Vận dụng mô hình Modified-Jones nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các công ty niêm yết tại Việt Nam
Tóm tắt
Các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều mô hình khác nhau để nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận của
nhà quản lý. Trong đó, mô hình Jones cải tiến (Modified-Jones model) của Dechow, Sloan và Sweeney
(1995) được nhiều nhà nghiên cứu vận dụng. Nghiên cứu này thực hiện kiểm định sự phù hợp của mô
hình Jones cải tiến tại Việt Nam. Qua đó, vận dụng mô hình này để nhận diện xu hướng điều chỉnh lợi
nhuận của nhà quản lý các công ty niêm yết tại Việt Nam.
Từ khóa: điều chỉnh lợi nhuận, mô hình Jones cải tiến, hành vi điều chỉnh lợi nhuận, mô hình nhận
diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận, điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý
Bạn đang xem tài liệu "Vận dụng mô hình Modified-Jones nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các công ty niêm yết tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Vận dụng mô hình Modified-Jones nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các công ty niêm yết tại Việt Nam

TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 8 (33) - Thaùng 10/2015 26 Vận dụng mô hình Modified - Jones nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các công ty niêm yết tại Việt Nam Using the Modified – Jonesmodel research earnings management behavior of the listed companies in Viet Nam TS. Nguyễn Anh Hiền Trường Đại học Sài Gòn Ph.D. Nguyen Anh Hien Sai Gon University Tóm tắt Các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều mô hình khác nhau để nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý. Trong đó, mô hình Jones cải tiến (Modified-Jones model) của Dechow, Sloan và Sweeney (1995) được nhiều nhà nghiên cứu vận dụng. Nghiên cứu này thực hiện kiểm định sự phù hợp của mô hình Jones cải tiến tại Việt Nam. Qua đó, vận dụng mô hình này để nhận diện xu hướng điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý các công ty niêm yết tại Việt Nam. Từ khóa: điều chỉnh lợi nhuận, mô hình Jones cải tiến, hành vi điều chỉnh lợi nhuận, mô hình nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận, điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý Abstract The researchers came up with many different models to identify earnings management behavior. In particular, Modified-Jones model of Dechow, Sloan and Sweeney (1995) was applied by many researchers. This study conducted to test the suitability of the Modified-Jones model in Viet Nam. Thereby, using this model to identify trend in earnings management of managers of the listed companies in Viet Nam. Keywords: earnings management, Modified-Jones model, earnings management behavior, model for earnings management behavior, earnings management of managers 1. Đặt vấn đề Thông tin lợi nhuận trên báo cáo tài chính (BCTC) là thông tin được nhà đầu tư quan tâm nhiều nhất và cũng là thông tin mà nhà quản lý có xu hướng tác động vào nhiều nhất. Trong những năm gần đây, với việc một loạt các công ty niêm yết công bố kết quả kinh doanh thay đổi giữa trước và sau kiểm toán đã gây nhiều lo lắng cho nhà đầu tư và các cơ quan quản lý. Mặc dù, sau đó theo yêu cầu của Sở giao dịch chứng khoán, các đơn vị này đã có văn bản giải trình nhưng nhìn chung vẫn chưa giải tỏa được tâm lý lo lắng của nhà đầu tư. Các nhà đầu tư luôn muốn biết tiền của mình được sử dụng như thế nào và kết