Văn hóa gia tộc Việt Nam

Tóm tắt: Văn hóa gia tộc ở Việt Nam có nhiều nét đặc thù, có những giá trị và hạn chế. Những giá

trị nổi bật là: ý thức tìm về nguồn cội, việc ghi dấu ấn của những giá trị văn hiến trong dòng chảy

văn hóa dân tộc, vai trò quan trọng trong giáo dục nhân cách cá nhân, góp phần khơi dậy tinh thần

hiếu học trong dòng họ, gia tộc. Bên cạnh đó, văn hóa gia tộc còn có những hạn chế như: khuếch

trương gia tộc, lợi dụng tâm linh, tín ngưỡng thờ cúng dòng họ để ganh đua; đưa quan hệ gia tộc

vào trong quan hệ nhà nước; lối sống tiểu nông, gia trưởng, bè phái. Người Việt Nam cần nhận

thức rõ giá trị và hạn chế của văn hóa gia tộc ở Việt Nam; từ đó, có giải pháp phù hợp để phát huy

giá trị và khắc phục hạn chế.

pdf 8 trang phuongnguyen 3420
Bạn đang xem tài liệu "Văn hóa gia tộc Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Văn hóa gia tộc Việt Nam

Văn hóa gia tộc Việt Nam
89 
Văn hóa gia tộc Việt Nam 
Lâm Bá Hòa1 
1
 Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng. 
Email: lamtuelam@due.edu.vn 
Nhận ngày 14 tháng 11 năm 2018. Chấp nhận đăng ngày 3 tháng 12 năm 2018. 
Tóm tắt: Văn hóa gia tộc ở Việt Nam có nhiều nét đặc thù, có những giá trị và hạn chế. Những giá 
trị nổi bật là: ý thức tìm về nguồn cội, việc ghi dấu ấn của những giá trị văn hiến trong dòng chảy 
văn hóa dân tộc, vai trò quan trọng trong giáo dục nhân cách cá nhân, góp phần khơi dậy tinh thần 
hiếu học trong dòng họ, gia tộc. Bên cạnh đó, văn hóa gia tộc còn có những hạn chế như: khuếch 
trương gia tộc, lợi dụng tâm linh, tín ngưỡng thờ cúng dòng họ để ganh đua; đưa quan hệ gia tộc 
vào trong quan hệ nhà nước; lối sống tiểu nông, gia trưởng, bè phái. Người Việt Nam cần nhận 
thức rõ giá trị và hạn chế của văn hóa gia tộc ở Việt Nam; từ đó, có giải pháp phù hợp để phát huy 
giá trị và khắc phục hạn chế. 
Từ khóa: Gia tộc, văn hóa gia tộc, dòng họ, Việt Nam. 
Phân loại ngành: Triết học 
Abstract: The clan culture in Vietnam bears many characteristics, with both values and limitations. 
Among them, the outstanding values are the sense of one’s origin, the cultural and civilisation 
values imbued in the flow of the national culture, the important role in nurturing good personality, 
and the encouragement towards learning in the family and clan. Yet, the clan culture does have 
limitations such as being abused to boost the position of one’s own clan, being abused in the 
spiritual activities and worship to vie with other clans, the family ties brought into the working 
relations in the offices, the petty peasant lifestyle, patriarchy and sectarianism. Vietnamese people 
should be clearly aware of the values and limitations of the clan culture, and, from that, find 
appropriate solutions to bring into full play the former and overcome the latter. 
Keywords: Clan, clan culture, kin, Vietnam. 
Subject classification: Philosophy 
1. Mở đầu 
Việt Nam là một dân tộc có bề dày lịch sử 
hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, là 
một trong những quốc gia có nền văn hóa 
mang đậm bản sắc dân tộc. Văn hóa Việt 
Nam là một nền văn hóa động, dễ tiếp biến 
văn hóa chung của nhân loại. Văn hóa gia 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 1 - 2019 
90 
tộc là một phần cơ bản của văn hóa Việt 
Nam cả trong truyền thống và hiện đại. Tuy 
nhiên, cho đến nay, văn hóa gia tộc Việt 
Nam vẫn chủ yếu được tiếp cận ở các 
nghiên cứu dân tộc học, ít được đề cập 
trong những nghiên cứu triết học cũng như 
các khoa học liên ngành. Bài viết này làm 
rõ thêm tính đặc thù của văn hóa gia tộc 
Việt Nam, những giá trị cũng như hạn chế 
của văn hóa gia tộc Việt Nam từ phương 
diện triết học. 
