Văn hóa chợ nổi trong phát triển du lịch vùng Đồng bằng sông Cửu Long

1. Lịch sử hình thành và phát triển chợ nổi

Cách đây khoảng 5.000 đến 2.500 năm, con người đã có mặt trên vùng

đất Đông Nam Bộ, trong đó có phần tiếp giáp với đồng bằng sông Cửu

Long ngày nay. Họ là những người thuộc nhóm nhân chủng Inđônêdiên nói

tiếng Nam Đảo (Huỳnh Lứa, 2000; Nguyễn Quang Ngọc và cộng sự, 2006).

Dựa vào các di chỉ khảo cổ, nhiều nhà Sử học cho rằng đến khoảng

thế kỉ đầu Công nguyên mới có con người định cư ở vùng Đồng bằng

sông Cửu Long. Các địa điểm gắn với quá trình sinh sống của con người

thời đó bao gồm: Đồng Tháp Mười (Đồng Tháp); Óc Eo - Ba Thê (An

Giang); Đá Nổi, Nền Chùa, Tân Long (Kiên Giang); U Minh, Năm Căn

(Cà Mau), v.v. Có thể những cư dân cổ đã di chuyển dần từ vùng Đông

Nam Bộ xuống và thành lập nên vương quốc Phù Nam với một nền văn

hóa rực rỡ vào thế kỉ II (Huỳnh Lứa, 2000; Nguyễn Quang Ngọc và cộng

sự, 2006).

pdf 10 trang phuongnguyen 3620
Bạn đang xem tài liệu "Văn hóa chợ nổi trong phát triển du lịch vùng Đồng bằng sông Cửu Long", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Văn hóa chợ nổi trong phát triển du lịch vùng Đồng bằng sông Cửu Long

