Vận dụng mô hình tam giác gian lận trong nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới gian lận trên Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam
Vận dụng Lý thuyết Tam giác gian lận, bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới gian lận trên báo cáo tài chính (BCTC) của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Các yếu tố được xem xét bao gồm Áp lực, Cơ hội và Thái độ. Sử dụng dữ liệu từ các công ty phi tài chính niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) và Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) trong giai đoạn 2013 - 2017, kết quả nghiên cứu cho thấy các biến Áp lực và Cơ hội có ảnh hưởng đến gian lận trên báo cáo tài chính. Cụ thể, các doanh nghiệp có khả năng phá sản, tỷ suất sinh lời thấp và gặp áp lực về dòng tiền sẽ có khả năng phát sinh gian lận. Mặt khác, các doanh nghiệp có đòn bẩy tài chính lớn, tỷ lệ sở hữu của Nhà nước và của các tổ chức uy tín, chủ tịch Hội đồng quản trị có năng lực chuyên môn về tài chính sẽ hạn chế vấn đề gian lận báo cáo tài chính.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Vận dụng mô hình tam giác gian lận trong nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới gian lận trên Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam

QUẢN LÝ, VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế Trang chủ: VẬN DỤNG MÔ HÌNH TAM GIÁC GIAN LẬN TRONG NGHIÊN CỨU Các nhân tố ảnh hưởng TỚIGIAN lận trên BÁO CÁO TÀI CHÍNH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIệT nam Nguyễn Thị Mai Anh Tác giả liên hệ, Email: nguyenthimaianh.cs2@ftu.edu.vn Trường Đại học Ngoại thương, Hà Nội, Việt Nam Ngày nhận: 22/03/2020; Ngày hoàn thành biên tập: 22/05/2020; Ngày duyệt đăng: 26/05/2020 Tóm tắt: Vận dụng Lý thuyết Tam giác gian lận, bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới gian lận trên báo cáo tài chính (BCTC) của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Các yếu tố được xem xét bao gồm Áp lực, Cơ hội và Thái độ. Sử dụng dữ liệu từ các công ty phi tài chính niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) và Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) trong giai đoạn 2013 - 2017, kết quả nghiên cứu cho thấy các biến Áp lực và Cơ hội có ảnh hưởng đến gian lận trên báo cáo tài chính. Cụ thể, các doanh nghiệp có khả năng phá sản, tỷ suất sinh lời thấp và gặp áp lực về dòng tiền sẽ có khả năng phát sinh gian lận. Mặt khác, các doanh nghiệp có đòn bẩy tài chính lớn, tỷ lệ sở hữu của Nhà nước và của các tổ chức uy tín, chủ tịch Hội đồng quản trị có năng lực chuyên môn về tài chính sẽ hạn chế vấn đề gian lận báo cáo tài chính. Từ khóa: Gian lận, Tam giác gian lận, Áp lực, Cơ hội, Thái độ ANALYZING FACTORS AFFECTING FINANCIAL STATEMENT FRAUD IN VIETNAM: AN APPLICATION OF THE FRAUD TRIANGLE THEORY Abstract: This paper focuses on the affecting factors of financial statement fraud of Vietnamese listed firms based on Fraud Triangle Theory, which are Pressure, Opportunity and Attitude. From the data of from non-financial firms listed on the Hanoi Stock Exchange (HNX) and Ho Chi Minh Stock Exchange (HOSE) from 2013 to 2017, the pressure and opportunity proxies are identified and suggested to be significantly related to financial statement fraud. This research study finds that probability of bankruptcy, low profitability, and increased cash needs are positively related to the likelihood of fraud. On the other hand, high degree of leverage, the ownership by institues and the State, and the level of financial expertise of the chairman can restrain financial report fraud. Keywords: Fraud, Fraud triangle, Pressure, Opportunity, Attitude Đặt vấn đề Sự phát triển của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là thị trường tài chính, đòi hỏi tính tin cậy của thông tin trên báo cáo tài chính (BCTC), bởi vì, chúng có tác động trực tiếp đến quyết định của các nhà đầu tư (Đặng & cộng sự, 2019). Hiện tượng gian lận BCTC làm suy giảm thông tin tài chính, dẫn đến thiệt