quả hoạt động kinh doanh thật sự của công ty. Tuy nhiên, sự tách biệt giữa chủ sở hữu (nhà đầu tư) và nhà quản lý trong mô hình công ty cổ phần đã dẫn đến việc xung đột lợi ích giữa chủ sở hữu và nhà quản lý. Trong khi chủ sở hữu muốn biết nhiều thông tin liên quan đến doanh nghiệp thì nhà quản lý lại có xu hướng hạn chế cung cấp thông tin 27 hoặc cung cấp thông tin có độ tin cậy thấp. Do đó, nhà đầu tư cũng như các nhà nghiên cứu gần như bị động trước các thông tin do các công ty niêm yết cung cấp. Trước thực tế đó, các nhà nghiên cứu đã xem xét đưa ra các mô hình để nhận diện và đo lường hành vi điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý. Trên thế giới đã có nhiều mô hình nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận, trong đó nổi tiếng nhất là mô hình Jones cải tiến của Dechow, Sloan và Sweeney (1995) nhưng liệu mô hình này có phù hợp khi áp dụng cho các công ty niêm yết tại Việt Nam? Để trả lời cho câu hỏi này, nhóm nghiên cứu đã thực hiện kiểm định mức độ phù hợp của mô hình Jones cải tiến của Dechow, Sloan và Sweeney (1995). Qua đó, nhận diện xu hướng điều chỉnh lợi nhuận của các công ty niêm yết tại Việt Nam. 2. Cơ sở lý thuyết Trong các mô hình nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận công bố ở nước ngoài, các tác giả đã dựa trên nguyên tắc cơ sở dồn tích của kế toán để chia lợi nhuận trong kỳ của doanh nghiệp thành hai loại là lợi nhuận bằng tiền (cash earnings) và lợi nhuận dồn tích (accrual earnings). Trong đó, lợi nhuận bằng tiền hình thành từ các khoản doanh thu và chi phí bằng tiền mà doanh nghiệp đã thu và chi trong kỳ. Riêng lợi nhuận dồn tích là lợi nhuận được tính trong kỳ của doanh nghiệp nhưng chưa thu được bằng tiền như các khoản doanh thu bán chịu cho khách hàng sau khi đã trừ các khoản chi phí không phải chi trả bằng tiền; các khoản chi phí phải trả; chi phí trích trước; các khoản dự phòng giảm giá tài sản; dự phòng phải trả, khấu hao tài sản cố định trong kỳ... Các nhà quản lý thường không thể thực hiện hành vi điều chỉnh trên các khoản lợi nhuận bằng tiền. Tuy nhiên, đối với khoản lợi nhuận dồn tích thì nhà quản lý có thể điều chỉnh khi sử dụng nguyên tắc cơ sở dồn tích trong kế toán. Trên lý thuyết, nguyên tắc cơ sở dồn tích nhằm đảm bảo doanh nghiệp phản ánh đúng doanh thu, chi phí trong kỳ và lợi nhuận được phản ánh một cách trung thực và hợp lý. Trong thực tế, nguyên tắc này có thể bị lợi dụng để thực hiện hành vi điều chỉnh lợi nhuận như ghi nhận doanh thu khi chưa phát sinh nghiệp vụ bán hàng, cung cấp dịch vụ hoặc sử dụng việc trích lập các khoản dự phòng, chi phí phải trả, phân bổ chi phí trả trước nhằm gia tăng hay giảm bớt chi phí trong kỳ. Do đó, các nghiên cứu trên thế giới đều cho rằng hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các công ty xuất phát từ các khoản lợi nhuận dồn tích hay còn gọi là các khoản dồn tích trong lợi nhuận (total accrual earnings viết tắt là TA). TA còn được gọi tắt là biến kế toán dồn tích. Khoản dồn tích trong lợi nhuận (TA) được tính bằng cách lấy tổng lợi nhuận kế toán sau thuế trừ lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh: TA = Lợi nhuận sau thuế – dòng tiền thuần hoạt động kinh doanh Tuy nhiên, không thể sử dụng biến TA để đo lường mức độ điều chỉnh lợi nhuận một cách trực tiếp do trong đó có các khoản dồn tích phù hợp với tình hình kinh doanh thực tế của doanh nghiệp như các khoản doanh thu bán chịu trong kỳ, các khoản dự phòng nợ phải