Văn hóa chợ nổi trong phát triển du lịch vùng Đồng bằng sông Cửu Long
VĂN HÓA CHỢ NỔI TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH 
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG 
NGUYỄN TRỌNG NHÂN
*
1. Lịch sử hình thành và phát triển chợ nổi 
Cách đây khoảng 5.000 đến 2.500 năm, con người đã có mặt trên vùng 
đất Đông Nam Bộ, trong đó có phần tiếp giáp với đồng bằng sông Cửu 
Long ngày nay. Họ là những người thuộc nhóm nhân chủng Inđônêdiên nói 
tiếng Nam Đảo (Huỳnh Lứa, 2000; Nguyễn Quang Ngọc và cộng sự, 2006). 
Dựa vào các di chỉ khảo cổ, nhiều nhà Sử học cho rằng đến khoảng 
thế kỉ đầu Công nguyên mới có con người định cư ở vùng Đồng bằng 
sông Cửu Long. Các địa điểm gắn với quá trình sinh sống của con người 
thời đó bao gồm: Đồng Tháp Mười (Đồng Tháp); Óc Eo - Ba Thê (An 
Giang); Đá Nổi, Nền Chùa, Tân Long (Kiên Giang); U Minh, Năm Căn 
(Cà Mau), v.v. Có thể những cư dân cổ đã di chuyển dần từ vùng Đông 
Nam Bộ xuống và thành lập nên vương quốc Phù Nam với một nền văn 
hóa rực rỡ vào thế kỉ II (Huỳnh Lứa, 2000; Nguyễn Quang Ngọc và cộng 
sự, 2006). 
Đến cuối thế kỉ VI, vương quốc Phù Nam bị xóa tên bởi tiểu vương 
quốc Kambuja hay Campuchia, Chân Lạp (Phạm Côn Sơn, 2005; 
Nguyễn Quang Ngọc và cộng sự, 2006). Trong tác phẩm “Tiến trình lịch 
sử Việt Nam”, Nguyễn Quang Ngọc và cộng sự cho rằng: “Phù Nam 
không phải là đế quốc đã được tổ chức thống nhất thành một bộ máy cai 
trị và bóc lột, mà chỉ là sự tập hợp của những tiểu quốc, trong đó bộ 
phận chủ yếu của nó là chủ nhân của nền văn hóa Óc Eo, v.v. Vùng đất 
này vào cuối thế kỉ VI đã bị người Chân Lạp (Khmer) thôn tính”. Do sự 
thống trị của người Chân Lạp rất hình thức và lỏng lẻo, nên vùng này từ 
thế kỉ VII cho đến thể kỉ XVI chỉ có một số ít cư dân Khmer sinh sống lẻ 
tẻ, rải rác trên các giồng đất cao, các vùng đồi núi ven sông Tiền và sông 
Hậu. Do số lượng dân cư ít cùng với trình độ kỹ thuật thấp kém, nên kết 
quả khai phá, mở đất chưa nhiều và được xem như là vô chủ. 
Từ đầu thế kỉ XVII, trên vùng đất đồng bằng sông Cửu Long bắt đầu 
xuất hiện lớp cư dân mới, phần lớn là những nông dân và thợ thủ công 
* ThS. Trường Đại học Cần Thơ. 
Văn hóa chợ nổi trong  89
nghèo khổ ở các tỉnh miền Trung do không chịu được sự áp bức, bóc lột 
của giai cấp phong kiến, những thiệt hại mất mát do cuộc chiến tranh dai 
dẳng giữa hai tập đoàn Trịnh - Nguyễn, họ buộc phải di cư vào đây để 
tìm phương kế sinh sống. Địa bàn cư trú và canh tác đầu tiên là ở bờ 
sông Vàm Cỏ Tây, bờ Bắc sông Tiền và các cù lao nơi cửa sông Tiền. 
Khu vực này khá rộng lớn và không bị ngập lụt, bao gồm: Tân An, Cay 
Lậy, Gò Công, Mỹ Tho, v.v. Ở Nam sông Tiền, lưu dân người Việt cũng 
đến sinh sống và khai khẩn trên vùng đất giồng như Mỏ Cày của Bến 
Tre. Ở khu vực Trà Vinh, Sóc Trăng cũng có một ít lưu dân người Việt 
đến cư trú lẫn lộn với người Khmer (Huỳnh Lứa, 2000). 
Vào cuối thế kỷ XVII, ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long còn có một 
số người Hoa đến từ các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến của 
Trung Quốc. Họ đa số là quan quân nhà Minh không chịu khuất phục triều 
đình Mãn Thanh đã đến Mỹ Tho (1679) và Hà Tiên (1680) do Dương 
Ngạn Địch và Mạc Cửu thống lĩnh. Tiếp sau đó, lần lượt nhiều người dân 
nghèo thuộc các tỉnh Triều Châu, Hải Nam, Quảng Đông, Phúc Kiến của 
Trung Quốc dắt díu nhau nhập cư vào vùng Đồng bằng sông Cửu Long 
ngày một đông. Vùng Rạch Giá, Hà Tiên, Cà Mau được người Việt, người 
Hoa khai khẩn ruộng đất, canh tác, sinh sống cùng với cư dân bản địa 
