Vận dụng mô hình Modified-Jones nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các công ty niêm yết tại Việt Nam

Tóm tắt

Các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều mô hình khác nhau để nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận của

nhà quản lý. Trong đó, mô hình Jones cải tiến (Modified-Jones model) của Dechow, Sloan và Sweeney

(1995) được nhiều nhà nghiên cứu vận dụng. Nghiên cứu này thực hiện kiểm định sự phù hợp của mô

hình Jones cải tiến tại Việt Nam. Qua đó, vận dụng mô hình này để nhận diện xu hướng điều chỉnh lợi

nhuận của nhà quản lý các công ty niêm yết tại Việt Nam.

Từ khóa: điều chỉnh lợi nhuận, mô hình Jones cải tiến, hành vi điều chỉnh lợi nhuận, mô hình nhận

diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận, điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý

pdf 7 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Vận dụng mô hình Modified-Jones nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các công ty niêm yết tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vận dụng mô hình Modified-Jones nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các công ty niêm yết tại Việt Nam

Vận dụng mô hình Modified-Jones nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các công ty niêm yết tại Việt Nam
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 8 (33) - Thaùng 10/2015 
26 
Vận dụng mô hình Modified - Jones nghiên cứu hành vi 
điều chỉnh lợi nhuận của các công ty niêm yết tại Việt Nam 
Using the Modified – Jonesmodel research earnings management behavior of the 
listed companies in Viet Nam 
TS. Nguyễn Anh Hiền 
Trường Đại học Sài Gòn 
Ph.D. Nguyen Anh Hien 
Sai Gon University 
Tóm tắt 
Các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều mô hình khác nhau để nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận của 
nhà quản lý. Trong đó, mô hình Jones cải tiến (Modified-Jones model) của Dechow, Sloan và Sweeney 
(1995) được nhiều nhà nghiên cứu vận dụng. Nghiên cứu này thực hiện kiểm định sự phù hợp của mô 
hình Jones cải tiến tại Việt Nam. Qua đó, vận dụng mô hình này để nhận diện xu hướng điều chỉnh lợi 
nhuận của nhà quản lý các công ty niêm yết tại Việt Nam. 
Từ khóa: điều chỉnh lợi nhuận, mô hình Jones cải tiến, hành vi điều chỉnh lợi nhuận, mô hình nhận 
diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận, điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý 
Abstract 
The researchers came up with many different models to identify earnings management behavior. In 
particular, Modified-Jones model of Dechow, Sloan and Sweeney (1995) was applied by many 
researchers. This study conducted to test the suitability of the Modified-Jones model in Viet Nam. 
Thereby, using this model to identify trend in earnings management of managers of the listed companies 
in Viet Nam. 
Keywords: earnings management, Modified-Jones model, earnings management behavior, model for 
earnings management behavior, earnings management of managers 
1. Đặt vấn đề 
Thông tin lợi nhuận trên báo cáo tài 
chính (BCTC) là thông tin được nhà đầu tư 
quan tâm nhiều nhất và cũng là thông tin 
mà nhà quản lý có xu hướng tác động vào 
nhiều nhất. Trong những năm gần đây, với 
việc một loạt các công ty niêm yết công bố 
kết quả kinh doanh thay đổi giữa trước và 
sau kiểm toán đã gây nhiều lo lắng cho nhà 
đầu tư và các cơ quan quản lý. Mặc dù, sau 
đó theo yêu cầu của Sở giao dịch chứng 
khoán, các đơn vị này đã có văn bản giải 
trình nhưng nhìn chung vẫn chưa giải tỏa 
được tâm lý lo lắng của nhà đầu tư. Các 
nhà đầu tư luôn muốn biết tiền của mình 
được sử dụng như thế nào và kết quả hoạt 
động kinh doanh thật sự của công ty. Tuy 
nhiên, sự tách biệt giữa chủ sở hữu (nhà 
đầu tư) và nhà quản lý trong mô hình công 
ty cổ phần đã dẫn đến việc xung đột lợi ích 
giữa chủ sở hữu và nhà quản lý. Trong khi 
chủ sở hữu muốn biết nhiều thông tin liên 
quan đến doanh nghiệp thì nhà quản lý lại 
có xu hướng hạn chế cung cấp thông tin 
27 
hoặc cung cấp thông tin có độ tin cậy thấp. 