2. Tính đặc thù của văn hóa gia tộc 
Việt Nam 
Cho đến nay vẫn còn nhiều quan niệm khác 
nhau về văn hóa gia tộc Việt Nam. Chẳng 
hạn, Trần Từ cho rằng: “Gia tộc Việt từ lâu 
đã giải thể đến mức gia đình nhỏ rồi, thậm 
chí trong tuyệt đại đa số các trường hợp là 
gia đình hạt nhân” [12, tr.41]; “mỗi gia đình 
nhỏ là một bếp riêng, với quyền sở hữu 
riêng và nền kinh tế riêng của mình. Như 
vậy, dòng họ không phải là một “đơn vị 
kinh tế”, vì các thành viên trong một dòng 
họ không ăn chung, không ở chung, và 
không có đất đai trồng trọt cùng sở hữu” 
[12, tr.41]; “làng Việt cổ truyền là một đơn 
vị tụ cư được tập hợp chủ yếu theo quan hệ 
láng giềng” [12, tr.32, 38]. Phan Đại Doãn 
cho rằng: “Theo nghĩa rộng thì dòng họ, 
ngoài mối liên hệ ngang lại có mối liên hệ 
dọc đứng đến 9 đời (cửu tộc), ngoài ra còn 
có quan hệ nội ngoại, nhưng huyết thống 
bên nội vẫn luôn là huyết thống quyết định 
nhất”; “Theo nghĩa hẹp, gia tộc là quan hệ 
huyết thống (thân sơ khác nhau), có một 
mối quan hệ tín ngưỡng và kinh tế nhất 
định (có nhà thờ, có quỹ chung hoặc có 
ruộng hương hỏa như trước đây) nhưng 
không chung một ngôi nhà, một bếp, một 
gia đình duy trì quan hệ ngang” [6, tr.127]. 
Phan Kế Bính cho rằng: “Trong thân thuộc 
là một gia tộc. Góp nhiều gia tộc này gia 
tộc khác mới thành ra nước, thành ra xã hội. 
Vậy thì hợp lại mà nói là một nước, phân ra 
mà nói thì là từng gia tộc một. Gia tộc tức 
là một đoàn thể nhỏ trong đoàn thể lớn như 
vậy” [4, tr.24]. Đào Duy Anh thì nhận định: 
“Gia tộc Việt Nam xưa nay có hai bậc một 
là nhà, hay tiểu gia đình gồm vợ chồng mẹ 
và con cái, hai là họ, hay là đại gia đình 
gồm cả đàn ông đàn bà cùng một ông tổ 
sinh ra, kể cả người chết và người sống. 
Thực vậy, trong gia tộc ở nước ta người 
chết dẫu ở cảnh giới cao siêu, song vẫn 
thường dự đến cuộc sinh hoạt của gia đình, 
và những ngày lễ tết thảy đều tựu tập từ 
đường để cho người sống tế tự” [1, tr.109]. 
Theo Toan Ánh: “Gia đình là một tập hợp 
nhỏ gồm tất cả mọi người quyến thuộc 
trong nhà - vì có những người quyến thuộc 
nhưng không ở trong gia đình: đây là những 
người quyến thuộc trong gia tộc còn được 
gọi là đại gia đình. Đại gia đình gồm nhiều 
gia đình đồng quyến thuộc. Gia đình còn 
được gọi là nhà, và gia tộc là họ. Gia đình 
gồm vợ chồng, trên có cha mẹ dưới có con 
cái, gia tộc gồm tất cả đàn ông, đàn bà cùng 
một ông tổ sinh ra, kể cả người chết và 
người sống” [2, tr.10]. Khi đề cập đến tính 
tôn ti trong quan hệ gia tộc, Vân Hạnh đã 
viết: “Những người cùng quan hệ huyết 
thống gắn bó mật thiết với nhau thành đơn 
vị cơ sở là gia đình và đơn vị cơ sở này lại 
cấu thành là gia tộc. Đối với người Việt 
Nam, gia tộc trở thành một cộng đồng gắn 
bó có vai trò quan trọng, thậm chí còn hơn 
cả gia đình. Bằng chứng là người Việt coi 
trọng trưởng họ, tộc trưởng, nhà thờ họ 
từ đường, gia phả, ruộng kị, giỗ tổ, mừng 
thọ. Thuở xưa, có gia đình dù ở hạng cùng 
đinh cũng không bao giờ quên ngày giỗ họ. 