hại/tài chính cho nhà đau tư do sử dụng các thông tin có chất lượng kém, thậm chí gây mất lòng tin của nhà đầu tư về thị trường tài chính. Bên cạnh đó, gian lận BCTC còn gây tổn thất nghiêm trọng về kinh tế cho bản thân doanh nghiệp và nền kinh tế, do gian lận BCTC và những hệ lụy liên quan đến phá sản của các công ty, kéo theo là sự lung lay của hàng loạt các doanh nghiệp có liên quan và thậm chí xảy ra nguy cơ sụp đổ cả hệ thống tài chính của một quốc'gia và thế "giới (Well, 2013). Ở ViệtNam, theo khảo sát của PWC (2018), 52% các doanh nghiệp đã và đang đối mặt với tội phạm gian lận. Tỷ lệ này cao hơn so với khu vực^châu A - Thái Bình Dương (46%) và toàn cầu (49%), trong đó, gian lận kế toán chiếm 22%, gian lận thuế chiếm 13%, gian lận mua sắm là 24% và vi phạm đạo đức kinh doanh chiếm 29%. Khảo sát cũng cho thấy các loại gian lận này có liên quan chặt chẽ với gian lận BCTC và nghiên cứu chỉ ra những tổn thất do gian lận. Thực tế, 53% các tổ chức tham gia khảo sát cho biết phải chịu tổn thất dưới 100.000 đô la Mỹ (USD) (tương đương 2,3 tỷ đồng) trong vòng 2 năm vừa qua và ước tính tỷ lệ gần 1/3 (chiếm 32%). Những thiệt hại nghiêm trọng đối với các doanh nghiệp đặt ra vấn đề cấp bách để ngăn chặn, mà trước hết là nhận biết khả năng phát sinh gian lận BCTC. Trong bối cảnh đó, nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng tới gian lận trên BCTC có ý nghĩa thực tiễn và thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Xét về khả năng nhận diện các yếu tố ảnh hưởng đến gian lận BCTC, Cressey (1953) đề xuất lý thuyết Tam giác gian lận và được coi là mô hình nền tảng trong nghiên cứu. Đó cũng là cơ sở xây dựng các chuẩn mực kiểm toán về đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu do gian lận trên BCTC như IAS240, SAS99 và mới đây tại Việt Nam là VAS240. Lý thuyết chỉ ra rằng sự xuất hiện của ba yếu tố trong tam giác gian lận bao gồm Ap lực, Cơ hội và Thái độ là những nhân tố ảnh hưởng đến gian lận trong kinh doanh của các doanh nghiệp. Sau khi tiến hành phỏng vân các kiểm toán viên độc lập tại Mỹ, Albrecht & Romney (1986) đã chỉ ra một số dấu hiệu có khả năng dự báo gian lận, tập trung ở hai nhóm Ap lực và Thái độ của nhà quản lý. Phát triển từ nghiên cứu nói trên, Loebbecke & cộng sự (1989) tiếp tục mở rộng nghiên cứu trên thị trường Mỹ và đã nhận định rằng gian lận bCtC là hệ quả của nhóm yếu tố Ap lực và Thái độ. Tiếp đến, các nhà khoa học đã thực hiện nghiên cứu liên quan tới gian lận trên BCTC ở các quốc gia khác nhau và cho thấy kết quả có sự khác biệt tùy thuộc vào đặc điểm của từng nền kinh tế. Trong nghiên cứu của Gulkvist & Jokoppi (2012), các yếu tố thuộc nhóm Thái độ và Cơ hội có ảnh hưởng nhất trong quá trình dự báo gian lận của doanh nghiệp và tương đồng với kết quả của Abdullatif (2013). Trong khi đó, nghiên cứu của Lin & cộng sự (2015), Meng & cộng sự (2018) tại Trung Quốc cho rằng các yếu tố giúp phát hiện gian lận BCTC bao gồm các yếu tố thuộc nhóm Ap lực, Cơ hội và Thái độ. Santoso (2017) áp dụng mô hình Tam giác gian lận trong nghiên cứu và chỉ ra các yếu tố thuộc nhóm Ap lực (đòn bẩy nợ và tỷ suất sinh lời trên tài sản) cũng như yếu tố thay đổi thành viên trong Hội đồng quản trị (HĐQT) thuộc nhóm Cơ hội có tác động đến khả năng xảy ra gian lận BCTC trong doanh nghiệp. Tại Việt Nam, các học giả cũng tập trung nghiên cứu về khả năng gian lận BCTC. Cụ thể, nghiên cứu của Lý (2011) và Lê (2013) cho thấy yếu tố áp lực về mục tiêu tài chính (nhóm Ap lực) có ảnh hưởng nhiều nhất đến gian lận BCTC, tiếp theo là sự yếu kém của kiểm soát nội bộ trong 9doanh nghiệp (nhóm Cơ hội). Ngoài ra, kết quả của Trần & cộng sự (2014) cũng khẳng định rằng các biến đại diện cho nhóm Ap lực tài chính như tỷ lệ nợ vay trên tổng tài sản hoặc nhóm BIG4 có kiếm toán công ty hay không, cùng với nhóm Cơ hội thế hiện trình độ học vấn của HĐQT có mối quan hệ với khả năng xảy ra gian lận BCTC của doanh nghiệp. Tuy nhiên, mâu dữ liệu của các nghiên cứu này chỉ được quan sát trong một đến hai