Do đó, nhà đầu tư cũng như các nhà nghiên 
cứu gần như bị động trước các thông tin do 
các công ty niêm yết cung cấp. 
Trước thực tế đó, các nhà nghiên cứu 
đã xem xét đưa ra các mô hình để nhận 
diện và đo lường hành vi điều chỉnh lợi 
nhuận của nhà quản lý. Trên thế giới đã có 
nhiều mô hình nhận diện hành vi điều 
chỉnh lợi nhuận, trong đó nổi tiếng nhất là 
mô hình Jones cải tiến của Dechow, Sloan 
và Sweeney (1995) nhưng liệu mô hình 
này có phù hợp khi áp dụng cho các công 
ty niêm yết tại Việt Nam? 
Để trả lời cho câu hỏi này, nhóm 
nghiên cứu đã thực hiện kiểm định mức độ 
phù hợp của mô hình Jones cải tiến của 
Dechow, Sloan và Sweeney (1995). Qua đó, 
nhận diện xu hướng điều chỉnh lợi nhuận 
của các công ty niêm yết tại Việt Nam. 
2. Cơ sở lý thuyết 
Trong các mô hình nhận diện hành vi 
điều chỉnh lợi nhuận công bố ở nước ngoài, 
các tác giả đã dựa trên nguyên tắc cơ sở 
dồn tích của kế toán để chia lợi nhuận 
trong kỳ của doanh nghiệp thành hai loại là 
lợi nhuận bằng tiền (cash earnings) và lợi 
nhuận dồn tích (accrual earnings). Trong 
đó, lợi nhuận bằng tiền hình thành từ các 
khoản doanh thu và chi phí bằng tiền mà 
doanh nghiệp đã thu và chi trong kỳ. Riêng 
lợi nhuận dồn tích là lợi nhuận được tính 
trong kỳ của doanh nghiệp nhưng chưa thu 
được bằng tiền như các khoản doanh thu 
bán chịu cho khách hàng sau khi đã trừ các 
khoản chi phí không phải chi trả bằng tiền; 
các khoản chi phí phải trả; chi phí trích 
trước; các khoản dự phòng giảm giá tài 
sản; dự phòng phải trả, khấu hao tài sản cố 
định trong kỳ... 
Các nhà quản lý thường không thể thực 
hiện hành vi điều chỉnh trên các khoản lợi 
nhuận bằng tiền. Tuy nhiên, đối với khoản 
lợi nhuận dồn tích thì nhà quản lý có thể 
điều chỉnh khi sử dụng nguyên tắc cơ sở 
dồn tích trong kế toán. Trên lý thuyết, 
nguyên tắc cơ sở dồn tích nhằm đảm bảo 
doanh nghiệp phản ánh đúng doanh thu, chi 
phí trong kỳ và lợi nhuận được phản ánh 
một cách trung thực và hợp lý. Trong thực 
tế, nguyên tắc này có thể bị lợi dụng để thực 
hiện hành vi điều chỉnh lợi nhuận như ghi 
nhận doanh thu khi chưa phát sinh nghiệp 
vụ bán hàng, cung cấp dịch vụ hoặc sử dụng 
việc trích lập các khoản dự phòng, chi phí 
phải trả, phân bổ chi phí trả trước nhằm gia 
tăng hay giảm bớt chi phí trong kỳ. 
Do đó, các nghiên cứu trên thế giới 
đều cho rằng hành vi điều chỉnh lợi nhuận 
của các công ty xuất phát từ các khoản lợi 
nhuận dồn tích hay còn gọi là các khoản 
dồn tích trong lợi nhuận (total accrual 
earnings viết tắt là TA). TA còn được gọi 
tắt là biến kế toán dồn tích. 