Lâm Bá Hòa 
91 
Ở Việt Nam, làng và gia tộc (dòng họ) 
nhiều khi đồng nhất với nhau. Dấu vết hiện 
tượng “làng là nơi ở của họ” còn lưu lại đến 
ngày nay, ví dụ như, Đặng Xá là nơi ở của 
họ Đặng xưa kia, Ngô Xá, Đỗ Xá, Trần Xá, 
Nguyễn Xá, Lê Xá cũng chỉ tương tự như 
vậy Trong làng, người Việt cho đến giờ 
vẫn thích sống theo lối đại gia đình: các cụ 
già lấy làm hãnh diện nếu họ đứng đầu một 
gia đình quần tụ được 3, 4 thế hệ (tam đại 
đồng đường, tứ đại đồng đường)” [9, tr.15-
16]. Trần Trọng Dương cho rằng: “Ở Việt 
Nam, văn hóa dòng tộc chịu những biến 
thiên vũ bão của lịch sử, chính trị. Mỗi triều 
đại là một dòng họ. Đi theo dòng họ cầm 
quyền là nhiều dòng họ khác chung quyền 
lợi. Xáo trộn chính trị dẫn đến việc văn hóa 
gia tộc Việt luôn bị biến động và bị đứt 
gãy. Bởi thế, cứ mỗi lần thay đổi triều đại là 
một lần gia phả của các dòng họ trâm anh 
thế phiệt bị đứt. Con cháu của các dòng họ 
này hoặc cải tên, đi biệt xứ; hoặc bị tru di 
cả dòng tộc. Đây cũng là bài toán khó trong 
nghiên cứu phả hệ ở Việt Nam” [11]. 
Léopold Cadière nhận xét: “Người Việt cho 
dù bất cứ hoàn cảnh nào cũng thuộc về một 
họ, tức gia đình theo nghĩa rộng, tổ chức 
vững chắc, liên kết chặt chẽ bằng huyết 
thống, bằng những quyền lợi vật chất, bằng 
những niềm tin tôn giáo, bằng các mối dây 
luân lý của cộng đồng” [5, tr.241-242]. 
Từ những ý kiến trên cho thấy, theo tôi, 
văn hóa gia tộc Việt Nam mang nhiều nét 
đặc thù so với thế giới như sau. 
Thứ nhất, các gia tộc ở Việt Nam không 
tách biệt với làng xã, mà liên quan chặt chẽ 
với làng xã trong một nền văn hóa nông 
nghiệp lúa nước. Trong đó, truyền thống gia 
tộc là một nhân tố tạo nên truyền thống làng 
xã, địa phương, và rộng hơn, tạo nên truyền 
thống dân tộc. Chính điều này đã tạo nên sự 
khác biệt giữa gia tộc ở Việt Nam so với gia 
tộc ở các nước phương Tây. 
Thứ hai, quan niệm chi phối đời sống 
của người dân cho rằng, mỗi người dân phải 
làm tròn bổn phận và nghĩa vụ đối với hai 
đối tượng quan trọng nhất: bên trong là họ 
hàng, bên ngoài là làng xóm. Điều này cho 
thấy, sống trong môi trường gia tộc, mỗi cá 
nhân luôn được đặt trong mối quan hệ với 
gia đình, và các thành viên trong nhiều gia 
đình có cùng chung huyết thống hoặc dòng 
họ cũng có mối quan hệ gắn kết theo trật tự 
sắp xếp tôn ti trên dưới rất rõ ràng, chặt chẽ 
và nghiêm ngặt. Vân Hạnh đã chỉ rõ: “Quan 
hệ huyết thống trong gia tộc là quan hệ theo 
hàng dọc, theo thời gian. Đây chính là cơ sở 
của tính tôn ti. Người Việt có hệ thống tôn 
ti trực tiếp rất chi li, phân biệt rạch ròi đến 9 
thế hệ (gọi là cửu tộc). Nếu chúng ta lấy 
bản thân mình làm trung tâm thì trên có: kị 
(cố), cụ, ông, cha; dưới có: con, cháu, chút, 
chít. Hệ thống cửu tộc này thuộc loại hiếm 
gặp trên thế giới và có nguồn gốc rất lâu 
đời. Tôn ti giáp tiếp (con chú con bác, anh 
em họ) cũng được quy định rất nghiêm 
ngặt; các cụ thường dạy con cháu: Xanh 
đầu con nhà bác, bạc đầu con nhà chú; Bé 
bằng củ khoai, cứ vai mà gọi” [9, tr.16]. 
Thứ ba, gia tộc có uy quyền rất lớn đối 
với mọi thành viên. Có thể nói, đối với một 
nền văn hóa gốc nông nghiệp lúa nước điển 
hình như Việt Nam thì tổ chức nông thôn, 
mà cụ thể là gia đình, gia tộc ở các làng xã, 
được xem là quan trọng nhất. Quyền uy và 
trật tự của gia đình, gia tộc luôn được pháp 
luật bảo vệ thông qua các hương ước, lệ 
làng. Địa vị của gia đình, gia tộc trong xã 
hội được xem là cốt lõi. Sống trong môi 
trường xã hội như vậy, con người ta đã 
hoàn toàn bị hòa tan trong gia đình, gia tộc, 
mà ít quan tâm đến những vấn đề của quốc 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 1 - 2019 
92 
gia đại sự (kiểu như: “Tinh thần gia tộc 
càng đậm đà chừng nào thì tinh thần quốc 
gia và xã hội càng bạc nhược chừng ấy”) [1, 
tr.26]. Trần Quốc Vượng đã nhận định: 
“Nghiên cứu văn hóa làng - văn hóa ngôn 
từ, văn chương truyền miệng, phong tục tập 
quán, lễ hội, tín ngưỡng, tôn giáo; nghiên 
cứu cơ cấu xã hội, môi trường xã hội Việt 
Nam trong văn hóa Việt Nam, nhiều học 
giả cho rằng chính “chủ nghĩa gia tộc” là 
cái giải thích tinh thần trọng đạo đức của 
người Việt Nam, là sự quy chiếu mọi giá trị 
đạo đức. Trong “chủ nghĩa gia tộc” ấy lại 
có đặc trưng cơ bản là duy tình, trong đó 
cốt lõi là ý thức trách nhiệm lâu dài và toàn 
vẹn đối với các thế hệ tiếp theo” [13, tr.37]. 