năm đối với các công ty niêm yết trên HOSE. Ngoài ra, các tác giả trên đây triến khai các nghiên cứu xác định doanh nghiệp gian lận chỉ dựa trên chênh lệch BCTC trước và sau kiếm toán mà chưa tính đến ý kiến của kiếm toán viên. Đây có thế được coi là khoảng trống trong nghiên cứu mà tác giả đã phát hiện và bổ sung trong bài viết này. Trong nghiên cứu này, tác giả xây dựng mô hình nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới khả năng gian lận trên BCTC dựa trên Lý thuyết Tam giác gian lận (Cressey, 1953). Sử dụng dữ liệu của các công ty phi tài chính niêm yết trên hai sàn giao dịch hose và HNX trong giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2017, bài viết vận dụng mô hình Binary Logistic kết hợp tùy chọn Robust, đồng thời thực hiện cố định ngành và năm đế phân tích ảnh hưởng của các yếu tố nhóm Áp lực, Cơ hội và Thái độ đến khả năng xảy ra gian lận trên BCTC của các doanh nghiệp. Khung lý thuyết Khái niệm về gian lận trên BCTC gắn liền với các chuẩn mực Kiếm toán. Năm 1977, Viện Kế toán công chứng Hoa Kỳ (AICPA) ban hành SAS 16. Đây là chuẩn mực đầu tiên về gian lận trong kiếm toán BCTC, trong đó, gian lận trong lập BCTC được đề cập là “hành vi bất hợp pháp nhăm trình bày sai lệch thông tin trên BCTC”. Năm 1988, SAS 82 định nghĩa răng “Sai phạm từ gian lận trong lập BCTQlà các hành vi sai phạm có chủ ý hoặc cố ý bỏ sót thông tin hoặc trình bày có chủ ý đế lừa dối người sử dụng thông tin”. Đến năm 2002, SAS 82 được thay băng SAS 99, điều chỉnh răng “Sai phạm từ gian lận trong lập BCTC là hành vi sai phạm có chủ ý hoặc cố ý bỏ sót thông tin hay trình bày sai lệch có chủ ý thông tin trên BCTC nhăm lừa dối người sử dụng BCTC. Xét ở tầm quan trọng, những sai phạm đó ảnh hưởng đến BCTC do trình bày không tuân thủ theo các nguyên tắc kế toán được chấp nhận rộng rãi (GAAP)” Trong nghiên cứu của mình, Elliot & Willingham (1980) cho răng gian lận trong lập BCTC là hành vi gian lận có chủ ý do các nhà quản lý thực hiện, gây tổn hại tới nhà đầu tư và chủ nợ nhăm trình bày sai lệch trọng yếu các thông tin trên BCTC. Như vậy, gian lận trên BCTC là hành vi có chủ ý, do nhà quản lý thực hiện thông qua trình bày sai lệch hoặc cố tình che giấu các thông tin mang tính trọng yếu trên BCTC, nhăm lừa dối người sử dụng thông,tin, gây tổn hại đến lợi ích của nhà đầu tư và các bên liên quan. Gian lận BCTC xuất phát từ vấn đề đại diện giữa nhà quản trị và cổ đông. Theo lý thuyết người đại diện do Alchian & Demsetz (1972) phát triến, cổ đông là chủ sở hữu công ty, là người ủy thác ủy quyền hoạt động của công ty và kỳ vọng Ban Giám đốc (BGĐ) sẽ hoạt động và ra quyết định nhăm tạo lợi ích lớn nhất cho co đông. Tuy nhiên, việc ủy thác tạo ra khoảng cách và khác biệt về lợi ích giữa BGĐ và chủ sở hữu là cổ đông. Điều này làm nảy sinh, các mối lo ngại răng nhà quan lý sẽ theo đuổi những mục tiêu có lợi cho cá nhân, có thế xâm hại đến lợi ích của các cổ đông và có khả năng gây ra rủi ro cho công ty. Cụ thế, nhà quản lý có thế lợi dụng vai trò lãnh đạo đế tư lợi, hoặc thực hiện hành vi gian lận điều chỉnh số liệu BCTC khi đứng trước áp lực báo cáo hiệu quả hoạt động của công ty với các cổ đông. Trong số các lý thuyết có liên quan tới gian lận, Lý thuyết Tam giác gian lận của Cressey (1953) đã được thừa nhận rộng rãi và ứng dụng phổ biến. ^Cressey được biết đến là nhà nghiên cứu tội phạm tại trường Đại học Indiana ở Mỹ. Ong đã nghiên cứu và chỉ ra răng hành vi gian lận xảy ra khi hội đủ ba yếu tố Áp lực, Cơ hội và Thái độ. Áp lực Cơ hội Thái độ Hình 1. Tam giác gian lận Nguồn: Lý thuyết Tam giác gian lận (Cressey, 1953) Áp lực: Cressey cho rằng gian lận xảy ra khi nhân viên, nhà quản lý hay tổ chức chịu áp lực về tài chính, tinh thần hay áp lực về kết quả hoạt động đối với bên thứ ba như khó khăn về mặt tài chính, bất đồng trong các mối quan hệ với chủ doanh nghiệp hay áp lực khi chưa hoàn thành hoặc không hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Cơ hội: Trong trường hợp này, yếu tố thứ nhất có thể được