Khoản dồn tích trong lợi nhuận (TA) 
được tính bằng cách lấy tổng lợi nhuận kế 
toán sau thuế trừ lưu chuyển tiền thuần từ 
hoạt động kinh doanh: 
TA = Lợi nhuận sau thuế – dòng tiền 
thuần hoạt động kinh doanh 
Tuy nhiên, không thể sử dụng biến TA 
để đo lường mức độ điều chỉnh lợi nhuận 
một cách trực tiếp do trong đó có các 
khoản dồn tích phù hợp với tình hình kinh 
doanh thực tế của doanh nghiệp như các 
khoản doanh thu bán chịu trong kỳ, các 
khoản dự phòng nợ phải thu khó đòi, dự 
phòng giảm giá hàng tồn kho, các khoản 
chi phí phải trả được trích lập đúng qui 
định Do đó, các nhà nghiên cứu đã tách 
biến TA ra làm hai thành phần gồm: 
- Các khoản dồn tích không tự định 
(Non-discretionary accruals viết tắt là 
NDA): là các khoản dồn tích được thực 
hiện theo những qui định, nguyên tắc của 
chuẩn mực và chế độ kế toán. 
- Các khoản dồn tích tự định 
(Discretionay accruals viết tắt là DA) hay 
28 
còn gọi là các khoản dồn tích bất thường 
(abnormal accruals): là các khoản dồn tích 
do nhà quản lý thực hiện nhằm mục đích 
điều chỉnh lợi nhuận trong kỳ. 
Do đó, biến DA mới chính là thước đo 
phù hợp để đánh giá các nhà quản lý doanh 
nghiệp có điều chỉnh lợi nhuận hay không. 
Về nguyên tắc, khi DA mang giá trị dương 
thì nhiều khả năng nhà quản lý thổi phồng 
lợi nhuận. Ngược lại, trường hợp DA mang 
giá trị âm thì có khả năng nhà quản lý che 
giấu lợi nhuận. Như vậy, biến DA cho thấy 
có sự điều chỉnh chủ quan từ nhà quản lý 
đến lợi nhuận của doanh nghiệp và được 
xác định như sau: 
DA = TA – NDA. 
Do đó, để xác định DA ta phải ước 
lượng NDA, các nhà nghiên cứu trên thế 
giới đã đưa ra nhiều mô hình khác nhau, 
trong đó mô hình Jones (1991) và mô hình 
Jones cải tiến của Dechow, Sloan và 
Sweeney (1995) ước lượng NDA như sau: 
 Mô hình Jones (1991) 
Xác định biến kế dồn tích không tự 
định (NDA) theo phương trình sau: 
NDAt / At-1 = α /At-1 + β1 ΔREVt /At-1 + β2 
PPEt / At-1 
Trong đó: 
NDAt : Biến kế toán dồn tích không thể 
 điều chỉnh được năm t 
At-1 : Tổng tài sản cuối năm t-1 
ΔREVt : Biến động doanh thu thuần năm t 
PPEt : Nguyên giá của tài sản cố định 
 hữu hình năm t 
Trong công thức trên tất cả các biến 
của phương trình đều chia cho At-1 (tài sản 
cuối năm t-1) để giảm thiểu rủi ro do 
phương sai không thuần nhất. 
α, β1, β2 là những tham số được ước 
lượng bằng phương pháp bình phương bé 
nhất (OLS) của các hệ số a1, a2, a3 trong 
mô hình sau: 
TAt / At-1 = a1 / At-1 + a2 ΔREVt / At-1 + a3 
PPEt / At-1 + εt 
Phần dư ε trong mô hình trên đại diện 
cho biến chưa thể nhận diện được, bao gồm 
cả biến dồn tích tự định (DAt) 
Sau khi ước lượng biến dồn tích không 
tự định (NDA), từ phương trình: 
DAt = TAt – NDAt 
Ta có: 
DAt / At-1 = TAt / At-1 – NDAt / At-1 
Từ đó xác định biến kế toán dồn tích 
tự định như sau: 
DAt / At-1 = TAt / At-1 - a1 / At-1 - a2 ΔREVt 
/ At-1 - a3 PPEt / At-1 
Trong mô hình gốc, Jones (1991) đưa 
vào phương trình hồi quy chỉ có hai biến là 
REV và PPE. Tác giả cho rằng giá trị 
REV thể hiện sự biến động doanh thu 
thuần của doanh nghiệp trong kỳ kế toán, 
nó phản ánh tình hình và môi trường hoạt 
động kinh doanh và là khoản mục mang 
tính khách quan không bị nhà quản lý lợi 
dụng để điều chỉnh lợi nhuận trong kỳ. Còn 
giá trị PPE thể hiện nguồn lực nội tại của 
đơn vị trong việc tạo ra doanh thu, đồng 
thời khoản mục chi phí khấu hao là một 
khoản chi phí dồn tích không tự ý lớn ảnh 
hưởng đến tổng lợi nhuận trong kỳ. Tuy 
nhiên, trong nghiên cứu của mình, tác giả 
cũng có đề cập tới những hạn chế của mô 
hình là khi chọn REV làm biến nghiên cứu 
thì có thể doanh thu thuần cũng bị tác động 
thông qua các khoản doanh thu bị ghi nhận 
không đúng niên độ và các khoản này có 
thể là doanh thu khống của doanh nghiệp. 