Thứ tư, truyền thống gia tộc được xem 
như một nghĩa vụ thiêng liêng mà mỗi thành 
viên trong gia tộc phải luôn có ý thức giữ 
gìn; nó không chỉ chi phối lớn đối với sự 
phát triển của các thành viên trong gia tộc, 
mà còn được xem như sợi dây ràng buộc để 
mỗi cá nhân tự ý thức về truyền thống của 
gia đình, gia tộc, dòng họ mình. Đó là sự đề 
cao vấn đề danh dự gia đình, gia tộc, là sự 
khuyến khích con cháu noi gương tổ tiên về 
truyền thống hiếu học, truyền thống đỗ đạt, 
làm quan, truyền thống làm kinh tế giỏi, 
truyền thống thượng võ, truyền thống cố kết 
gia tộc Với việc đề cao truyền thống của 
gia tộc, mỗi thành viên trong gia tộc không 
chỉ có bổn phận và nghĩa vụ tuân thủ gia lễ, 
gia phong, gia pháp, mà còn có bổn phận và 
nghĩa vụ phải cố gắng học hành, đỗ đạt, làm 
kinh tế giỏi để làm rạng rỡ cho gia tộc, xóm 
làng, phải luôn nuôi dưỡng trong mình lòng 
tự tôn gia tộc, phải góp sức tùy theo khả 
năng vào sự phát triển gia tộc những người 
kinh doanh thành đạt sẵn sàng giúp những 
người nghèo khó trong gia tộc vượt qua khó 
khăn, từng bước vươn lên trong cuộc sống. 
Phan Kế Bính đã đề cập trong Việt Nam 
phong tục rằng: “Người ta đối với xã hội có 
nghĩa vụ chung, thì đối với gia tộc cũng phải 
có cái nghĩa vụ riêng. Nghĩa vụ riêng là gì? 
Là các cư xử trong gia đình. Ở trên kính 
dưới nhường, ở cho trong ấm ngoài êm là 
đủ. Nghĩa là trong họ hàng chỉ cốt lấy hòa 
mục làm đầu mà thôi” [4, tr.24]. 
Thứ năm, sức mạnh gia tộc, ý thức gia 
tộc thể hiện ở tinh thần đùm bọc, thương 
yêu nhau. Người trong một họ có trách 
nhiệm cưu mang nhau về vật chất (thể hiện 
ở câu “sẩy cha còn chú, sẩy mẹ bú dì”), hỗ 
trợ nhau về trí tuệ, tinh thần (thể hiện ở câu 
“nó lú nhưng chú nó khôn”) và dìu dắt 
nhau, làm chỗ dựa cho nhau về mặt xác lập 
địa vị xã hội (thể hiện ở câu “một người 
làm quan cả họ được nhờ”). Không chỉ 
được thể hiện ở tinh thần đùm bọc, tương 
thân tương ái, ý thức gia tộc còn thể hiện 
mạnh mẽ ở nhiều thiết chế văn hóa khác 
nhau của gia tộc, dòng họ (như: từ đường, 
nhà thờ tổ, lễ giỗ tổ, lập gia phả). Việc xây 
dựng từ đường, việc giỗ tổ, lập gia phả (tộc 
phả) hiện nay rất được coi trọng ở nhiều gia 
tộc. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một tín 
ngưỡng đặc trưng của người Việt, đây cũng 
là một trong những yếu tố quan trọng góp 
phần không nhỏ vào việc thắt chặt các quan 
hệ họ hàng, gia tộc. Con người không phải 
bỗng dưng được sinh ra, mà phải có gia 
đình, gia tộc, đồng thời cảm nhận được bổn 
phận thiêng liêng của mình với gia tộc, đối 
với dòng họ và cộng đồng. Với người Việt 
Nam, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên thật sâu 
sắc, đó không chỉ là tín ngưỡng thờ phụng 
tổ tiên và dòng họ, mà còn liên quan chặt 
chẽ đến vấn đề đời sống tâm linh. Không 
mấy ai không nghĩ đến phúc đức mà gia đình, 
gia tộc để lại cho con cháu, hay sự linh thiêng 
của ngôi mộ tổ. Sự ghi nhớ công ơn tổ tiên, 
hiểu rõ nguồn cội và sự phát triển, sự chuyển 
Lâm Bá Hòa 
93 
dịch, sự thịnh suy của họ tộc sẽ giúp cho việc 
nhắc nhở con cháu phải thường xuyên nêu 
cao trách nhiệm đối với họ tộc. 