thu khó đòi, dự phòng giảm giá hàng tồn kho, các khoản chi phí phải trả được trích lập đúng qui định Do đó, các nhà nghiên cứu đã tách biến TA ra làm hai thành phần gồm: - Các khoản dồn tích không tự định (Non-discretionary accruals viết tắt là NDA): là các khoản dồn tích được thực hiện theo những qui định, nguyên tắc của chuẩn mực và chế độ kế toán. - Các khoản dồn tích tự định (Discretionay accruals viết tắt là DA) hay 28 còn gọi là các khoản dồn tích bất thường (abnormal accruals): là các khoản dồn tích do nhà quản lý thực hiện nhằm mục đích điều chỉnh lợi nhuận trong kỳ. Do đó, biến DA mới chính là thước đo phù hợp để đánh giá các nhà quản lý doanh nghiệp có điều chỉnh lợi nhuận hay không. Về nguyên tắc, khi DA mang giá trị dương thì nhiều khả năng nhà quản lý thổi phồng lợi nhuận. Ngược lại, trường hợp DA mang giá trị âm thì có khả năng nhà quản lý che giấu lợi nhuận. Như vậy, biến DA cho thấy có sự điều chỉnh chủ quan từ nhà quản lý đến lợi nhuận của doanh nghiệp và được xác định như sau: DA = TA – NDA. Do đó, để xác định DA ta phải ước lượng NDA, các nhà nghiên cứu trên thế giới đã đưa ra nhiều mô hình khác nhau, trong đó mô hình Jones (1991) và mô hình Jones cải tiến của Dechow, Sloan và Sweeney (1995) ước lượng NDA như sau: Mô hình Jones (1991) Xác định biến kế dồn tích không tự định (NDA) theo phương trình sau: NDAt / At-1 = α /At-1 + β1 ΔREVt /At-1 + β2 PPEt / At-1 Trong đó: NDAt : Biến kế toán dồn tích không thể điều chỉnh được năm t At-1 : Tổng tài sản cuối năm t-1 ΔREVt : Biến động doanh thu thuần năm t PPEt : Nguyên giá của tài sản cố định hữu hình năm t Trong công thức trên tất cả các biến của phương trình đều chia cho At-1 (tài sản cuối năm t-1) để giảm thiểu rủi ro do phương sai không thuần nhất. α, β1, β2 là những tham số được ước lượng bằng phương pháp bình phương bé nhất (OLS) của các hệ số a1, a2, a3 trong mô hình sau: TAt / At-1 = a1 / At-1 + a2 ΔREVt / At-1 + a3 PPEt / At-1 + εt Phần dư ε trong mô hình trên đại diện cho biến chưa thể nhận diện được, bao gồm cả biến dồn tích tự định (DAt) Sau khi ước lượng biến dồn tích không tự định (NDA), từ phương trình: DAt = TAt – NDAt Ta có: DAt / At-1 = TAt / At-1 – NDAt / At-1 Từ đó xác định biến kế toán dồn tích tự định như sau: DAt / At-1 = TAt / At-1 - a1 / At-1 - a2 ΔREVt / At-1 - a3 PPEt / At-1 Trong mô hình gốc, Jones (1991) đưa vào phương trình hồi quy chỉ có hai biến là REV và PPE. Tác giả cho rằng giá trị REV thể hiện sự biến động doanh thu thuần của doanh nghiệp trong kỳ kế toán, nó phản ánh tình hình và môi trường hoạt động kinh doanh và là khoản mục mang tính khách quan không bị nhà quản lý lợi dụng để điều chỉnh lợi nhuận trong kỳ. Còn giá trị PPE thể hiện nguồn lực nội tại của đơn vị trong việc tạo ra doanh thu, đồng thời khoản mục chi phí khấu hao là một khoản chi phí dồn tích không tự ý lớn ảnh hưởng đến tổng lợi nhuận trong kỳ. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của mình, tác giả cũng có đề cập tới những hạn chế của mô hình là khi chọn REV làm biến nghiên cứu thì có thể doanh thu thuần cũng bị tác động thông qua các khoản doanh thu bị ghi nhận không đúng niên độ và các khoản này có thể là doanh thu khống của doanh nghiệp. Mô hình Jones cải tiến của Dechow, Sloan and Sweeney (1995) Xuất phát từ hạn chế kể trên của mô hình gốc, các nhà nghiên cứu sau này đưa thêm biến tăng giảm khoản phải thu khách hàng (ΔREC) vào phương trình nhằm loại bỏ ảnh hưởng của các khoản doanh