người Khmer (Huỳnh Lứa, 2000; Nguyễn Văn Hiếu, 2003). 
Thể kỉ XVIII, nhiều nơi khai phá ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long 
từ người Việt, người Hoa, người Khmer ở các thế kỷ trước lần lượt thuộc 
chủ quyền của chúa Nguyễn. Năm 1708, Mạc Cửu đem đất Hà Tiên bao 
gồm 7 xã thôn (Phú Quốc, Cần Bột, Rạch Giá, Lũng Kè, Hương Úc, Cà 
Mau, v.v) dâng cho chúa Nguyễn Phước Chu. Năm 1756, Nặc Nguyên 
xin dâng hai phủ Tầm Bôn và Lôi Lạp, sau này trở thành hai phủ Tân An 
và Gò Công cho chúa Nguyễn Phước Khoát để chuộc tội (không nộp 
cống liên tiếp 3 năm lại còn thông sứ với chúa Trịnh âm mưu đánh chúa 
Nguyễn để cướp lại các phần đất trên vùng Thủy Chân Lạp) và xin về 
nước. Năm 1757, Nặc Nguyên mất, chú họ là Nặc Nhuận làm giám quốc, 
từ lâu đã có ý muốn làm vua Chân Lạp liền dâng hai xứ Preáh Trapeang 
và Bassac (tức vùng Trà Vinh, Ba Thắc) cho chúa Nguyễn Phước Khoát. 
Cũng trong năm ấy, Nặc Nhuận bị con rể giết chết cướp ngôi. Con trai 
Nặc Nhuận là Nặc Tôn chạy sang cầu cứu Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ xin 
chúa Nguyễn Phước Khoát cho Nặc Tôn làm vua Chân Lạp. Chúa 
Nguyễn chấp thuận và sai Mạc Thiên Tứ cùng tướng sĩ đưa Nặc Tôn về 
nước. Để tạ ơn, Nặc Tôn dâng đất Tầm Phong Long (thuộc các tỉnh Tiền 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 2/2011 90
Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long và An Giang ngày nay) cho chúa Nguyễn. 
Riêng họ Mạc, Nặc Tôn dâng năm phủ là Hương Úc, Cần Bột, Trực 
Sâm, Sài Mạt và Linh Quỳnh để tạ ơn giúp đỡ. Mạc Thiên Tứ đem đất ấy 
dâng chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn cho sáp nhập vào trấn Hà Tiên và giao 
cho họ Mạc cai quản. Mạc Thiên Tứ chia chỗ đất đó thành hai đạo: xứ 
Rạch Giá là Kiên Giang đạo, xứ Cà Mau là Long Xuyên đạo (Nguyễn 
Văn Hiếu, 2003; Trần Trọng Kim, 2005). 
Như vậy, công cuộc Nam tiến của người Việt trên vùng đất Đồng 
bằng sông Cửu Long cơ bản hoàn thành vào năm 1757 dưới thời chúa 
Nguyễn Phước Khoát trị vì ở xứ Đàng trong. Tuy nhiên, việc khai khẩn 
đất đai và định cư chưa phân bố đều khắp vùng do điều kiện thiên nhiên 
cản trở (đất thấp trũng sình lầy, rừng hoang cỏ rậm, thú dữ, cá sấu, muỗi 
mòng, rắn rết, v.v). Nhiều câu ca dao nói lên sự lo sợ của lưu dân thời 
bấy giờ trước khung cảnh thiên nhiên ở vùng đất này: “Đến đây xứ sở lạ 
lùng, con chim kêu phải sợ, con cá vùng phải kinh”; “Chèo ghe sợ sấu 
cắn chân, xuống sông sợ đỉa, lên rừng cọp um”. 
Cùng với người Khmer, lớp dân cư mới bao gồm nhiều thành phần 
dân tộc, trong đó người Việt đóng vai trò là chủ thể đã đoàn kết, tương 
trợ nhau đẩy mạnh công cuộc khai khẩn có quy mô ở vùng Đồng bằng 
sông Cửu Long. Từ đó, cảnh quan của vùng từng bước được thay đổi: 
xóm làng trù mật, ruộng đồng phì nhiêu, nhiều thị tứ, trung tâm dân cư 
được thiết lập. 
Thế kỉ XVIII, ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, việc sản xuất hàng 
hóa bắt đầu phát triển đã kéo theo nhu cầu buôn bán hàng hóa của người 
dân. Nhiều thị tứ và tụ điểm mua bán đã ra đời và trở thành trung tâm 
thương mại, giao dịch nổi tiếng như: thương cảng Hà Tiên, Bãi Xàu (Mỹ 
Xuyên ngày nay), chợ phố Mỹ Tho, Sa Đéc, Nha Mân, Long Hồ, Hưng 
Lợi, v.v (Huỳnh Lứa, 2000). Phố xá liền nhau như vảy cá, trông ra sông 
lớn, kẻ qua lại thường đậu thuyền ở đây đợi con nước lên rồi theo dòng 
nước đi xuống Đông hay là lên Tây, cho nên trên sông có nhiều xuồng 
chở bán đồ ăn, trong ấy có người bán thịt lợn luộc chín, v.v. 
Qua những cụm từ “ghe thuyền đậu đầy bến”, “ghe thuyền ở các ngã 