3. Giá trị của văn hóa gia tộc ở Việt Nam 
Một là, ý thức tìm về nguồn cội là một 
trong những giá trị tinh thần tiêu biểu hàng 
đầu của văn hóa gia tộc ở Việt Nam. Về 
điều này có ý kiến cho rằng: “Cách dựng 
gia tộc của ta cũng là một phong tục hay. Vì 
có nghĩa gia tộc thì người ta mới biết quí 
trọng cái thân tình để phụng sự tổ tông và 
khiến cho người ta phải lo lắng để di truyền 
cho con cháu” [4, tr.24-25]. Chính ý thức 
nguồn cội là sợi chỉ xuyên suốt các bộ phận 
của hệ thống cấu trúc xã hội, từ cá nhân đến 
gia đình, gia tộc, dòng họ, làng xã, vùng 
miền, quốc gia. Chính ý thức về nguồn cội 
trong văn hóa Việt Nam đã tạo thành nguồn 
lực nội sinh trong đấu tranh dựng nước và 
giữ nước. Dù ở đâu và bất cứ khi nào thì ý 
thức về nguồn cội, về tổ tiên, trước hết là tổ 
tiên dòng tộc, đã ăn sâu vào tâm trí, ngấm 
trong máu thịt mỗi người dân Việt Nam. Ý 
thức về nguồn cội trước hết được thể hiện 
rất rõ trong thờ cúng tổ tiên dòng tộc. Ngày 
giỗ tổ, ngày giỗ họ tại nhà thờ gia tộc, nhà 
thờ họ cùng những mối quan hệ khăng khít 
đời thường giữa những người cùng gia tộc, 
dòng họ và những sinh hoạt cộng đồng giúp 
cho mọi người xích lại gần nhau hơn, thắt 
chặt tình cảm và nâng cao tinh thần tương 
thân, tương ái. 
Hai là, văn hóa gia tộc là một trong 
những bộ phận quan trọng hình thành văn 
hóa và văn hiến dân tộc. Về điều này có ý 
kiến cho rằng; “Ai cũng mong cho con cháu 
khá thì ai cũng phải làm trọng cái nghĩa vụ 
của mình, đem mồ hôi nước mắt ra gây 
dựng cho kẻ mai sau; rồi thành ra mở núi 
phá rừng, sinh công nghiệp cũng bởi đó mà 
ra cả” [4, tr.25]. Thực tế cho thấy, ở những 
địa phương mà các gia tộc đã trải qua quá 
trình tồn tại và phát triển lâu đời cả ở nông 
thôn và thành thị, bên cạnh những làng 
nghề, gia tộc làm nghề cha truyền con nối, 
có không ít gia tộc khoa bảng, gia tộc văn 
hiến... Đây là những gia tộc đã sản sinh và 
trao truyền được những giá trị văn hóa tiêu 
biểu, những gương mặt hiền tài xuất chúng 
cho dân tộc, cho địa phương ở những giai 
đoạn lịch sử nhất định. Tuy nhiên, đến nay 
vấn đề này chưa được nhìn nhận thật chân 
xác dưới một cái nhìn tổng quan. Vì thế, 
đánh giá đúng đắn vai trò của cá nhân, của 
gia tộc văn hiến, gia tộc khoa bảng trong 
việc hình thành văn hiến, văn hóa Việt Nam 
xưa và nay, thiết nghĩ, vẫn đang là một vấn 
đề rộng mở cần được nghiên cứu sâu hơn ở 
góc độ khoa học chuyên ngành hoặc liên 
ngành. 
Ba là, văn hóa gia tộc đóng vai trò quan 
trọng trong việc giáo dục nhân cách của cá 
nhân. Việc giáo dục con cháu là trách 
nhiệm chung của cả gia đình và gia tộc. 
Như trên đã đề cập, ý thức gia tộc là nét văn 
hoá đặc sắc bao trùm lên vấn đề gia tộc. Vì 
vậy, với truyền thống gia tộc, người ta phải 
sống thế nào cho xứng đáng với truyền 
thống của cha ông, trước hết là trong cung 
cách đối xử với những người cùng máu mủ. 
