Cơ quan Thuế 
có quyền yêu cầu người nộp thuế giải trình, bổ 
sung thông tin, tài liệu. Kiểm tra nhằm xác định 
tính xác thực của hồ sơ hoặc làm cơ sở để yêu 
cầu người nộp thuế bổ sung hoặc ấn định mức 
thuế khi người nộp thuế không bổ sung hồ sơ, 
giải trình hoặc bổ sung hồ sơ thuế không đúng. 
Việc kiểm tra hồ sơ và hệ quả của nó có ảnh 
hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người nộp 
thuế cũng như tính đúng đắn trong thực hiện 
công vụ của cán bộ kiểm tra thuế. Bởi vậy, qui 
định thời hạn ra thông báo kiểm tra, và giải 
trình là cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền lợi của 
người nộp thuế. Theo Luật QLT, quyết định 
kiểm tra là căn cứ để tiến hành các cuộc kiểm 
tra, quyết định phải được gửi cho người nộp 
thuế trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ 
ngày ký, trong thời hạn năm ngày làm việc kể 
từ ... iến hành thường xuyên hoặc định 
kỳ liên quan đến thông tin về tài sản, hoạt động 
kinh doanh của doanh nghiệp. Theo Điều 73 
Hiến pháp, công dân được bảo đảm an toàn bí 
mật thư tín, điện thoạị, điện tín. Qui định này 
chỉ bao hàm thông tin trên một số nguồn của cá 
nhân, trong khi trong đời sống sinh hoạt, sản 
xuất kinh doanh biết bao thông tin khác cần 
được bảo vệ bí mật trong đó có thông tin về thu 
nhập và thông tin về người nộp thuế. Mặc dù 
vậy, Luật QLT đã qui định nghĩa vụ bảo mật 
thông tin của người nộp thuế theo Điều 73 Luật 
QLT, theo đó, Cơ quan Thuế, công chức thuế, 
người đã là công chức quản lý thuế, tổ chức 
kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế phải giữ 
bí mật thông tin của người nộp thuế theo qui 
định của pháp luật trừ một số trường hợp khi cơ 
quan có thẩm quyền yêu cầu cung cấp thông tin 
nhằm thực hiện các hoạt động điều tra, truy tố, 
xét xử và quản lý nhà nước. Tuy nhiên, Luật 
QLT chỉ qui định liên quan đến hoạt động công 
vụ, trên thực tế, quản lý thu thuế liên quan đến 
hoạt động của các cơ quan tổ chức chi trả thu 
nhập thì bí mật thông tin về người nộp thuế 
chưa được đề cập đến, vậy có thể công bố thu 
nhập thông qua công bố thông tin về nộp thuế 
hay không? và nếu không được phép thì bảo vệ 
bí mật thông tin này sẽ được điều chỉnh bởi 
Luật nào? Phải chăng phạm vi bảo vệ bí mật 
thông tin cá nhân và doanh nghiệp theo Hiến 
pháp cần được mở rộng? 
N.T.L. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 1 (2013) 42-50 
47 
Theo Luật QLT, Cơ quan Thuế chỉ có 
quyền công khai thông tin khi người nộp thuế vi 
phạm nghĩa vụ như: trốn thuế, gian lận thuế, 
trây ì không nộp thuế đúng thời hạn; vi phạm 
pháp luật về thuế ảnh hưởng đến quyền lợi và 
nghĩa vụ của tổ chức cá nhân khác và không 
thực hiện các yêu cầu của cơ quan quản lý thuế 
theo qui định của Pháp luật (Điều 74). Do Luật 
QLT chỉ qui định mang tính chất định tính nên 
nhiều khi việc công khai thông tin về người nộp 
thuế do quyết định chủ quan của Cơ quan Thuế. 