sông biển đến đậu đông đúc” và “trên sông có nhiều xuồng chở bán đồ 
ăn” có thể kết luận, vào thế kỉ XVIII các hoạt động mua bán trên sông ở 
vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã phát triển, nhưng việc mua bán chủ 
yếu diễn ra ở các chợ phố. Nơi nào có phố xá, dân cư thường đến mua và 
bán hàng hóa, phương tiện đi lại của họ chủ yếu là ghe, xuồng tạo nên sự 
Văn hóa chợ nổi trong  91
đông đúc cả khúc sông. Bên cạnh đó, đã xuất hiện dịch vụ buôn bán đồ 
ăn trên sông nhằm phục vụ khách thương hồ. Đây được xem là xuất phát 
điểm cho việc ra đời chợ nổi. 
Năm 1819, vua Gia Long sai Huỳnh Công Lý đốc xuất dân phu đào 
kênh An Thông nối liền từ cầu Bà Thuông đến kênh Ruột Ngựa để thuận 
tiện cho việc đưa sản phẩm từ Tiền Giang lên Sài Gòn (Sơn Nam, 2005). 
Đầu thế kỉ XIX, các hoạt động mua bán trên sông diễn ra nhộn nhịp hơn, 
đặc biệt là việc đào kênh để tiện cho việc lưu thông hàng hóa giữa các thị 
trường đầu mối. Cụm từ “lưu thông khắp ngả” gần với đặc điểm của chợ 
nổi ngày nay. 
Từ năm 1908, đầu mối quan trọng về đường thủy là chợ Ngã Bảy 
thành hình, hội tụ đường sông, đường bộ từ phía tây nam lên Tiền Giang 
và Sài Gòn - Chợ Lớn, v.v. Dọc bờ kênh, nhà cửa cất ngay hàng như ở 
đường phố, tàu thuyền qua lại, v.v (Sơn Nam, 2005). Sau đó ít lâu chợ 
nổi cũng được hình thành ở tại Ngã Bảy này. 
Theo lời kể lại của nhiều người lớn tuổi, chợ nổi Cái Răng được hình 
thành vào những năm đầu của thế kỷ XX khi các ghe chở hàng gia dụng, 
gốm sứ từ Biên Hòa, Sài Gòn, Lái Thiêu xuống; các ghe chở lá lợp nhà, 
chiếu, than đước, cà ràng từ miệt Cà Mau, Rạch Giá lên tụ họp, mua bán. 
Từ những cứ liệu trên có thể rút ra một vài nhận định về lịch sử hình 
thành và phát triển chợ nổi ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long như sau: 
Thế kỉ XVIII là thời kì chợ nổi manh nha cạnh các chợ phố dọc hai bờ 
sông Tiền. 
Cuối thể kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, chợ nổi được hình thành không chỉ ở 
ven sông Tiền mà còn mở rộng xuống ven sông Hậu, điển hình là vùng 
đất Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng. Tuy nhiên, thời điểm này cung cách 
mua bán chưa chuyên nghiệp và đa ngành hàng, một số dịch vụ trên sông 
đã có nhưng lẻ tẻ. 
Từ năm 1945 đến năm 1975, miền Nam nói chung, Đồng bằng sông 
Cửu Long nói riêng còn chịu sự cai trị của chính quyền Mỹ - Ngụy, nên 
nhiều chợ nổi không hoạt động. Một mặt do việc tụ tập ghe, xuồng đông 
đúc ở thị tứ, khó kiểm soát về mặt an ninh, nên chính quyền cũ không 
khuyến khích. Mặt khác, do nhiều ruộng rẫy, vườn tược bị bom đạn tàn 
phá hoặc bị bỏ hoang không sản xuất, nên nông sản ngày càng ít đi, các 
hoạt động mua bán trên sông thưa vắng. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 2/2011 92
Khi miền Nam hoàn toàn được giải phóng, tức sau ngày 30 tháng 4 
năm 1975 cho đến nay, chợ nổi định hình và phát triển rộng khắp ở vùng 
Đồng bằng sông Cửu Long với cung cách mua bán chuyên nghiệp và đa 
ngành hàng. 
2. Nguyên nhân ra đời chợ nổi 
Chợ nổi vùng Đồng bằng sông Cửu Long ra đời gắn liền với điều kiện 
tự nhiên, điều kiện sản xuất hàng hóa và tập quán đi lại trên sông của 
người dân. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc ra đời và phát triển của 
chợ nổi: 
Thứ nhất, sự phát triển ngày càng nhanh của ngành nông nghiệp dẫn 
đến hàng nông sản dư thừa cần có nơi tiêu thụ nhanh, đồng thời đảm 
bảo giá cả. Xuất phát điểm của chợ nổi gắn liền với miệt vườn, nơi 
người dân sản xuất với quy mô và sản lượng lớn nhiều loại cây ăn trái và 