thu dồn tích do sự tăng lên của tài khoản phải thu khách hàng trong kỳ. Qua đó, giá trị doanh thu thuần tăng thêm phản ánh chính xác 29 hơn môi trường kinh doanh của doanh nghiệp trong năm đó. Dechow, Sloan and Sweeney (1995) đã cải tiến mô hình của Jones (1991) bằng cách bổ sung thêm sự thay đổi của tài khoản nợ phải thu (ΔREC) vào mô hình. Mô hình Jones được cải tiến như sau: NDAt / At-1 = α / At-1 + β1 (ΔREVt - ΔRECt) / At-1 + β2 PPEt / At-1 Trong đó: ΔRECt: : là sự thay đổi trong tài khoản phải thu khách hàng. 3. Phương pháp nghiên cứu 3.1. Kiểm định mô hình Để kiểm định sự phù hợp của mô hình Jones cải tiến (1995), sau khi ước lượng các tham số trong mô hình, nghiên cứu này thực hiện 4 kiểm định đối với hàm hồi qui bội, gồm: kiểm định tương quan từng phần của các hệ số hồi qui, kiểm định mức độ phù hợp của mô hình, kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến, kiểm định hiện tượng phương sai của phần dư thay đổi. 3.2. Kiểm định xu hướng điều chỉnh lợi nhuận của các công ty niêm yết Từ hàm hồi qui của mô hình Jones cải tiến đã được kiểm định, đồng thời căn cứ bộ dữ liệu năm 2014 để xác định biến kế toán dồn tích không tự định (NDAt/At-1). Sau đó, xác định biến kế toán dồn tích tự định (DAt/At-1) theo công thức: DAt /At-1 = TAt /At-1 – NDAt /At-1 Tỷ số DAt/At-1 thể hiện mức độ và xu hướng điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý. Khi tỷ số DAit/At-1 này dương quá cao thể hiện nhà quản lý thổi phồng lợi nhuận. Ngược lại, khi tỷ số này âm quá cao thể hiện nhà quản lý che giấu lợi nhuận. Dù tỷ số này âm hay dương thì giá trị tuyệt đối của nó đều thể hiện rằng các khoản dồn tích tự định (DA) trong lợi nhuận cao tức là mức độ điều chỉnh lợi nhuận lớn. Do đó, trên thực tế tỷ số DAit/At-1 cũng có thể mang giá trị âm hoặc dương. Vì vậy, nghiên cứu này sử dụng giá trị tuyệt đối của tỷ số DAit/At-1 để kiểm định xu hướng điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý. - Để nhận diện xu hướng điều chỉnh lợi nhuận của các công ty niêm yết, nhóm nghiên cứu đưa ra giả thuyết nghiên cứu H1 “Các doanh nghiệp gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh thì mức độ điều chỉnh lợi nhuận sẽ cao hơn các doanh nghiệp khác”. Trong những năm qua, do thị trường bất động sản đóng băng nên các doanh nghiệp kinh doanh trong các lãnh vực liên quan đến bất động sản gặp rất nhiều khó khăn. Do đó, trong mẫu nghiên cứu chúng tôi chọn 3 lãnh vực kinh doanh có liên quan đến bất động sản gồm: Kinh doanh bất động sản (tên biến: BDS), vật liệu xây dựng (tên biến: VLXD) và xây dựng (tên biến: XD) để phân tích phương sai một yếu tố (ANOVA) nhằm kiểm định giả thuyết nghiên cứu H1. 3.3. Mẫu nghiên cứu và nguồn dữ liệu Tính đến cuối năm 2014, tổng số lượng công ty niêm yết tại Việt Nam là 681 công ty, trong đó có 376 công ty niêm yết trên sàn HNX, 305 công ty niêm yết trên sàn HOSE (Tổng hợp từ website cophieu68.vn). Mẫu nghiên cứu là 380 công ty được chọn ngẫu nhiên từ các công ty niêm yết trên cả 2 sàn HOSE và HNX. Trong đó, 200 công ty niêm yết trên sàn HNX, 180 công ty niêm yết trên sàn HOSE. Các công ty được chọn mẫu không bao gồm các doanh nghiệp kinh doanh trong các lãnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm. Vì các doanh nghiệp này có đặc điểm kinh doanh, chế độ kế toán khác với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thông thường. Với tỷ lệ mẫu đạt 56% thì đảm bảo tính đại diện và độ tin cậy của nghiên cứu. Số liệu của 