 Mô hình Jones cải tiến của 
Dechow, Sloan and Sweeney (1995) 
Xuất phát từ hạn chế kể trên của mô 
hình gốc, các nhà nghiên cứu sau này đưa 
thêm biến tăng giảm khoản phải thu khách 
hàng (ΔREC) vào phương trình nhằm loại 
bỏ ảnh hưởng của các khoản doanh thu dồn 
tích do sự tăng lên của tài khoản phải thu 
khách hàng trong kỳ. Qua đó, giá trị doanh 
thu thuần tăng thêm phản ánh chính xác 
29 
hơn môi trường kinh doanh của doanh 
nghiệp trong năm đó. Dechow, Sloan and 
Sweeney (1995) đã cải tiến mô hình của 
Jones (1991) bằng cách bổ sung thêm sự 
thay đổi của tài khoản nợ phải thu (ΔREC) 
vào mô hình. Mô hình Jones được cải tiến 
như sau: 
NDAt / At-1 = α / At-1 + β1 (ΔREVt - 
ΔRECt) / At-1 + β2 PPEt / At-1 
Trong đó: 
ΔRECt: : là sự thay đổi trong tài khoản 
 phải thu khách hàng. 
3. Phương pháp nghiên cứu 
3.1. Kiểm định mô hình 
Để kiểm định sự phù hợp của mô hình 
Jones cải tiến (1995), sau khi ước lượng 
các tham số trong mô hình, nghiên cứu này 
thực hiện 4 kiểm định đối với hàm hồi qui 
bội, gồm: kiểm định tương quan từng phần 
của các hệ số hồi qui, kiểm định mức độ 
phù hợp của mô hình, kiểm định hiện 
tượng đa cộng tuyến, kiểm định hiện tượng 
phương sai của phần dư thay đổi. 
3.2. Kiểm định xu hướng điều chỉnh 
lợi nhuận của các công ty niêm yết 
Từ hàm hồi qui của mô hình Jones cải 
tiến đã được kiểm định, đồng thời căn cứ 
bộ dữ liệu năm 2014 để xác định biến kế 
toán dồn tích không tự định (NDAt/At-1). 
Sau đó, xác định biến kế toán dồn tích tự 
định (DAt/At-1) theo công thức: 
DAt /At-1 = TAt /At-1 – NDAt /At-1 
Tỷ số DAt/At-1 thể hiện mức độ và xu 
hướng điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản 
lý. Khi tỷ số DAit/At-1 này dương quá cao 
thể hiện nhà quản lý thổi phồng lợi nhuận. 
Ngược lại, khi tỷ số này âm quá cao thể 
hiện nhà quản lý che giấu lợi nhuận. Dù tỷ 
số này âm hay dương thì giá trị tuyệt đối 
của nó đều thể hiện rằng các khoản dồn 
tích tự định (DA) trong lợi nhuận cao tức là 
mức độ điều chỉnh lợi nhuận lớn. Do đó, 
trên thực tế tỷ số DAit/At-1 cũng có thể 
mang giá trị âm hoặc dương. Vì vậy, 
nghiên cứu này sử dụng giá trị tuyệt đối 
của tỷ số DAit/At-1 để kiểm định xu hướng 
điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý. 