nhiều loại hoa màu. Đây là các loại hàng hóa dễ hỏng và dễ mất giá khi 
phải tích trữ một thời gian. Do nhu cầu tiêu thụ nhanh các loại hàng hóa 
trên, nên các chợ nổi Cái Bè, Trà Ôn, Cái Răng, Phong Điền ra đời rất 
sớm. Theo thời gian, các mặt hàng khác như: thủ công gia dụng; hàng gia 
dụng thiết yếu; bông kiểng cũng xuất hiện trên chợ nổi. 
Thứ hai, sự thuận lợi về điều kiện tự nhiên, cụ thể là mạng lưới sông 
ngòi. Mạng lưới sông ngòi ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long được hình 
thành do sự tác động của hai yếu tố tự nhiên và nhân tạo, trong đó yếu tố 
tự nhiên đóng vai trò quan trọng hơn. Điểm đặc biệt khó có được ở các 
vùng khác trên lãnh thổ Việt Nam là tại các ngã ba, ngã tư, ngã năm 
thậm chí ngã bảy sông lại hội tụ thêm các yếu tố không quá rộng nhưng 
không hẹp, không quá sâu nhưng không cạn, nước không chảy xiết là 
môi trường lý tưởng cho việc neo đậu, mua bán. Đây được xem là nhân 
tố quan trọng góp phần làm nên chợ nổi và nó cũng có thể lý giải vì sao ở 
các vùng khác trên lãnh thổ Việt Nam mặc dù có nhiều sông ngòi, kênh 
rạch nhưng lại không thể hình thành nên chợ nổi và ngay cả trong vùng 
Đồng bằng sông Cửu Long cũng không phải nơi nào có ngã ba, ngã tư 
đều có chợ nổi. 
Thứ ba, nếu căn cứ vào thời gian lúc chợ nổi mới được hình thành thì 
điều kiện đi lại, mua bán trên đường bộ thật sự chưa tiện lợi. Lúc bấy 
giờ đường xá chưa phát triển, trong khi người dân Nam Bộ đã có thói 
quen dùng ghe, xuồng và rất thành thạo trong việc dùng ghe, xuồng để đi 
lại và chuyên chở hàng hóa kể từ khi họ đến định cư ở vùng đất này. 
Văn hóa chợ nổi trong  93
Thứ tư, thế kỉ XVIII - XIX cho đến nay, phần lớn người dân sinh sống 
ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long vẫn là nông dân và tiểu thương. Đối 
với nông dân, những hộ có nhiều ruộng đất để canh tác nông nghiệp họ 
có nhu cầu bán hàng sản xuất, còn những hộ không có đất canh tác phải 
làm đủ nghề trong đó có nghề thương hồ. Riêng tiểu thương, họ mưu 
sinh chủ yếu dựa vào việc mua bán, trong đó có người hành nghề trên 
sông. Vì hoàn cảnh sống của cư dân như đã phân tích cũng góp phần làm 
nên chợ nổi. 
Thứ năm, thông thường sông là nơi không thuộc quyền sở hữu của 
riêng ai. Đây là điểm thuận lợi cho những người mua và người bán khi 
họ không xác lập được một địa điểm mua bán ở chợ trên bờ. Ban đầu chỉ 
có một số người tụ tập mua bán, theo thời gian số lượng ghe xuồng đông 
thêm và nơi đó trở thành cái chợ. Thêm vào đó, mua bán ở chợ trên bờ 
phải đóng thuế nhà đất trong khi mua bán ở chợ nổi không phải thực hiện 
nghĩa vụ ấy. 
Thứ sáu, phương thức mua bán trên chợ nổi hiệu quả. 
Ban đầu các chợ nổi chỉ xuất hiện và phổ biến ở những tỉnh dọc sông 
Tiền và sông Hậu (chợ nổi Cái Bè, Trà Ôn, Cái Răng, Ngã Bảy, v.v). 
Nhưng trong những năm gần đây đã lần lượt xuất hiện thêm nhiều chợ 
nổi khác như: Chợ nổi Cà Mau (Cà Mau), Vĩnh Thuận (Kiên Giang), 
Long Xuyên (An Giang), v.v. Điều này cho thấy tính hiệu quả trong hoạt 
động mua bán ở chợ nổi và vì vậy nảy sinh nhu cầu và ý tưởng về sự kế 
thừa và phát triển mô hình chợ nổi ở những nơi có điều kiện thích hợp. 
Thứ bảy, mối quan hệ rất mật thiết giữa chợ nổi và chợ phố và chính 
chợ phố đã tạo điều kiện để chợ nổi ra đời. Nơi nào có chợ nổi nhất định 
ở đó có chợ phố. Chẳng hạn, chợ nổi Cái Bè nằm ngay chợ phố cùng tên, 
chợ nổi Ngã Năm, Ngã Bảy và các chợ nổi khác cũng không ngoại lệ. 
Một là, chợ phố cung cấp các dịch vụ cần thiết cho những cư dân chợ nổi 