Chẳng hạn chây ì nộp thuế một lần với khoản 
nộp hàng trăm tỉ đồng và chây ì nộp thuế nhiều 
lần với số tiền chây ì chỉ hàng chục triệu đồng, 
chắc chắn mức độ nguy hại của hành vi khác 
nhau nên qui định về công bố thông tin nợ thuế 
chắc chắn không giống nhau. Ngoài ra, phải qui 
định cụ thể về số lần thông báo để tránh việc 
Cơ quan Thuế tùy nghi quyết định cũng như áp 
dụng các biện pháp ngăn chặn ngay khi nợ thuế 
lần đầu nhưng với số tiền lớn. 
c) Đảm bảo lợi ích vật chất cho người nộp 
thuế 
Điều 51 Hiến pháp qui định quyền của công 
dân không tách rời nghĩa vụ của công dân. Nhà 
nước bảo đảm các quyền của công dân, công 
dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với 
Nhà nước và xã hội. Nghĩa vụ đóng thuế của 
công dân được qui định trong Điều 80, trong 
khi không có điều khoản nào của Hiến pháp qui 
định có liên quan đến quyền của người nộp 
thuế. Trên thực tế, các Luật thuế và Luật QLT 
đều thể hiện tinh thần “Thuế là nguồn thu chủ 
yếu của NSNN”, ngoài các quyền lợi phát sinh 
liên quan đến miễn giảm thuế theo chính sách 
khuyến khích thành lập doanh nghiệp, miễn 
giảm thuế cho đối tượng yếu thế và hoàn thuế 
theo qui định thì lợi ích của người nộp thuế từ 
việc sử dụng tiền thuế do mình đóng góp dường 
như chưa được qui định. Về nguyên tắc, thuế là 
khoản thu hoa lợi của NSNN và không có tính 
hoàn trả, nên có thể thấy rằng, xét trong quan hệ 
pháp luật thuế, người nộp thuế chỉ có nghĩa vụ 
mà không có quyền lợi vật chất[3]. Tuy nhiên, 
khi nghiên cứu về thủ tục thu nộp thuế cũng 
như pháp luật về NSNN có thể thấy người nộp 
thuế có thể hưởng được quyền lợi nhất định. Cụ 
thể là từ qui định gia hạn nộp thuế tại Điều 49 
Luật QLT. Khi mà các doanh nghiệp đang khó 
khăn trong huy động vốn thì “việc chuyển hóa 
nợ thuế thành ưu đãi tín dụng cho chính người 
nộp thuế” thông qua áp dụng qui định đặc biệt 
về gia hạn nộp thuế là nội dung cần được bổ 
sung trong Luật QLT. Hiện nay, ngoài các 
trường hợp gia hạn thuế trong trường hợp bất 
khả kháng, cần Luật hóa điều kiện áp dụng 
trường hợp gia hạn qui định tại Khoản 1 điểm c 
Nghị định 85/2007/NĐ-CP qui định chi tiết 
Luật QLT trong đó ghi nhận: “Do chính sách 
của Nhà nước thay đổi làm ảnh hưởng trực tiếp 
đến kết quả sản xuất, kinh doanh của người nộp 
thuế”. Mặc dù, Nghị định của Chính phủ đã 
được ghi nhận khả năng người nộp thuế được 
hưởng ưu đãi nhưng do qui định không rõ ràng 
về loại chính sách làm ảnh hưởng đến hoạt 
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nên 
khi chưa có đề xuất cụ thể của Bộ Tài Chính lên 
Chính phủ và Quốc hội chưa đưa vào Nghị 
quyết thì người nộp thuế không thể được hưởng 
ưu đãi này. 
Trên thực tế, trong 2 năm qua do thực hiện 
chính sách thắt chặt tiền tệ, kiềm chế và đẩy lùi 
lạm phát, việc tăng lãi suất ngân hàng ảnh 
hưởng đến không ít doanh nghiệp, trong hàng 
chục nghìn doanh nghiệp rơi vào tình trạng thua 
lỗ phá sản, dừng nộp thuế, chắc chắn không ít 
cũng đã bị ảnh hưởng bởi điều chỉnh các chính 
sách tài chính – tiền tệ trên đây. Ngoài ra, đối 
trọng với thực hiện chính sách đầu tư hỗ trợ cho 
các tập đoàn kinh tế nhà nước trong khi nhiều 
tập đoàn đầu tư dàn trải, ngoài ngành dẫn đến 
ôm gánh nợ hàng chục nghìn tỉ, trong khi các 
N.T.L. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 1 (2013) 42-50 
48 
giải pháp hỗ trợ cứu các doanh nghiệp thuộc 
khu vực kinh tế tư nhân thì vẫn chậm chạp và 
nhỏ giọt cho thấy sự không tương xứng trong 
áp dụng chính sách ưu đãi thuế do có sự phân 
biệt nguồn gốc vốn của chủ sở hữu góp vào 
doanh nghiệp. 