380 công ty được thu thập trong năm 2014. BCTC của các công ty được tải về từ các website cophieu68.vn, cafef.vn, fpts.com.vn. Cụ 30 thể như sau: TA: Tổng các khoản dồn tích, được xác định bằng cách lấy lợi nhuận sau thuế (trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh) trừ lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh (trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ). At-1 : Tổng tài sản cuối năm, lấy tổng tài sản đầu năm 2014 (Số liệu được lấy trên bảng cân đối kế toán). ΔREVt : Chênh lệch doanh thu năm 2014 và 2013 (Số liệu lấy trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh). PPEt : Nguyên giá của tài sản cố định hữu hình cuối năm 2014 (Số liệu được lấy trên bảng cân đối kế toán). ΔRECt: Chênh lệch phải thu khách hàng năm 2014 và 2013 (Số liệu lấy trên bảng cân đối kế toán). Dữ liệu được thu thập trên phần mềm Excel sau đó được tính toán, hiệu chỉnh và hoàn chỉnh để xử lý trên phần mềm SPSS 16.0. Tên các biến được đặt theo tên các biến trong mô hình. 4. Kết quả nghiên cứu và bàn luận 4.1. Kết quả nghiên cứu - Kiểm định mô hình Jones cải tiến: Sau khi ước lượng các tham số α, βi, kết quả kiểm định mô hình Dechow et al (1995) được tổng hợp từ kết quả xử lý của phần mềm SPSS thể hiện ở bảng sau: Bảng 1: Kết quả kiểm định mô hình Jones cải tiến Loại kiểm định Kết quả kiểm định 1. Hệ số hồi qui 2. Mức độ phù hợp của mô hình 3. Đa cộng tuyến 4. Phương sai của phần dư thay đổi Biến REVREC có Sig. là 0,000, biến PPE có Sig. là 0,000 R 2 = 46,3% Độ phóng đại phương sai (VIF) < 2 Biến REVREC có Sig. là 0,346, biến PPE có Sig. là 0,760 - Kiểm định giả thuyết H1: Kết quả phân tích phương sai một yếu tố các công ty kinh doanh trong các lãnh vực gặp khó khăn như kinh doanh bất động sản, xây dựng và vật liệu xây dựng thể hiện ở các bảng sau: Descriptives DA N Mean Std. Deviation Std. Error 95% Confidence Interval for Mean Minimum Maximum Lower Bound Upper Bound XD 45 ,0977 ,11181 ,01667 ,0641 ,1313 ,01 ,51 VLXD 31 ,1287 ,21468 ,03856 ,0499 ,2074 ,00 1,24 BDS 28 ,1143 ,18907 ,01138 ,0919 ,1367 ,00 2,47 KHAC 276 ,0729 ,06577 ,01243 ,0474 ,0984 ,00 ,26 Total 380 ,1105 0,17750 ,00911 ,0926 ,1284 ,00 2,47 Hình 1. Kết quả thống kê 2014 31 ANOVA DA Sum of Squares df Mean Square F Sig. Between Groups ,061 3 ,020 ,647 ,000 Within Groups 11,880 376 ,032 Total 11,941 379 Hình 2. Kết quả kiểm định ANOVA năm 2014 4.2. Bàn luận - Về mức độ phù hợp của mô hình Jones cải tiến: Kết quả kiểm định mô hình của Jones cải tiến của Dechow et al (1995) có ý nghĩa trong việc nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý tại Việt Nam. Cụ thể: - Giá trị Sig. trong kiểm định hệ số hồi quy của các biến đều nhỏ 0,05; điều này cho thấy các biến trong mô hình đều có ý nghĩa thống kê. - Các biến độc lập giải thích được biến phụ thuộc ở mức độ hợp lý với giá trị R2 của mô hình là 46,3%. - Không xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến vì các giá trị VIF của từng biến của mô hình đều nhỏ hơn 2. - Trong kiểm định phương sai phần dư thay đổi thì giá trị Sig. của các biến đều lớn hơn 0,05; điều này cho thấy phương sai của phần dư không thay đổi mô. - Về xu hướng điều chỉnh lợi nhuận của các công ty niêm yết: Trong hình 2 giá trị Sig. khi kiểm định ANOVA là 0,000 < 0,05 nên có thể kết luận có sự khác biệt về mức độ điều chỉnh lợi nhuận giữa các doanh nghiệp trong 4 nhóm công ty kinh doanh ở các lãnh vực xây dựng, vật liệu xây dựng, bất động sản và nhóm