xem là tiền đề cho yếu tố Cơ hội. Theo đó,9khi đã tồn tại động cơ hay áp lực cao kết hợp với cơ hội thuận lợi, doanh nghiệp có thể tiến hành hành vi gian lận. Thái độ: Yếu tố cuối cùng này có thể xem là điều kiện đủ để hành vi gian lận xảy ra. Bởi vì, không phải ai khi chịu áp lực cao và có cơ hội tốt đều thực hiện hành vi gian lận, mà điều này còn tùy thuộc vào thái độ và cá tính của từng cá nhân. Phần lớn những người có hành vi gian lận thường biện hộ cho thái độ phạm tội của mình, họ tự trấn an rằng chuyện này sẽ không bao giờ lặp lại. Nhưng nếu tiếp tục, người thực hiện sẽ không còn cảm thấy băn khoăn hay khó xử về hành vi mình đang làm. Khi đó, mọi việc diễn ra dễ dàng hơn, thậm chí thường xuyên hơn và họ cảm thấy hợp lý, cũng như dễ chấp nhận hơn. Lý thuyết Tam giác gian lận sau đó đã trở thành lý thuyết nền tảng trong các nghiên cứu về gian lận và là cơ sở xây dựng Chuẩn mực kiểm toán liên quan tới dẫu hiệu nhận biết gian lận trên BCTC. Tương tự như các tổ chức, hiệp hội nghề nghiệp trên thế giới, Việt Nam cũng đã vận dụng lý thuyết Tam giác gian lận để xây dựng các hướng dân áp dụng nhận biết đặc điểm gĩan lận trong Chuẩn mực kiểm toán 240 - Trách nhiệm của kiểm toán viên liên quan đến gian lận trong quá trình kiểm toán báo cáo tài chính. Theo đó, gian lận có liên quan đến động cơ hoặc áp lực phải thực hiện hành vi gian lận, cơ hội rõ ràng để thực hiện điều đó và hợp lý hoá hành vi gian lận. Dựa trên Lý thuyết tam giác gian lận, các nhà nghiên cứu đã xây dựng mô hình về khả năng gian lận BCTC theo 3 nhóm yếu tố Áp lực, Cơ hội và Thái độ. Nhóm yếu tố Áp lực: Cressey (1953) chỉ ra rằng áp lực dân đến gian lận có thể đến từ sự khó khăn về mặt tài chính, sự bất đồng trong các mối quan hệ hay áp lực về hoàn thành nhiệm vụ được giao. Khi đó, hành vi gian lận BCTC có thể xảy ra nhằm thoát khỏi các áp lực hay để đáp ứng các kỳ vọng đặt ra từ các bên liên quan. Nghiên cứu đề cập đến các yếu tố áp lực tài chính, áp lực đến từ bên thứ ba và động cơ từ đặc thù quản trị doanh nghiệp. 9 Trước tiên, sự ổn định tài chính của chính doanh nghiệp là nền tảng cho phát triển bền vững, từ đó giúp các doanh nghiệp đạt được tăng trưởng ổn định và lâu dài. Nhà quản trị doanh nghiệp khi gặp tình trạng không ổn định về mặt tài chính có khả năng phát sinh động cơ gian lận để che giấu kinh doanh không thuận lợi với cổ đông. Các yếu tố được các nhà nghiên cứu xem xét đó là khả năng kiệt quệ tài chính, kết quả kinh doanh yếu kém và áp lực về dòng tiền. về dấu hiệu kiệt quệ tài chính, nghiên cứu của Persons (1995) và Trần & cộng sự (2014) cho rằng BGĐ của các doanh nghiệp trong tình trạng kiệt quệ tài chính sẽ phải chịu áp lực từ sự đánh giá của các nhà đầu tư, của thị trường và chính các cô đông trong công ty, từ đó xuất hiện động cơ đê thực hiện hành vi gian lận BCTC, làm đẹp hệ sô này và xoa dịu dư luận. Mặt khác, đôi với cô đông, kết quả kinh doanh luôn được coi là yếu tô được cân nhắc hàng đầu, do vậy, doanh nghiệp có kết quả,kinh doanh yếu kém sẽ gây áp lực lên BGĐ. Skousen & cộng sự (2009) cho rằng cô gắng đạt được tỷ suất sinh lời như kỳ vọng có thể trở thành áp lực cho BGĐ để thực hiện hành vi gian lận. Sự khó khăn liên quan đến dòng tiền cũng gây áp lực đôi với nhà điều hành. Lou & Wang (2009) cho rằng dòng tiền hoạt động kinh doanh (HĐKD) bị âm liên tiếp phản ánh tín hiệu tiêu cực về tình hình tài chính của công ty có thể tiếp diễn trong thời gian dài. Khi đó, BGĐ sẽ có xu hướng gian lận BCTC để che giấu tình hình tiêu cực hiện tại, điều chỉnh chỉ tiêu này theo chieu hướng tích cực hơn. Mặt khác,;theo Skousen & cộng sự (2009) và Trần & cộng sự (2014), sự khó khăn trong dòng tiền còn cho thấy dấu hiệu doanh nghiệp không thể^tiếp/tục sử dụng nguồn tài trợ nội bộ để duy trì hoạt động kinh doanh thường xuyên, dẫn đến phải sử dụng các nguồn tài trợ bên ngoài. Điều này tạo động cơ thực hiện hành vi gian lận thông qua điều chỉnh các chỉ tiêu trên BCTC để thể hiện tình hình tài chính khả quan và thuận lợi trong huy động