trong thời gian mua bán; hai là, chợ phố tiêu thụ một khối lượng lớn 
hàng hóa từ chợ nổi. Vì vậy, chợ phố là tác nhân quan trọng thúc đẩy 
việc hình thành chợ nổi. 
3. Đặc điểm của chợ nổi 
Chợ nổi là một hình thức giao thương, mua bán đặc thù của cư dân 
sông nước vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tính đặc thù của chợ nổi 
thể hiện ở vị trí nhóm chợ; thời gian diễn ra mua bán; cách mời gọi 
khách hàng; và được hình thành một cách tự phát, tự quản. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 2/2011 94
Chợ nổi nằm ở nơi sông chính có một hoặc vài nhánh sông nhỏ hơn 
đổ ra. Thông thường nơi chợ nổi ra đời là ngã ba, ngã tư, ngã năm, đôi 
khi có tới ngã bảy. Chẳng hạn, chợ nổi Cái Răng là nơi hợp lưu của các 
sông: Cần Thơ, Đầu Sấu, Cái Răng Bé và Cái Sơn; nơi gặp nhau của các 
sông: Cái Côn, Lái Hiếu, Mương Lộ, Mang Cá, Xẻo Vông, Xẻo Môn, 
Quan Lộ làm nên chợ nổi Ngã Bảy1, v.v. Đặc điểm này làm cho quy mô 
và mật độ ghe xuồng ở chợ nổi lớn và đông đúc. Vào những ngày 
thường, chợ nổi Cái Răng có khoảng 400 - 500 lượt ghe, xuồng tụ tập 
mua bán, trong khi vào những ngày giáp Tết số lượng lên đến khoảng 
1.000; đối với chợ nổi Cái Bè số lượng cũng không dưới 500 ghe, xuồng 
mỗi ngày. Các loại hàng hóa được bày bán ở chợ nổi bao gồm: nhóm 
hàng nông sản (cam, quít, ổi, mận, xoài, xu hào, bắp cải, ớt, hành lá, v.v); 
nhóm hàng thủ công, gia dụng (lu, hũ, khạp, chén, v.v); hàng thực phẩm 
được chế biến sẵn (bún, cơm, bánh bò, bánh tét, v.v); hàng gia dụng thiết 
yếu hàng ngày (nước mắm, bột ngọt, quần áo, giày dép, v.v). 
Thời gian diễn ra hoạt động mua bán sớm và thời gian kết thúc cũng 
sớm trong ngày. Khác với chợ trên bờ, thời gian chợ nổi bắt đầu nhóm 
họp vào khoảng 3 giờ, và đông nhất vào lúc 5 - 6 giờ, đến khoảng 8 giờ 
chợ thưa dần và sau đó các hoạt động mua bán chỉ rải rác và kết thúc 
khoảng lúc 10 giờ sáng. Mỗi ngày cứ tiếp diễn như vậy, duy chỉ những 
ngày giáp Tết hoạt động mua bán của chợ mới diễn ra sớm hơn (khoảng 
2 giờ sáng đã bắt đầu) và kéo dài lâu hơn (đôi khi cả ngày). Nhìn chung, 
thời gian buôn bán ở chợ nổi là thế, nhưng do đặc thù của từng chợ và 
từng thời điểm, nên thời gian có xê dịch đôi chút. 
Cách mời gọi khách hàng thông qua “cây bẹo”. Cây bẹo là cây sào 
dài được cắm trước mui ghe hoặc mũi ghe để treo các thứ hàng hóa cần 
bán lên trên ấy. Từ thói quen dùng cây bẹo để đuổi chim, người dân 
thương hồ đã biết dùng nó để chào hàng. Không gian chợ nổi mênh 
mông, ghe xuồng lưu thông đông đúc, tiếng máy nổ trên sông, tiếng xe 
chạy trên bờ át cả tiếng rao hàng. Để tiện cho bạn hàng đến mua, đồng 
thời giới thiệu được sản phẩm cần bán (trái cây, rau, củ), mỗi chủ ghe 
hàng đều dùng đến cây bẹo. Đối với các mặt hàng thủ công gia dụng, 
hàng thực phẩm được chế biến sẵn, hàng gia dụng thiết yếu hàng ngày 
dân thương hồ không dùng cách tiếp thị này, mà họ để trong ghe hoặc 
1 Theo Phạm Côn Sơn, bảy nhánh sông tạo nên Ngã Bảy, bao gồm: Bún Tàu, Mang Cá, Xẻo 
Môn, Xẻo Đông, Cái Hiếu, Cái Côn và Sóc Trăng. 
Văn hóa chợ nổi trong  95
chất lên mui ghe. Một khi người dân treo tấm lá lợp nhà lên cây bẹo cũng 
đồng nghĩa với việc họ muốn bán ghe, tức “bán nhà” luôn. 
Chợ nổi được hình thành một cách tự phát và tự quản. Do tính tự phát 
và tự quản đã dẫn đến “lợi bất cập hại” ở chợ nổi. Lợi ích thấy rõ nhất là 
ai cũng có thể tham gia mua bán được và không tốn kinh phí cho việc 
xây dựng chợ. Tuy nhiên, cũng có nhiều bất lợi, đó là tình trạng thiếu nề 
nếp trong mua bán và vấn đề ô nhiễm môi trường do sự thiếu ý thức của 