Tình cảm dòng họ là một tình cảm tự nhiên 
và thiêng liêng, nảy sinh từ quan hệ máu 
thịt, nên cách ứng xử của người trong gia 
tộc với nhau bao giờ cũng khác với những 
người dưng. Quan hệ gia tộc là chỗ dựa tinh 
thần cho mỗi cá nhân trong gia tộc, có nó, 
người ta không cảm thấy bị đứt đoạn với 
nguồn cội, không còn cảm thấy lạc lõng 
giữa cuộc đời đầy biến động. Mối quan hệ 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 1 - 2019 
94 
gia đình và gia tộc là nhân tố quan trọng 
góp phần hình thành và phát triển nhân 
cách, trong đó có nếp sống, nếp ứng xử, 
giao tiếp giữa các cá nhân và xã hội. Như 
cha ông ta đã đúc rút ra từ cuộc sống: “một 
giọt máu đào hơn ao nước lã”, “trên kính, 
dưới nhường”, “chị ngã, em nâng”, “sảy 
cha còn chú, sảy mẹ bú dì”, “anh em vì tổ 
vì tiên, không ai anh em vì tiền vì gạo”. 
Đây chính là những giá trị văn hoá đặc sắc 
của chủ nghĩa gia tộc ở Việt Nam, những 
giá trị đó không chỉ chứa đựng tính nhân 
văn, mà còn để lại những dấu ấn khó phai 
trong lịch sử, đồng thời có sức lan tỏa đến 
các thế hệ mai sau. 
Bốn là, tinh thần hiếu học là nét độc đáo 
của dân tộc Việt Nam nói chung và của rất 
nhiều gia tộc ở nước ta nói riêng. Các gia 
tộc, dòng họ luôn đề cao, tôn trọng việc học 
tập, tôn trọng nhân tài, tôn sư trọng đạo, có 
những dòng họ dù nghèo khó đến đâu cũng 
vẫn khuyến khích con em trong dòng họ 
học hành. Đại đa số các dòng họ đều có quỹ 
khuyến học, có những phương pháp thúc 
đẩy ý thức học hành. Trong các quyển sử 
của hầu hết các dòng họ đều có phần “khoa 
danh trường biên”, ghi lại thành tích học 
hành khoa bảng của các cá nhân ở nhiều thế 
hệ khác nhau. Một số dòng họ, còn xây cả 
bia trong khuôn viên nhà thờ họ (gọi là bia 
“Bách danh tài”), để ghi tên những người 
có công lao đối với đất nước, làng xóm, 
dòng họ hoặc có những thành tích nổi bật 
trong học hành khoa bảng, làm rạng danh 
cho dòng họ. Như vậy, việc phát huy 
truyền thống gia tộc sẽ có nhiều tác động 
tích cực đến sự phát triển của cộng đồng. 
Gia đình nào cũng nằm trong dòng họ, nếu 
biết giáo dục con cháu hướng về tổ tiên, 
cha ông, giữ gìn đạo lý gia phong của dòng 
họ thì tác dụng to lớn của dòng họ sẽ 
không ngừng được phát huy. Có thể nói, 
chính truyền thống dòng họ người Việt 
mang đậm chất nhân văn của nền văn minh 
nông nghiệp lúa nước cổ truyền, với ý thức 
sâu sắc về nguồn cội, đã trở thành nguồn 
sức mạnh tinh thần vô giá. Nó làm thức 
dậy lòng kiêu hãnh, tự hào, đốt cháy niềm 
phấn khích, đam mê, tiếp thêm sức mạnh 
tinh thần để cháu con bứt phá vươn lên trở 
thành kẻ tài đức song toàn, nối nghiệp tổ 
tông, sáng danh dòng tộc, vinh hiển quốc 
gia. Sản sinh những tài năng, giáo dục 
nhân cách, cổ vũ tinh thần để góp phần 
phát triển những nhân tài đặc biệt, định 
hình nhân cách lớn cho nền văn hiến dân 
tộc, có thể nói, truyền thống gia tộc đã góp 
phần tạo dựng và nuôi dưỡng bản sắc văn 
hóa Việt Nam. 
4. Hạn chế của văn hóa gia tộc ở 
Việt Nam 
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng 
trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã 
hội hiện nay, văn hóa gia tộc Việt Nam đang 
bộc lộ những mặt hạn chế. 