nguồn tài trợ bên ngoài. ' Trong quá trình hoạt động, không chỉ chịu áp lực từ cô đông, doanh nghiệp còn phải đôi mặt áp lực từ bên thứ ba, đặc biệt là chủ nợ. Jensen (1986) và Jelinek (2007) cho rằng đòn bẩy tài chính cao sẽ làm giảm khả năng xảy ra gian lận BCTC, vì điều này giúp giảm bớt chi phí đại diện khi có sự hỗ trợ trong quá trình giám sát và kiểm tra hoạt động của BGĐ từ bên cho vay. Đồng thời, Jensen (1986) đề cập rằng chỉ sô này cao chứng tỏ công ty không có nhiều lượng tiền nhàn rỗi, từ đó còn giúp giảm hành vi cơ hội của BGĐ phục vụ mục tiêu cá nhân. Ngược lại, Pe ... đến khả năng xảy,ra gian lận trên BCTC. Kết quả này tương đồng với kết luận của Persons (1995) và Trần & cộng sự (2014). Đứng trên góc độ của kiểm toán viên, đây là dấu hiệu của vi phạm giả định hoạt động liên tục. Do đó, BGĐ càng đứng trước áp lực điều chỉnh số liệu BCTC để nâng cao giá trị của hệ số đo lường khả năng kiệt quệ tài chính, tạo ra tình hình tài chính khả quan hơn dể, qua mặt cổ đông và các kiểm toán viên. Bên cạnh đó, biến ROA cũng có ý nghĩa, thống kê cao ở mức 1% trong cả 4 phương trình và chỉ ra rằng tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản càng thấp thì khả năng xảy ra gian lận BCTC càng cao, tương đồng với kết quả nghiên cứu của Skousen& cộng sự (2009), Trần & cộng sự (2014) và Santoso & cộng sự (2017). Cụ thể, ROA thể hiện hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp, từ đó trở thành tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của BGĐ và là cơ sở để xác định lương và thưởng. Vì vậy, đây có thể được xem là mục tiêu tài chính cho cả công ty và BGĐ khi phải đạt được mức ROA tương ứng hoặc tốt hơn so với các doanh nghiệp cùng ngành hay trung bình chung của ngành. Do đó, BGĐ sẽ có xu hướng điều chỉnh các chỉ số này để đạt được mục tiêu của công ty, cũng như mục tiêu tài chính riêng của cá nhân. Các biến về áp lực dòng tiền cũng có ý nghĩa thống kê, cụ thể biến dòng tiền thuần từ HĐKD bị âm trong hai ,năm trước liền kề (NECFO) có, hệ số mang dấu dương và có ý nghĩa thống kê ở cả bốn phương trình. Biến nhu cầu về dòng tiền (FCFF) có hệ số mang dấu dương và có ý nghĩa thống kê,ở 2 phương trình FRAUD_3 và FRAUD_4. Điều này cho thấy nếu công ty có dòng tiền thuần từ HĐKD bị âm trong hai năm trước hoặc có nhu cầu lớn về dòng tiền thì sẽ có khả năng cao xảy ra gian lận BCTC. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Skousen & cộng sự (2009) và Lou & Wang (2009). Theo đó, dòng tiền từ HĐKD bị âm chứng tỏ thu nhập của công ty phần lớn được thể hiện dưới dạng các khoản phải thu thông qua các giao dịch bán chịu và có, thể gặp phải vấn đề thanh khoản khi không có đủ lượng tiền chi cho các hoạt động cần thiết hàng ngày như chi tiêu mua sắm nguyên vật liệu, dụng cụ, trả lương cho nhân viên, thanh toán tiền hàng cho nhà cung cap. Hơn nữa, dòng tiền HĐKD âm,và nhu cầu dòng tiền gia tăng cho thấy khả năng cao doanh nghiệp phải huy động đến nguồn tài trợ bên ngoài, khi đó, doanh nghiệp có khả năng sẽ điều chỉnh BCTC theo hướng khả quan để đạt được điều kiện thuận lợi trong các thỏa thuận huy động nợ vay hoặc vốn. Bên cạnh áp lực tài chính, áp lực từ bên thứ ba cũng ảnh hưởng tới khả năng gian lận trên BCTC. Kết quả nghiên cứu cho thấy, biến LEV có ý nghĩa thống kê,ở mức 5% trên 2 phương trình FRAUD_2 và FRAUD_4. Kết quả này phù hợp với kết luận của Jensen (1986) và Jelinek (2007), hàm ý tỷ lệ đòn bẩy nợ càng cao thì khả năng xảy ra gian lận trong lập BCTC càng giảm. Theo Jensen (1986), khi doanh nghiệp có nợ vay càng nhiều thì kéo theo đó là sự giám sát chặt chẽ của chủ nợ nhằm hạn chế rủi ro thất thoát vốn. Mặt khác, theo nghiên cứu Jelinek (2007), khi nhận được khoản vay, các nhà quản trị sẽ ý thức được về nghĩa vụ trả nợ, từ đó tập trung vào các, dự án tạo ra giá trị cho cổ đông và có lợi cho công ty hơn là đầu tư lãng phí, những điều này góp phần đem lại tình hình tài chính tốt cho doanh nghiệp, từ đó cũng giúp hạn chế các hành vi gian lận nhằm mục đích làm đẹp BCTC khi công bố ra