người dân gây nên. 
4. Văn hóa chợ nổi trong phát triển du lịch vùng Đồng bằng sông 
Cửu Long 
Không phải ngẫu nhiên mà nhiều du khách trong và ngoài nước khi 
đến Đồng bằng sông Cửu Long đều chọn chợ nổi (Cái Bè, Cái Răng, 
Ngã Năm, Ngã Bảy, Cà Mau, v.v) làm nơi đến trong các chuyến du lịch 
của mình. Ngoài vị trí địa lý và khả năng tiếp cận dễ dàng; hàng hóa đa 
dạng, đặc trưng cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long; cảm giác đi thuyền 
trên sông thú vị; họ còn tìm đến chợ nổi vì các yếu tố văn hóa bản địa 
đặc sắc như: phương thức mua bán khác lạ với chợ trên bờ; đời sống, 
sinh hoạt và sự thân thiện, mến khách của người dân mua bán trên sông. 
Phương thức mua bán: Phương tiện mua bán ở chợ nổi phần lớn là 
ghe, xuồng với chiếc to chiếc nhỏ đủ cỡ. Điều thú vị là trên mũi ghe có 
dáng vẻ như đôi mắt, nhưng kiểu cách từng tỉnh có sự khác nhau. Trên 
mỗi ghe người dân thường cắm một cây bẹo trước mui hoặc mũi với 
nhiều loại hàng hóa được mắc trên ấy. Buổi sáng sớm khi đến chợ nổi 
chúng ta dễ dàng bắt gặp những cây bẹo nhô lên như những cột “ăng ten” 
di động dưới sông. Cây bẹo này treo vài trái khóm, cây bẹo khác treo vài 
củ sắn, củ khoai, su hào, bắp cải, bí rợ Những cây bẹo khác lại treo 
thành từng chùm các loại trái cây, rau củ: chôm chôm, nhãn, bòn bon, củ 
hành, ớt, v.v. Sự đa dạng về các loại rau, củ, quả cùng với sự khác biệt về 
màu sắc tạo nên khung cảnh đầy sắc màu và thêm vui mắt. Từ lâu cây 
bẹo đã trở thành hình ảnh tô điểm làm rạng ngời thêm nét đẹp của văn 
hóa chợ nổi. Có thể nói, hình ảnh cây bẹo không chỉ đi vào báo chí, phim 
ảnh mà còn để lại ấn tượng sâu sắc không bao giờ quên được đối với mỗi 
du khách khi đến tham quan chợ nổi. Trong tất cả các bài báo cũng như 
các đoạn phóng sự về chợ nổi, hình ảnh cây bẹo lúc nào cũng được ghi 
nhận và nhắc đến. Còn đối với khách nước ngoài khi đến tham quan, 
trước hết họ trầm trồ khen ngợi và sau đó lấy máy chụp lại vài bức ảnh. 
Người dân thương hồ tính tình rất phóng khoáng, nên việc mua bán diễn 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 2/2011 96
ra rất nhanh, “thuận mua vừa bán” chứ không đến nổi kèo nài, ngả giá 
lâu lắc như chợ trên bờ. Cách thức giao hàng của dân thương hồ ở chợ 
nổi cũng rất độc đáo. Người bán đứng trên thuyền này gieo từng cặp 
khóm, cặp dưa cho người mua ở thuyền khác bắt lấy bằng hai tay thật 
nhịp nhàng, điệu nghệ. Hình ảnh này làm cho nhiều du khách cảm thấy 
thích thú và họ cho thuyền len lỏi vào sát thuyền hàng để xem, chụp ảnh, 
nhờ vậy mà thời gian tham quan ở chợ nổi được lâu hơn. 
Đời sống sinh hoạt văn hóa trên sông nước của người dân thương hồ: 
Chợ nổi chủ yếu là nơi buôn bán của các ghe thương hồ lớn nhỏ từ các 
xứ khác đổ lại cũng như của cư dân địa phương. Đối với các ghe lớn có 
hoạt động mua bán đường dài, chiếc ghe giống như một “căn nhà di 
động” vì trên ấy bao gồm nhiều thành viên trong gia đình cùng sinh 
sống, bao gồm: chồng vợ, con cái và có cả vật nuôi. Trong thời gian nán 
lại chờ bán hết hàng, họ sinh hoạt cơm nước, tắm giặt, vệ sinh, giải trí 
ngay trên ghe như ở nhà vậy. Mặc dù cuộc sống lênh đênh nay đây mai 
đó trên vùng sông nước, nhưng họ vẫn lạc quan, yêu đời, yêu nghề. Bên 
cạnh đó, một lực lượng chuyên cung cấp các dịch vụ ăn uống, đi lại, sửa 
chữa, xăng dầu, v.v, cũng hiện hữu ở chợ nổi. Hai thành phần này góp 
phần làm nên bức tranh sinh động về đời sống của người dân vùng sông 
nước Cửu Long. Chính đời sống sinh hoạt của họ ở các chợ nổi cũng là 
yếu tố gây sự hiếu kỳ cho du khách khi đến tham quan. 