Thứ nhất, hiện tượng phục hưng dòng 
họ, khuếch trương gia tộc ở nhiều nơi hiện 
nay gây ra những tác động tiêu cực trong xã 
hội. Trước hết, đó là hiện tượng bè phái, 
cục bộ đưa đến kèn cựa giữa các dòng họ, 
các gia tộc với nhau dẫn đến sự mất đoàn 
kết, giảm tính tương thân tương ái. Hiện 
nay, nhiều nơi ở nước ta vẫn còn hiện tượng 
dòng họ này, gia tộc kia gây thanh thế, tạo 
thế lực trong các tổ chức chính trị - xã hội, 
trong chính quyền ở nhiều nơi, như truyền 
thông phản ánh trong thời gian vừa qua, đã 
tạo nên những hình ảnh không hay. Đây 
chính là mặt trái của văn hóa gia tộc cần 
Lâm Bá Hòa 
95 
phải hạn chế hoặc ngăn chặn. Điều này 
không phải bây giờ mới có. Ngay từ xưa, 
Phan Kế Bính đã viết: “Xét cách bầu cử 
tổng lý của ta khi xưa thật lắm phiền nhiễu 
mà phần nhiều dùng cách tư tình, những 
người làm việc chẳng qua lại là con cháu họ 
hàng với những chức sắc kỳ mục. Trừ ra 
những làng khó khăn không ai muốn làm 
không kể, còn về các làng tốt bổng, con cái 
nhà có thế lực tranh nhau mà ra, có mấy khi 
lọt vào tay người khác được. Vì thế lý dịch 
hay có bè đảng, mà nhất là hay a dua với 
hàng kỳ mục để dễ cho sự thầm vụng của 
mình” [4, tr.180]. 
Thứ hai, hiện tượng phục hồi các dòng 
họ, các gia tộc kéo theo sự phục hồi nhiều 
loại hình tín ngưỡng. Đây cũng là nguyên 
nhân dẫn đến các hiện tượng mê tín, cúng 
tế, xôi thịt linh đình, lợi dụng tâm linh, tín 
ngưỡng trong thờ cúng tổ tiên, thờ cúng 
dòng họ (ganh đua xây cất nhà thờ họ, mộ 
tổ, từ đường hào nhoáng, tốn kém, tạo sức 
ép và gánh nặng cho cộng đồng nhỏ. 
Thứ ba, hiện tượng liên kết gia tộc trong 
bộ máy cơ quan nhà nước là một vấn đề 
được dư luận xã hội quan tâm. Truyền 
thông báo chí và dư luận xã hội đã tốn 
nhiều giấy mực khi bàn về hiện tượng “cha 
truyền con nối” hay “một người làm quan, 
cả họ làm quan” như trường hợp của dòng 
họ Bí thư ở Hà Giang, hay việc cả nhà làm 
quan cấp huyện ở huyện A Lưới (Thừa 
Thiên - Huế), hoặc “dòng họ trị” tại Bắc 
Ninh, Hải Dương, Hải Phòng. Việc gia tộc 
Nehru - Gandhi ở Ấn Độ ba đời làm lãnh 
đạo; gia đình Bush hai đời cha con làm tổng 
thống Mỹ, cha con ông Lý Quang Diệu thay 
nhau quản lý đất nước Singapore... khác với 
“phong trào” “cha truyền con nối” ở Việt 
Nam. Bởi thực tế ở nước ta hiện nay, chính 
quyền các cấp ở nhiều địa phương vẫn còn 
tình trạng “Đảng ủy họ”, “Đảng ủy đồng 
hương” [3, tr.100]. Việc đề bạt, bổ nhiệm ở 
nhiều địa phương hiện nay cốt sao “phải 
con cháu nhà mình” ngồi vào, chứ không 
phải là “ao nước lã”. Ví như, giám đốc 
Bệnh viện đa khoa huyện Thanh Bình 
(Đồng Tháp) bổ nhiệm con trai mình khi 
mới có 6 tháng “kinh nghiệm công tác”; 
một người vừa được làm Cục trưởng đã 
đề nghị bổ nhiệm vợ của mình làm cục 
phó, v.v.. 
Thứ tư, trong đời sống xã hội, nhất là ở 
đô thị, việc mở rộng quan hệ ứng xử gia 
đình - gia tộc - dòng họ ở nông thôn ra 
phạm vi toàn xã hội đã và đang bộc lộ 
những mặt hạn chế (như lối sống tiểu nông, 
thói gia trưởng, sự hành xử và làm việc tùy 
tiện, nhịp độ lao động chậm, thói ti tiện bè 
phái, cách xưng hô và ứng xử kiểu gia đình 
chủ nghĩa...). Tất cả những hạn chế này đều 
không phù hợp với chuẩn mực ứng xử của 
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 
Thứ năm, dựa vào thế có người nhà, 
người thân trong gia tộc có chức có quyền 
để bóp méo luật pháp, làm ăn sai trái. 