thị trường. Kết quả nghiên cứu cũng phản ánh biến LOSS mang dấu dương và có ý nghĩa ở cả 4 phương trình, từ đó cho thấy các doanh nghiệp có tình trạng lỗ hai năm liên tiếp sẽ có khả năng gian lận BCTC. Điều này xuất phát từ quy định bắt buộc của Luật chứng khoán (2006), doanh nghiệp sẽ bị hủy niêm yết trong trường hợp bị lỗ ba năm liên tiep. Như vậy, BGĐ của những doanh nghiệp đang có khoản lỗ trong hai năm liên tiếp phải đứng trước áp lực hủy niêm yết nếu để lỗ tiếp năm thứ ba. Vì vậy, doanh nghiệp có khả năng cao sẽ thực hiện điều chỉnh BCTC nhằm tránh thua lỗ. Ngoài áp lực từ bên thứ ba, khả năng gian lận BCTC cũng có thể bị ảnh hưởng do sự,tham gia của các cổ đông đặc biệt. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng biến STATE và biến INST có tương quan âm với khả năng gian lận BCTC ở phương trình FRAUD_1 và FRAUD_2, cho thấy rằng công ty có tỷ lệ sở hữu nhà nước hoặc sở,hữu của cổ đông tổ chức càng cao càng làm giảm khả năng xảy ra gian lận BCTC. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Wenxuan & Geoff (2010), Wang & Yung (2011), Sadique & cộng sự (2019). Nhìn chung, các doanh nghiệp nhận được vốn từ Nhà nước thường không chịu áp lực quá lớn ve vấn đề lợi nhuận do các cổ đông Nhà nước thường theo đuổi mục tiêu chính trị, từ đó không gây áp lực đối với BGĐ trong việc làm đẹp BCTC Mặt khác, Nhà nước là một nhà đầu tư đặc biệt, do đó BGĐ sẽ phải đối mặt với các vấn đề về pháp lý nếu để xảy ra các vấn đề liên quan tới gian lận. Trong bối cảnh,Nhà nước đang đẩy mạnh chống tham nhũng, các nhà quản lý tại các đơn vị sử dụng vốn và ngân sách Nhà nước sẽ e ngại thực hiện hành vi gian lận BCTC. Đối với trường hợp nhận được vốn từ nhà đầu tư tổ chức, thì các tổ chức này sẽ giám sát doanh nghiệp thông qua quá trình tham gia vào HĐQT hay Ban Kiểm soát. Ap lực về yêu cầu minh bạch thông tin tài chính đi kèm với công cụ kiểm soát từ chính nhà quản trị sẽ hạn chế hành vi gian lận BCTC của BGĐ. Bên cạnh đó, nghiên cứu chưa tìm thấy bằng chứng thực nghiệm về tác động của sở hữu của nhà quản trị tới khả năng gian lận BCTC. Đối với yếu tố Cơ hội, biến EXPERT có ý nghĩa thống kê với tương quan âm ở trên 3 phương trình, hàm ý rằng ở các doanh nghiệp mà chủ tịch HĐQT có chuyên môn về kinh tế tài chính, khả năng gian lận BCTC sẽ giảm. Chủ tịch HĐQT có chuyên môn về kinh tế và tài chính sẽ nắm rõ các kiến thức về nghiệp vụ, nguyên tắc và,bản chất của các vấn đề trong kinh doanh cũng như nhận diện được những sai sót và bất thường trong hoạt động của nhà quản lý, từ đó giúp giám sát tốt hơn quá trình lập và công bố BCTC của doanh nghiệp và hạn chế cơ hội đe BGĐ thực hiện gian lận trên BCTC. Tuy vậy, nghiên cứu chưa tìm thấy bằng chứng thực nghiệm về tác động của yếu tố kiêm nhiệm chức danh chủ tịch HĐQT và giám đốc điều hành tới khả năng gian lận BCTC. Đối với nhóm yếu tố Thái độ, nghiên cứu cho thấy không có bằng chứng rõ ràng về mối quan hệ giữa biến BIG4, the hiện lựa chọn công ty thuộc nhóm BiG4 và biến AUDSWP phản ánh thay đổi công ty kiểm toán với khả năng phát sinh gian lận trong BCTC. Liên quan tới biến kiểm soát, biến có ý nghĩa thống kê là biến SIZE - quy mô doanh nghiệp tại phương trình FRAUD_3 và FRAUD_4. Hệ số hồi quy của SIZE mang dấu âm cho thấy quy mô doanh nghiệp càng lớn sẽ càng giảm khả năng xảy ra gian lận BCTC. Kết quả này phù hợp với kỳ vọng dấu đã đặt ra và tương đồng với nghiên cứu của Persons (1995). Thực tế, Việt Nam vẫn là một thị trường mới nổi, do đó, các doanh nghiệp nhỏ lẻ nếu muốn đạt được mức vốn hóa cao cần phải có sự phát triển trong thời gian dài. Nói cách khác, các doanh nghiệp có quy mô lớn đã phải trải qua một quá trình phát triển bền vững mới có được vị thế như hiện tại. Bên cạnh nỗ lực trong quá trình hoạt động kinh doanh, cùng với sự bền vững trong quy mô doanh nghiệp là khả năng phòng chống và giảm thiểu tối đa khả năng xảy ra hành vi gian lận. Vì vậy, các doanh nghiệp quy mô lớn đang trong thời kỳ ổn định và bão hòa sẽ ý thức đảm bảo uy tín, bền vững của công