Tại phiên họp Quốc hội ngày 7/6/2012, 
nhiều đại biểu cho rằng gói giải pháp 29.000 tỉ 
đồng và lùi thời hạn nộp thuế với một số loại 
thuế và phí và các khoản thu NSNN chưa đủ 
mạnh để tháo gỡ khó khăn cho các doanh 
nghiệp[4]. Dường như qui trình soạn thảo chủ 
trương chính sách để Luật hóa và triển khai còn 
quá chậm chễ. Trong khi Luật QLT chưa thể 
hiện tinh thần hỗ trợ người nộp thuế, còn qui 
định của Chính phủ đã có nhưng chưa khả thi. 
Một bất cập nữa là tiền lệ Luật không qui định 
mà giao cho Chính phủ qui định chi tiết làm 
giảm tính hiệu lực của Luật QLT. 
d) Bảo đảm quyền được tiếp cận thông tin 
Đối với người nộp thuế quyền được thông 
tin không chỉ liên quan đến thực hiện nghĩa vụ 
nộp thuế mà còn liên quan đến quyền của người 
nộp thuế. Tuy rằng người nộp thuế không được 
hưởng lợi ích trực tiếp từ việc nộp thuế nhưng 
họ có quyền biết tiền thuế của họ được sử dụng 
ra sao. Tình trạng phát hành trái phiếu chính 
phủ đầu tư vào cơ sở hạ tầng, hỗ trợ cho doanh 
nghiệp chưa có hiệu quả, gây thất thoát lãng 
phí, người dân không phải không biết mà có 
biết cũng chẳng thể làm được gì. Hơn ai hết 
những người đứng đầu các cơ quan hành chính 
nhà nước là những người phải hiểu rõ cần phục 
vụ nhân dân như thế nào, cụ thể là Chính phủ 
cần phải tiếp thu ý kiến của nhân dân và cộng 
đồng doanh nghiệp để đề xuất ban hành chính 
sách và pháp luật có hiệu quả và đảm bảo công 
bằng. Bên cạnh đó, Cơ quan lập pháp căn cứ 
vào yêu cầu quản lý nhà nước và xã hội pháp 
điển hóa Luật tiếp cận thông tin để bảo đảm cho 
người nộp thuế có quyền yêu cầu Nhà nước sử 
dụng tiền thuế phục vụ trở lại cho người nộp 
thuế, góp phần phát triển kinh tế và bảo vệ lợi 
ích của cộng đồng nói chung. 
 Ngoài ra, việc triển khai thực hiện chính 
sách miễn giảm thuế liệu có thiết thực cho 
người nộp thuế hay không cũng là vấn đề cần 
bàn. Luật thuế nước ta theo mô hình Luật 
khung là một cản trở lớn cho người nộp thuế 
trong tiếp cận các thông tin chi tiết về quyền và 
nghĩa vụ nộp thuế. Với những qui định mang 
tính chất chuyên ngành, chỉ những người có 
chuyên môn mới có thể dễ dàng hiểu và vận 
dụng những điều khoản có lợi cho mình, còn 
những người khác thì sao? Tiền lệ giải thích áp 
dụng pháp luật thuế bằng công văn của Tổng 
Cục thuế cho thấy sự bất cập trong qui định 
pháp luật cũng như tuyên truyền phổ biến kiến 
thức về pháp luật thuế. Quyền thu thuế thuộc về 
Nhà nước, nhưng để thực hiện quyền này, Nhà 
nước cần phải tạo điều kiện thuận lợi trong tiếp 
cận thông tin tính thuế, giúp cho doanh nghiệp, 
cá nhân chủ động tính thuế và nộp thuế, tránh 
sự lạm dụng của cán bộ thuế gây thất thoát cho 
NSNN và làm cho người nộp thuế có hành vi 
thông đồng để trốn thuế. 
3. Một số kiến nghị 
3.1.Cần ghi nhận thành nguyên tắc đảm bảo 
quyền và lợi ích của người nộp thuế 
Ai cũng hiểu rằng trong cuộc sống hàng 
ngày hoạt động tiêu dùng của người dân tạo ra 
nguồn thu thuế cho Nhà nước. Nền kinh tế có 
phát triển, thu nhập và tiêu dùng của người dân 
có tăng thì Nhà nước mới có nguồn thu ổn 
định. Từ những phân tích ở trên có thể thấy 
không chỉ Luật QLT mà cả Hiến pháp cũng cần 
phải qui định quyền và lợi ích của người nộp 
N.T.L. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 1 (2013) 42-50 
49 
thuế. Quyền này gắn với nghĩa vụ nộp thuế và 
đồng thời hỗ trợ bảo đảm quyền tự do kinh 
doanh của doanh nghiệp cũng như quyền được 
sinh tồn của cá nhân. 