Người Việt Nam có câu “Một người làm 
quan cả họ được nhờ”; đồng thời cũng có 
câu khác rằng “Một người làm nên cả họ 
được cậy, một người làm bậy cả họ hổ 
danh”. Trên thực tế, trong nhiều cơ quan, tổ 
chức, đặc biệt là ở cơ quan hành chính nhà 
nước, nhiều người vẫn lấy tiêu chí “người 
nhà”, coi việc thu vén cho người nhà là 
trách nhiệm với gia đình, gia tộc, khi tuyển 
dụng, bổ nhiệm, đã bỏ qua các quy định của 
tổ chức, của pháp luật. Điều này không chỉ 
ảnh hưởng đến chất lượng công việc, đến 
việc thu hút chất xám, mà còn để lại hậu 
quả xấu cho tổ chức (vì có sự xuê xoa, bao 
che, dung túng, phó mặc kỷ cương luật 
pháp cho người thân trong gia đình, gia tộc 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 1 - 2019 
96 
khi xảy ra sai phạm). Không chỉ vậy, hiện 
tượng “nấp bóng, dựa hơi” người thân trong 
gia tộc, gia đình để tác oai, tác quái, làm 
những việc trái với quy tắc của nghề 
nghiệp, trái với quy định của pháp luật, vẫn 
diễn ta ở nhiều nơi, nhiều cơ quan tổ chức. 
Khi đề cập đến vấn đề này, ngay từ những 
ngày đầu giành được độc lập dân tộc, Hồ 
Chí Minh đã viết trong “Thư gửi Uỷ ban 
nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng” đăng 
trên Báo Cứu quốc rằng: “Tư túng - Kéo bè, 
kéo cánh, bà con bạn hữu mình, không tài 
năng gì cũng kéo vào chức này chức nọ. 
Người có tài có đức, nhưng không vừa lòng 
mình thì đẩy ra ngoài. Quên rằng việc là 
việc công, chứ không phải việc riêng gì 
dòng họ của ai” [10, tr.65]. 
5. Kết luận 
Khi nghiên cứu về diễn trình phát triển của 
văn hóa dân tộc, chúng ta không thể không 
đề cập đến văn hóa gia tộc. Đó là một hiện 
tượng văn hóa - xã hội đặc thù của một nền 
văn hóa nông nghiệp lúa nước, đồng thời nó 
nằm trong một kết cấu đan xen phức tạp và 
mang tính lịch sử cụ thể. Bởi vậy, việc tìm 
hiểu văn hóa gia tộc ở Việt Nam, chỉ ra 
những giá trị và hạn chế của loại hình văn 
hóa này sẽ góp phần xây dựng nền văn hóa 
Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc. Khi 
nghiên cứu về văn hóa gia tộc và chỉ ra tính 
hai mặt của nó, chúng ta không những cần 
chỉ ra những nét độc đáo, sự khác biệt, 
những giá trị của văn hóa dân tộc, mà còn 
phải chỉ ra những hạn chế đang cản trở sự 
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước 
trong quá trình hội nhập quốc tế. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Đào Duy Anh (2006), Việt Nam văn hóa sử 
cương, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. 
[2] Toan Ánh (2010), Nếp cũ - Trong họ ngoài 
làng, ta về ta tắm ao ta, phong tục xưa đối với 
người phụ nữ Việt Nam, Nxb Trẻ, Hà Nội. 
[3] Nhị Lê Bảo (2017), “Việc Đảng - “việc họ””, 
Tạp chí Cộng sản (Chuyên đề cơ sở), số 893. 
[4] Phan Kế Bính (2004), Việt Nam phong tục, 
Nxb Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh. 
[5] Léopold Cadière (2006), Văn hóa, tôn giáo, tín 
ngưỡng Việt Nam, Nxb Thuận Hóa, Huế. 
[6] Phan Đại Doãn (2010), Làng xã Việt Nam - 
một số vấn đề kinh tế - văn hóa - xã hội, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[7] Bùi Xuân Đính (1985), Lệ làng phép nước, 
Nxb Pháp lý, Hà Nội. 
[8] Bùi Xuân Đính (1998), Hương ước và quản lý làng 
xã, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
[9] Vân Hạnh (2009), Văn hóa dòng họ, Nxb Thời 
đại, Hà Nội. 
[10] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, t.4, Nxb Chính 
trị quốc gia, Hà Nội. 
[11] Sơn Tùng, Mỹ Mỹ (2015), Văn hóa gia tộc: 
Họ hàng nhiều, chung huyết thống bao nhiêu? 
hoa-gia-toc-ho-hang-nhieu-chung-huyet-thong-
bao-nhieu-n20151111141636404.htm, truy cập 
ngày 10 tháng 07 năm 2018. 
[12] Trần Từ (1984), Cơ cấu tổ chức của làng Việt 
cổ truyền ở Bắc Bộ, Nxb Khoa học xã hội, 
Hà Nội. 
[13] Trần Quốc Vượng (1997), Cơ sở văn hóa Việt 
Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
[14] Trần Quốc Vượng (2003), Văn hóa Việt Nam - 
tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn hóa, Hà Nội. 

File đính kèm:

  • pdfvan_hoa_gia_toc_viet_nam.pdf