- Để nhận diện xu hướng điều chỉnh 
lợi nhuận của các công ty niêm yết, nhóm 
nghiên cứu đưa ra giả thuyết nghiên cứu H1 
“Các doanh nghiệp gặp khó khăn trong 
hoạt động sản xuất kinh doanh thì mức độ 
điều chỉnh lợi nhuận sẽ cao hơn các doanh 
nghiệp khác”. Trong những năm qua, do 
thị trường bất động sản đóng băng nên các 
doanh nghiệp kinh doanh trong các lãnh 
vực liên quan đến bất động sản gặp rất 
nhiều khó khăn. Do đó, trong mẫu nghiên 
cứu chúng tôi chọn 3 lãnh vực kinh doanh 
có liên quan đến bất động sản gồm: Kinh 
doanh bất động sản (tên biến: BDS), vật 
liệu xây dựng (tên biến: VLXD) và xây 
dựng (tên biến: XD) để phân tích phương 
sai một yếu tố (ANOVA) nhằm kiểm định 
giả thuyết nghiên cứu H1. 
3.3. Mẫu nghiên cứu và nguồn dữ liệu 
Tính đến cuối năm 2014, tổng số 
lượng công ty niêm yết tại Việt Nam là 681 
công ty, trong đó có 376 công ty niêm yết 
trên sàn HNX, 305 công ty niêm yết trên 
sàn HOSE (Tổng hợp từ website 
cophieu68.vn). Mẫu nghiên cứu là 380 
công ty được chọn ngẫu nhiên từ các công 
ty niêm yết trên cả 2 sàn HOSE và HNX. 
Trong đó, 200 công ty niêm yết trên sàn 
HNX, 180 công ty niêm yết trên sàn 
HOSE. Các công ty được chọn mẫu không 
bao gồm các doanh nghiệp kinh doanh 
trong các lãnh vực ngân hàng, chứng 
khoán, bảo hiểm. Vì các doanh nghiệp này 
có đặc điểm kinh doanh, chế độ kế toán 
khác với các doanh nghiệp sản xuất kinh 
doanh thông thường. Với tỷ lệ mẫu đạt 
56% thì đảm bảo tính đại diện và độ tin cậy 
của nghiên cứu. Số liệu của 380 công ty 
được thu thập trong năm 2014. BCTC của 
các công ty được tải về từ các website 
cophieu68.vn, cafef.vn, fpts.com.vn. Cụ 
30 
thể như sau: 
TA: Tổng các khoản dồn tích, được 
xác định bằng cách lấy lợi nhuận 
sau thuế (trên báo cáo kết quả hoạt 
động kinh doanh) trừ lưu chuyển 
tiền thuần từ hoạt động kinh 
doanh (trên báo cáo lưu chuyển 
tiền tệ). 
At-1 : Tổng tài sản cuối năm, lấy tổng tài 
sản đầu năm 2014 (Số liệu được 
lấy trên bảng cân đối kế toán). 
ΔREVt : Chênh lệch doanh thu năm 2014 
và 2013 (Số liệu lấy trên báo cáo 
kết quả hoạt động kinh doanh). 
PPEt : Nguyên giá của tài sản cố định hữu 
hình cuối năm 2014 (Số liệu được 
lấy trên bảng cân đối kế toán). 
ΔRECt: Chênh lệch phải thu khách hàng 
năm 2014 và 2013 (Số liệu lấy 
trên bảng cân đối kế toán). 
Dữ liệu được thu thập trên phần mềm 
Excel sau đó được tính toán, hiệu chỉnh và 
hoàn chỉnh để xử lý trên phần mềm SPSS 
16.0. Tên các biến được đặt theo tên các 
biến trong mô hình. 