Bộ Tài chính và Tổng Cục thuế dựa trên kết 
quả thu thuế và nguyên nhân vi phạm để sáng 
kiến lập pháp, nhưng có thể thấy các đề xuất 
nghiêng về phía góp phần tạo nguồn thu cho 
NSNN và xây dựng pháp luật phù hợp với 
thông lệ quốc tế. Có thể nói đây là hai tiêu chí 
quan trọng để sửa đổi Luật thuế, tuy nhiên, điều 
quan trọng hơn là cần đưa Luật thuế vào cuộc 
sống trong bối cảnh nền kinh tế chưa ổn định, 
các chính sách ưu đãi của Nhà nước còn hướng 
tới một bộ phận doanh nghiệp nhà nước thì sự 
đánh đồng các doanh nghiệp đều có nghĩa vụ 
nộp thuế như nhau là không thỏa đáng. Bởi vậy, 
các biện pháp ưu đãi thuế phải được áp dụng 
linh hoạt để các chủ thể nộp thuế đều có quyền 
được hưởng lợi từ chính sách ưu đãi. 
Ngoài ra, như trên đã đề cập đến sự bất cập 
trong qui định về mức phạt chậm nộp thuế, Luật 
QLT cần cụ thể hóa để phân định mức độ nặng 
nhẹ trong xử phạt theo số lần chậm nộp, mức 
chậm nộp và thời hạn chậm nộp để buộc người 
nộp thuế phải tuân thủ nghĩa vụ và hạn chế tối 
đa thất thu NSNN. 
3.2. Xây dựng Luật dễ hiểu, dễ áp dụng, trao 
quyền cho Cơ quan Tư pháp giải thích pháp 
luật 
Mặc dù doanh nghiệp là đơn vị kinh doanh 
có các bộ phận phụ trách tài chính, kế toán, thuế 
am hiểu kiến thức chuyên môn, nhưng do các 
văn bản pháp luật còn được hiểu và thực hiện 
khác nhau giữa các Bộ, Ngành khiến cho nhiều 
trường hợp doanh nghiệp phải nộp thuế oan [5]. 
Mặc dù hàng năm, Bộ Tài Chính và Tổng 
cục Thuế nhiều đợt tổ chức đối thoại với doanh 
nghiệp về Thuế và Hải quan, nhưng không phải 
tất cả các vấn đề bất cập đều được giải quyết do 
liên quan đến sửa đổi Luật, Nghị định và Thông 
tư. Không thể phủ nhận Luật pháp bao giờ cũng 
lạc hậu hơn so với thực tiễn cuộc sống, tuy 
nhiên, nếu Luật đề ra nguyên tắc áp dụng có lợi 
cho người nộp thuế khi các qui định dưới luật 
chưa giải thích kịp thì vẫn có thể đảm bảo 
quyền lợi cho người nộp thuế. 
Để tạo tiền đề áp dụng Pháp luật thuế một 
cách khách quan, nên trao quyền cho cơ quan tư 
pháp giải thích pháp luật dựa trên nguyên tắc 
đánh thuế. 
3.3. Qui định trách nhiệm của cán bộ công 
chức ngành thuế 
Một trong những nguyên nhân pháp luật 
chưa đi vào cuộc sống đó là trao quá nhiều 
quyền cho Cơ quan hành pháp giải thích pháp 
luật. Trên thực tế, người nộp thuế khi làm các 
thủ tục hành chính cần phải tìm người thân 
quen, chạy vạy là hiện tượng phổ biến, tất nhiên 
không chỉ chạy để “làm sai có lợi” mà còn có cả 
chạy để “làm đúng”. Qui định pháp luật càng 
thiếu minh bạch thì càng dễ dẫn đến tình trạng 
lạm dụng của cán bộ công chức thuế, hải quan 
trong thi hành công vụ. Đối với việc thu chi 
NSNN, việc thu không đúng và đủ vào NSNN 
trước hết là Nhà nước bị thiệt, người nộp thuế 
và cán bộ thuế được hưởng lợi bất hợp pháp 
dẫn đến tiền lệ xấu khó có thể phòng ngừa hành 
vi thông đồng trốn thuế. Đại biểu Quốc hội Võ 
Kim Cự cũng đã nhấn mạnh trong phiên họp 
Quốc hội tháng 6/2012, “việc thất thu thuế 
không chỉ do đối tượng nộp thuế, mà có cả 
nguyên nhân quan trọng từ cơ quan quản lý 
thuế. Không ít cán bộ thuế thiếu trách nhiệm, cố 
ý làm trái, có hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực 
khiến đối tượng nộp thuế bất hợp tác. Thế 
nhưng Luật QLT lại bỏ quên vấn đề này” [6] . 