ty trong tương lai, từ đó sẽ ít có xu hướng gian lận BCTC. Các hàm ý và kết luận A Vận dụng Lý thuyết Tam giác,gian lận của Cressey (1953), nghiên cứu cung cấp bằng chứng thực nghiệm về các dấu hiệu phát sinh gian lận bCtC doanh nghiệp niêm yết Việt Nam. Các dấu hiệu được chia thành 3 nhóm yếu tố bao gồm nhóm Áp lực, nhóm Cơ hội và nhóm Thái độ. Kết quả nghiên cứu cho thấy các doanh nghiệp gặp bất ổn về tài chính, đối mặt với,nguy cơ hủy niêm yết do quy định Nhà nước, sẽ có động cơ gian lận BCTC để che giấu các khó khăn hiện tại. Cụ thể, các biểu hiện về khó khăn tài chính thể hiện qua chỉ số ZSCORE thấp, hiệu quả hoạt động kinh doanh kém, gặp áp lực về dòng tiền và thua lỗ 2 năm liên tiếp chính là dấu hiệu của khả năng phát sinh gian lận. Nghiên cứu cũng cho thấy, áp lực từ chủ nợ, các cổ đông Nhà nước,, cổ đông là nhà đầu tư tổ chức và năng lực chuyên môn của chủ tịch HĐQT sẽ hạn chế hành vi gian lận từ doanh nghiệp. Ngoài việc cung cấp bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ nói trên, kết quả nghiên cứu còn đưa ra gợi ý đối với các doanh nghiệp, các nhà đầu tư và các công ty kiểm toán. Đối với cág doanh nghiệp, các nhà quản trị cần nâng cao chuyên môn để tăng cường giám sát, nhằm phát hiện và giảm thiểu rủi ro có gian lận BCTC. Đối với nhà đầu tư, bài viết này gợi ý những dấu hiệu nhận biết cổ phiếu các doanh nghiệp có khả năng gian lận, bởi vì, đây sẽ là những cổ phiếu thiếu tính minh bạch và gây thiệt hại cho nhà đầu tư. Đối với các công ty kiểm toán, nghiên cứu gợi ý các biểu hiện gian lận cho kiểm toán viên khi nhận định rủi ro, từ đó giúp doanh nghiệp xây dựng kế hoạch kiểm toán phù hợp. Lời cảm ơn: " Bài viết thuộc Đề tài Nghiên cứu khoa học cấp Trường Đại học Ngoại thương: “Ảnh hưởng của quản trị doanh nghiệp tới chất lượng thông tin báo cáO tài chính của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam”, mã số: NTCS2019-01. Tài liệu tham khảo Abdullatif, M. (2013), “Fraud risk factors and audit programme modifications: evidence from Jordan”, Australasian Accounting Business and Finance Journal, Vol. 7 No. 1, pp. 59 - 77. Albrecht, W.S. & Romney, M.B. (1986), “Red-flagging management fraud: a validation”, Advances in Accounting, pp. 323 - 333. Alzoubi, E.S.S. (2016), "Ownership structure and earnings management: evidence from Jordan", International Journal of Accounting & Information Management, Vol. 24, pp. 135’-161. Altman, E.I. (1968), “Financial ratios, discriminant analysis and the prediction of corporate bankruptcy”, Journal of Finance, Vol. 23 No. 4, pp 189 - 209. Beasley, M.S. (1996), “An empirical analysis of the relation between the board of director composition and financial statement fraud”, The Accounting Review, Vol. 71, pp. 443 - 465. Cheng, C.S.A. & Reitenga, A.L. (2009), "Characteristics of institutional investors and discretionary accruals", International Journal of Accounting & Information Management, Vol. 17 No. 1, pp. 5 - 26. Cornett, M.M., Marcus, A.J. & Tehranian, H. (2008), "Corporate governance and pay-for- performance: the impact of earnings management", Journal of Financial Economics, Vol. 87 No. 2, pp. 357 - 373. Cressey, D.R. (1953), "Otherpeople s money: a study inthe socialpsychology of Embezzlement", Glencoe, IL: Free Press. Lê, N.T.C. (2013), Giải pháp nâng cao trách nhiệm của kiểm toán viên độc lập đối với việc phát hiện gian lận và sai sót trong kiểm toán báo cáo tài chính của công ty niêm yết Việt Nam, Luận văn thạc sỹ, Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh. DeFond, M.L. & Jiambalvo, J. (1991), "Incidence and circumstances of accounting errors", Accounting Review, Vol. 66 No. 3, pp. 643 - 655. Đặng, T.T.H., Phan, T.K., Trần, V.T., Trần, T.N.T. & Phạm, T.L (2019), "The impact of accounting disclosures on individual investors’ decision making in Vietnam Stock Market", Management Science Letters, Vol. 9 No. 13, pp. 2391 - 2402. Elliot, R.K. & Willingham, J.J. (1980), "Managementfraud - detection and