khác. Ngoài ra, nhìn vào kết quả thống kê ở hình 1 ta cũng rút ra một số nhận xét sau: Trong năm 2014 các công ty kinh doanh trong lãnh vực bất động sản, vật liệu xây dựng và xây dựng đều có mức độ điều chỉnh lợi nhuận trung bình cao hơn nhiều so với các công ty kinh doanh ở các lãnh vực khác. Cụ thể: mức độ điều chỉnh trung bình của các công ty lãnh vực xây dựng là 0,0977, vật liệu xây dựng là 0,1287, bất động sản là 0,1143, trong khi mức bình quân của các công ty kinh doanh lãnh vực khác là 0,0729. Điều này cho thấy các doanh nghiệp kinh doanh trong lãnh vực xây dựng, vật liệu xây dựng, bất động sản trong năm 2014 có xu hướng điều chỉnh lợi nhuận cao hơn các doanh nghiệp khác. Do đó, giả thuyết H1 (Các doanh nghiệp gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh thì mức độ điều chỉnh lợi nhuận sẽ cao hơn các doanh nghiệp khác) là đúng. 5. Kết luận Chất lượng thông tin trên BCTC của các công ty niêm yết đang là một vấn đề được các nhà quản lý lẫn nhà đầu tư quan tâm. Một trong những nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng BCTC của các công ty niêm yết là hành vi điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý của các công ty niêm yết. Để nhận diện hành vi điều chỉnh 32 lợi nhuận các nhà nghiên cứu không thể tiếp cận thực tế của các doanh nghiệp mà họ thường đưa ra các mô hình để nhận diện các hành vi này. Trên thế giới đã có nhiều tác giả đưa ra mô hình để nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý, trong đó mô hình được các nhà nghiên cứu vận dụng nhiều nhất là mô hình Jones cải tiến của Dechow et al (1995). Thông qua kiểm định sự phù hợp của hàm hồi qui bội với dữ liệu 380 công ty niêm yết tại Việt Nam trong năm 2014 đã cho thấy mô hình Jones cải tiến có ý nghĩa thống kê. Kết quả tính toán khoản dồn tích tự định theo mô hình Jones cải tiến của mẫu nghiên cứu và kiểm định thông qua phân tích phương sai một yếu tố đã cho thấy có bằng chứng rằng các công ty gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh thì có mức độ điều chỉnh cao hơn các doanh nghiệp khác. Kết quả nghiên cứu này giúp các nhà đầu tư, công ty kiểm toán và các cơ quan quản lý Nhà nước có nhận định hợp lý về chất lượng BCTC của các công ty niêm yết tại Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đinh Phi Hổ (2014), Phương pháp nghiên cứu kinh tế và viết luận văn thạc sĩ, Nxb Phương Đông. 2. Phạm Thị Bích Vân (2012), “Mô hình nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết ở SGD chứng khoán Hà Nội”, Tạp chí Ngân hàng, số 09. 3. Boynton, E., C., Dobbins, S., P and Plesko, A., G. (1992), “Earnings management and corporate alternative minimum tax”, Journal of accounting Research, vol.30, pp.131-153. 4. Dechow, R., Sloan, G., and Sweeney, A., P. (1995), “Detecting earnings management”, The Accounting Review, vol.70 (2), pp. 193-225. 5. Eli Bartov, Ferdinand A. Gul and Judy S.L. Tsui (2000), Discretionary-Accruals Models and Audit Qualifications. Truy cập tại: https://archive.nyu.edu/bitstream/2451/27561/ 2/SSRN-id214996.pdf 6. Jones, J. (1991),“Earnings Management During Import Relief Investigations”, Journal of Accounting Research 29, 193-228. 7. Kothari, Leone, Wasley (2005), “Performance matched discretionary accual measure”, Journal of accounting and economics, vol 39, pp 163-197. Ngày nhận bài: 13/7/2015 Biên tập xong: 15/10/2015 Duyệt đăng: 20/10/2015
File đính kèm:
van_dung_mo_hinh_modified_jones_nghien_cuu_hanh_vi_dieu_chin.pdf