Bởi vậy, ngoài cụ thể hóa qui định trách nhiệm 
N.T.L. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 1 (2013) 42-50 
50 
của Cơ quan Thuế trong Luật QLT, cần qui 
định nguyên tắc giám sát thi hành công vụ của 
cán bộ công chức trong Hiến pháp, đồng thời 
qui định những chế tài xử phạt nghiêm khắc khi 
công chức ngành Thuế, Hải quan có hành vi 
phạm. 
Thay cho lời kết 
Luật QLT và các văn bản pháp luật liên 
quan cần phải quán triệt tinh thần “Thuế là tài 
sản của nhân dân và được sử dụng vì lợi ích của 
nhân dân”. Cơ quan Lập pháp và Cơ quan Hành 
pháp có trách nhiệm ban hành và sửa đổi chính 
sách, pháp luật thuế phù hợp với yêu cầu thực 
tiễn, hỗ trợ quá trình thu nộp thuế theo đúng 
pháp luật trên tinh thần tôn trọng và bảo vệ lợi 
ích của người nộp thuế. Sự bất cập trong qui 
định pháp luật và thiếu cơ chế giải thích pháp 
luật một cách khách quan và đảm bảo công 
bằng sẽ làm mất niềm tin của người dân và 
doanh nghiệp vào Nhà nước. Bởi vậy, hoàn 
thiện pháp luật QLT trên tinh thần tôn trọng 
quyền của người nộp thuế sẽ góp phần đưa trật 
tự kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật và hạn 
chế tối đa những hành vi sai trái của người có 
chức vụ, công chức, viên chức ngành Thuế, Hải 
quan. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Tổng Cục Hải Quan: “ Tăng cường kiểm tra 
thuế tại trụ sở của người nộp thuế”. Tải từ 
 ngày 11/6/2012. 
[2] Hữu Trọng: “Luật quản lý thuế : Quản lý rủi ro, 
chống chuyển gía và trì hoãn nộp thuế”, Thông 
tin Tài chính, số 8/2012. 
[3] Giới trình Luật thuế Việt Nam, Đại học Luật 
Hà nội, Nhà xuất bản Tư pháp, 2006, tr 12. 
[4] Thu Thủy, “Khẩn trương triển khai các giải 
pháp cứu doanh nghiệp”, Thời báo Tài chính 
ngày 8/6/2011 
[5] “ Bộ Tài chính đối thoại với doanh nghiệp về 
thuế và Hải quan”. Thuế Nhà nước, số 37, tháng 
10/2011. 
[6] Quý Trường, “Luật quản lý thuế “quên” trách 
nhiệm cơ quan thuế. Báo Công an Nhân dân, 
ngày 2/6/2012. 
On the Protection of the Taxpayer’s Rights in the Law 
on Tax Adminitration 
Nguyễn Thị Lan Hương* 
VNU School of Law, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hanoi, Vietnam 
Abstract: Enterprises and Inviduals have duties to pay taxes according to the Constitution Law 
and Tax Laws. The Law on Tax Administration defines and guarantees the process of collecting and 
paying taxes in to the state Budget. Enterprises play an intermediary role in collecting indỉrect tax that 
impose on consumers such as Value Added Tax, Import Tax and Special Consumer Tax, and also have 
the duty to pay Enterprise Income Tax. The process of paying taxes relates directly to interests of 
Consumers and Enterprises. So that, it is necessary to protect Taxpayer’s Rights in the Law on Tax 
Administrarion and related Laws. 

File đính kèm:

  • pdfve_bao_ve_quyen_cua_nguoi_nop_thue_trong_luat_quan_ly_thue.pdf