Sự thân thiện và mến khách cũng góp phần làm nên vẻ đẹp của văn 
hóa chợ nổi: Chợ nổi là môi trường mua bán, gặp nhau của những người 
tứ xứ với điều kiện xuất thân khác nhau: dân vườn, dân chợ, dân đồng 
ruộng với lối sống, tập quán cũng khác nhau. Tuy nhiên, họ có điểm 
chung là sống tương thân, tương ái và giúp đỡ nhau. Do cùng cảnh xa 
quê, xa xứ, nên họ rất quý trọng nhau. Khi các ghe đậu vài ngày chờ bán 
hết hàng, họ xem nhau như “hàng xóm, láng giềng”. Dù xa lạ, nhưng chỉ 
qua vài câu chào hỏi tự nhiên họ trở nên thân thiết tự lúc nào không hay. 
Sự thân thiện, mến khách của dân thương hồ không chỉ thể hiện bó hẹp 
giữa những người cùng nghề nghiệp, cùng cảnh với nhau, mà tinh thần 
đó còn được họ thể hiện với cả du khách. Khi đến tham quan, du khách 
có thể lên tận mui ghe mua vài loại trái cây và thưởng thức ngay tại chỗ. 
Nếu du khách có yêu cầu giúp đỡ trong việc ăn uống, họ sẵn sàng trong 
sự vui vẻ. Tính khí người trên sông nước phóng khoáng, chân chất, hiếm 
khi có cảnh chèo kéo, đôi co nặng nề. 
Văn hóa chợ nổi trong  97 
Kết luận 
Chợ nổi là tự điểm giao thương mang lại những hiệu quả kinh tế nhất 
định cho nhân dân địa phương, đồng thời phản ánh những nét sinh hoạt 
văn hóa đặc thù của cư dân vùng sông nước Đồng bằng sông Cửu Long. 
Sinh hoạt chợ nổi và văn hóa chợ nổi đã góp phần tích cực thu hút khách 
du lịch trong nước và quốc tế mỗi khi đến vùng Đồng bằng Nam Bộ. 
Điều quan trọng để phát huy vai trò và ý nghĩa của chợ nổi trong phát 
triển du lịch là giữ gìn môi trường sông nước không bị ô nhiễm, giao 
thông đường thủy thật sự an toàn, thuận lợi, tổ chức chợ nổi một cách 
trật tự, có văn hóa, theo hướng văn minh, lịch sự. Đó là trách nhiệm và 
chung tay góp sức của chính quyền, nhân dân địa phương và Ngành Văn 
hóa - Du lịch./. 
Tài liệu tham khảo 
1. Đào Ngọc Cảnh (2008), Dân cư và môi trường đồng bằng sông Cửu Long, Trường Đại học 
Cần Thơ. 
2. Trịnh Hoài Đức (2005), Gia Định thành thông chí, Nxb. Tổng hợp Đồng Nai. 
3. Nguyễn Văn Hiếu (2003), Chúa Nguyễn và các giai thoại mở đất phương Nam, Nxb. Trẻ. 
4. Trần Trọng Kim (2005), Việt Nam sử lược, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. 
5. Nhâm Hùng (2009), Chợ nổi đồng bằng sông Cửu Long, Nxb. Trẻ. 
6. Huỳnh Lứa (2000), Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ các thế kỉ XVII, XVIII, XIX, Nxb. 
Khoa học xã hội. 
7. Trần Thị Mai và cộng sự (2006), Giáo trình tổng quan du lịch, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Hội. 
8. Sơn Nam (2005), Đồng bằng sông Cửu Long - Nét sinh hoạt xưa và văn minh miệt vườn, 
Nxb. Trẻ. 
9. Sơn Nam (2005), Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Nxb. Trẻ. 
10. Nguyễn Quang Ngọc và cộng sự (2006), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb. Giáo dục. 
11. Hoàng Phê và cộng sự (2007), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng. 
12. Phạm Côn Sơn (2005), Non nước Việt Nam (Sắc màu Nam Bộ), Nxb. Phương Đông. 
13. Trần Đức Thanh (2003), Nhập môn khoa học du lịch, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. 
14. Trần Diễm Thúy (2006), Giáo trình Tổng quan Văn hóa du lịch, Tài liệu lưu hành nội bộ. 
15. Nguyễn Khắc Viện và cộng sự (1989), Đất nước Việt Nam, sách lưu hành nội bộ dành cho 
cán bộ hướng dẫn du lịch, Công ty tuyên truyền quảng cáo du lịch. 
16. Quốc Việt - Tấn Đức (3/8/2007), Đời thương hồ - Những phiên chợ nổi (kỳ 2), báo Tuổi 
trẻ, 
phien-cho-noi.html 

File đính kèm:

  • pdfvan_hoa_cho_noi_trong_phat_trien_du_lich_vung_dong_bang_song.pdf