deterrence", PBI. Gramling, A.A. & Myers, P.M. (2003), "Internal auditors’ assessment of fraud warning signs: implication of external auditor", The CPA Journal, Vol. 73 No. 6, pp. 20 - 24. Gulkvist, B. & Jokoppi, A. (2013), "Perceived importance of red flags across of fraud types", Critical Perspective on Accounting, Vol. 24, pp. 44 - 61. Jensen, M.C. & Meckling, W.H. (1976), "Theory of the firm: managerial behavior, agency costs and ownership structure", Journal of Financial Economics, Vol. 3, pp. 305 - 360. Jelinek, K. (2007), "The effect of leverage increases on earnings management", The Journal of Business and Economic Studies, Vol. 13 No. 2, pp. 24 - 46. Lin, C.C., Chiu, A.A., Huang, S.Y & Yen, D.C. (2015), "Detecting the financial statement fraud: The analysis of the differences between data mining techniques and experts’ judgments", Knowledge-Based Systems, Vol. 89, pp. 459 - 470. Liu, X., Saidi, R. & Bazaz, M. (2014), "Institutional incentives and earnings quality: the influence of government ownership in China", Journal of Contemporary Accounting & Economics, Vol. 10 No. 3, pp. 248 - 261. Loebbecke, J.K., Eining, M.M. & Willingham, J.J. (1989), "Auditors ‘experience with material irregularities: Frequency, nature and detectability", Auditing: A Journal of Practice and Theory, Vol. 9, pp. 1 - 28. Lou, Y.I. & Wang, M.L. (2009), "Fraud risk of the fraud triangle assessing the likelihood of fraudulent financial reporting", Journal of Business and Economics Research, Vol. 7 No.2, pp. 61 - 78. Lý, T.K.N. (2011), Hoàn thiện thủ tục kiểm toán nhằm phát hiện gian lận trên báo cáo tài chính của công ty niêm yết tại Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ, Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh. Meng, Y, Clements, M.P. & Padgett, C. (2018), "Independent directors, information costs and foreign ownership in Chinese companies", Journal of International Financial Markets, Institutions and Money, Vol. 53, pp. 139 - 157. Nguyễn, VL. (2013), Giáo trình lý thuyết kiểm toán, Nxb Tài chính. Quốc hội. (2006), "Luật Chứng khoán", Luật số: 70/2006/QH11, chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_id=1&_ page=3&mode=detail&document_id=80082, truy cập ngày 01/03/2020. Roden, D.M., Cox, S.R. & Kim, J.Y (2016), "The fraud triangle as a predictor of corporate fraud", Academy of Accounting and Financial Studies Journal, Vol. 20 No. 1, pp. 80 - 92. Sadique, R.B.M., Ismail, A.M., Roudaki, J., Alias, N. & Clark, M.B. (2019), "Corporate governance attributes in Fraud Detterence", International Journal of Financial Research, Vol. 10, No. 3, https://doi.org/10.5430/ijfr.v10n3p51. Santoso, N.T (2017), "Predicting financial statement fraud with fraud diamond model of manufacturing companies listed in Indonesia", State of the Art Theories and Empirical Evidence, Vol. 10, pp. 151 - 163. Skousen, C.J., Smith, K.R. & Wright, C.J. (2009), "Detecting and predicting financial statement fraud: the effectiveness of the fraud triangle and SAS No. 99, Corporate Governance and Firm Performance", Emerald Group Publishing Limited. Smith, M., Omar, N.H., Idris, S.I.Z.S. & Baharuddin, I. (2005), "Auditors’ perception of fraud risk indicators: Malaysian evidence", Managerial Auditing Journal, Vol. 20 No. 1, pp. 73 - 85. Persons, O. (1995), "Using financial statement data to identify factors associated with fraudulent financing reporting", Journal of Applied Business Research, Vol. 11, pp. 38 - 46. PWC. (2018), "Khảo sát tội phạm kinh tế và gian lận toàn cầu năm 2018: Đưa hành vi gian lận ra ánh sáng", Góc nhìn Việt Nam, https://www.pwc.com/vn/vn/publications/2018/ pwc-gecs-2018-vietnam-vn.pdf, truy cập ngày 01/03/2020. Trần, T.G.T., Nguyễn, T.T., Đinh, N.T., Hoàng, T.H. & Nguyễn, Đ.H.U. (2014), "Đánh giá rủi ro gian lận BCTC của các công ty niêm yết tại Việt Nam", Tạp chí Phát triển và Kinh tế, Vol. 26 No. 1, pp. 74 - 94.
File đính kèm:
van_dung_mo_hinh_tam_giac_gian_lan_trong_nghien_cuu_cac_nhan.doc
so_129_bai_2_636 (1)_2326582.pdf