4. Kết quả nghiên cứu và bàn luận 
4.1. Kết quả nghiên cứu 
- Kiểm định mô hình Jones cải tiến: 
Sau khi ước lượng các tham số α, βi, 
kết quả kiểm định mô hình Dechow et al 
(1995) được tổng hợp từ kết quả xử lý của 
phần mềm SPSS thể hiện ở bảng sau: 
Bảng 1: Kết quả kiểm định mô hình Jones cải tiến 
Loại kiểm định Kết quả kiểm định 
1. Hệ số hồi qui 
2. Mức độ phù hợp của mô hình 
3. Đa cộng tuyến 
4. Phương sai của phần dư thay đổi 
Biến REVREC có Sig. là 0,000, biến PPE có Sig. là 0,000 
R
2
 = 46,3% 
Độ phóng đại phương sai (VIF) < 2 
Biến REVREC có Sig. là 0,346, biến PPE có Sig. là 0,760 
- Kiểm định giả thuyết H1: 
Kết quả phân tích phương sai một yếu 
tố các công ty kinh doanh trong các lãnh 
vực gặp khó khăn như kinh doanh bất động 
sản, xây dựng và vật liệu xây dựng thể hiện 
ở các bảng sau: 
Descriptives 
DA 
N Mean 
Std. 
Deviation 
Std. 
Error 
95% Confidence 
Interval for Mean 
Minimum Maximum 
Lower 
Bound 
Upper 
Bound 
XD 45 ,0977 ,11181 ,01667 ,0641 ,1313 ,01 ,51 
VLXD 31 ,1287 ,21468 ,03856 ,0499 ,2074 ,00 1,24 
BDS 28 ,1143 ,18907 ,01138 ,0919 ,1367 ,00 2,47 
KHAC 276 ,0729 ,06577 ,01243 ,0474 ,0984 ,00 ,26 
Total 380 ,1105 0,17750 ,00911 ,0926 ,1284 ,00 2,47 
Hình 1. Kết quả thống kê 2014 
31 
ANOVA 
DA 
Sum of 
Squares df 
Mean 
Square F Sig. 
Between 
Groups 
,061 3 ,020 ,647 ,000 
Within Groups 11,880 376 ,032 
Total 11,941 379 
Hình 2. Kết quả kiểm định ANOVA năm 2014 
4.2. Bàn luận 
- Về mức độ phù hợp của mô hình 
Jones cải tiến: 
Kết quả kiểm định mô hình của Jones 
cải tiến của Dechow et al (1995) có ý nghĩa 
trong việc nhận diện hành vi điều chỉnh lợi 
nhuận của nhà quản lý tại Việt Nam. Cụ 
thể: 
- Giá trị Sig. trong kiểm định hệ số hồi 
quy của các biến đều nhỏ 0,05; điều này 
cho thấy các biến trong mô hình đều có ý 
nghĩa thống kê. 
- Các biến độc lập giải thích được biến 
phụ thuộc ở mức độ hợp lý với giá trị R2 
của mô hình là 46,3%. 
- Không xảy ra hiện tượng đa cộng 
tuyến vì các giá trị VIF của từng biến của 
mô hình đều nhỏ hơn 2. 
- Trong kiểm định phương sai phần dư 
thay đổi thì giá trị Sig. của các biến đều lớn 
hơn 0,05; điều này cho thấy phương sai của 
phần dư không thay đổi mô. 
- Về xu hướng điều chỉnh lợi nhuận 
của các công ty niêm yết: 
Trong hình 2 giá trị Sig. khi kiểm định 
ANOVA là 0,000 < 0,05 nên có thể kết 
luận có sự khác biệt về mức độ điều chỉnh 
lợi nhuận giữa các doanh nghiệp trong 4 
nhóm công ty kinh doanh ở các lãnh vực 
xây dựng, vật liệu xây dựng, bất động sản 
và nhóm khác. 
Ngoài ra, nhìn vào kết quả thống kê ở 
hình 1 ta cũng rút ra một số nhận xét sau: 
Trong năm 2014 các công ty kinh doanh 
trong lãnh vực bất động sản, vật liệu xây 
dựng và xây dựng đều có mức độ điều 
chỉnh lợi nhuận trung bình cao hơn nhiều 
so với các công ty kinh doanh ở các lãnh 
vực khác. Cụ thể: mức độ điều chỉnh trung 
bình của các công ty lãnh vực xây dựng là 
0,0977, vật liệu xây dựng là 0,1287, bất 
động sản là 0,1143, trong khi mức bình 
quân của các công ty kinh doanh lãnh vực 
khác là 0,0729. Điều này cho thấy các 
doanh nghiệp kinh doanh trong lãnh vực 
xây dựng, vật liệu xây dựng, bất động sản 
trong năm 2014 có xu hướng điều chỉnh lợi 
nhuận cao hơn các doanh nghiệp khác. 
Do đó, giả thuyết H1 (Các doanh 
nghiệp gặp khó khăn trong hoạt động sản 
xuất kinh doanh thì mức độ điều chỉnh lợi 
nhuận sẽ cao hơn các doanh nghiệp khác) 
là đúng. 
5. Kết luận 
Chất lượng thông tin trên BCTC của 
các công ty niêm yết đang là một vấn đề 
được các nhà quản lý lẫn nhà đầu tư quan 
tâm. Một trong những nguyên nhân quan 
trọng ảnh hưởng đến chất lượng BCTC của 
các công ty niêm yết là hành vi điều chỉnh 
lợi nhuận của nhà quản lý của các công ty 
niêm yết. Để nhận diện hành vi điều chỉnh 
32 
lợi nhuận các nhà nghiên cứu không thể 
tiếp cận thực tế của các doanh nghiệp mà 
họ thường đưa ra các mô hình để nhận diện 
các hành vi này. Trên thế giới đã có nhiều 
tác giả đưa ra mô hình để nhận diện hành 
vi điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý, 
trong đó mô hình được các nhà nghiên cứu 
vận dụng nhiều nhất là mô hình Jones cải 
tiến của Dechow et al (1995). Thông qua 
kiểm định sự phù hợp của hàm hồi qui bội 
với dữ liệu 380 công ty niêm yết tại Việt 
Nam trong năm 2014 đã cho thấy mô hình 
Jones cải tiến có ý nghĩa thống kê. Kết quả 
tính toán khoản dồn tích tự định theo mô 
hình Jones cải tiến của mẫu nghiên cứu và 
kiểm định thông qua phân tích phương sai 
một yếu tố đã cho thấy có bằng chứng rằng 
các công ty gặp khó khăn trong hoạt động 
sản xuất kinh doanh thì có mức độ điều 
chỉnh cao hơn các doanh nghiệp khác. Kết 
quả nghiên cứu này giúp các nhà đầu tư, 
công ty kiểm toán và các cơ quan quản lý 
Nhà nước có nhận định hợp lý về chất 
lượng BCTC của các công ty niêm yết tại 
Việt Nam. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Đinh Phi Hổ (2014), Phương pháp nghiên 
cứu kinh tế và viết luận văn thạc sĩ, Nxb 
Phương Đông. 
2. Phạm Thị Bích Vân (2012), “Mô hình nhận 
diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các 
doanh nghiệp niêm yết ở SGD chứng khoán 
Hà Nội”, Tạp chí Ngân hàng, số 09. 
3. Boynton, E., C., Dobbins, S., P and Plesko, 
A., G. (1992), “Earnings management and 
corporate alternative minimum tax”, Journal 
of accounting Research, vol.30, pp.131-153. 
4. Dechow, R., Sloan, G., and Sweeney, A., P. 
(1995), “Detecting earnings management”, The 
Accounting Review, vol.70 (2), pp. 193-225. 
5. Eli Bartov, Ferdinand A. Gul and Judy S.L. 
Tsui (2000), Discretionary-Accruals Models 
and Audit Qualifications. Truy cập tại: 
https://archive.nyu.edu/bitstream/2451/27561/
2/SSRN-id214996.pdf 
6. Jones, J. (1991),“Earnings Management 
During Import Relief Investigations”, Journal 
of Accounting Research 29, 193-228. 
7. Kothari, Leone, Wasley (2005), “Performance 
matched discretionary accual measure”, 
Journal of accounting and economics, vol 39, 
pp 163-197. 
Ngày nhận bài: 13/7/2015 Biên tập xong: 15/10/2015 Duyệt đăng: 20/10/2015 

File đính kèm:

  • pdfvan_dung_mo_hinh_modified_jones_nghien_cuu_hanh_vi_dieu_chin.pdf