Vai trò và đặc điểm chức năng quản lý kinh tế của nhà nước việt nam giai đoạn hội nhập quốc tế
Tóm tắt: Chức năng quản lý kinh tế là chức năng rất quan trọng trong hệ thống
các chức năng của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bởi lẽ, đây là chức
năng có ảnh hưởng, tác động trực tiếp đến hầu hết các hoạt động của Nhà nước và đồng
thời ảnh hưởng đến rất nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế - xã hội. Bài viết
nghiên cứu về vai trò và đặc điểm của chức năng quản lý kinh tế, từ đó, đề xuất một số kiến
nghị nhằm mục đích nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng quan trọng này.
Bạn đang xem tài liệu "Vai trò và đặc điểm chức năng quản lý kinh tế của nhà nước việt nam giai đoạn hội nhập quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò và đặc điểm chức năng quản lý kinh tế của nhà nước việt nam giai đoạn hội nhập quốc tế
Tạp chí Khoa học Viện Đại học Mở Hà Nội 52 (02/2019) 37-44 37 VAI TRÒ VÀ ĐẶC ĐIỂM CHỨC NĂNG QUẢN LÝ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HỘI NHẬP QUỐC TẾ Nguyễn Vinh Hưng* * Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 3/8/2018 Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 4/2/2019 Ngày bài báo được duyệt đăng: 25/2/2019 Tóm tắt: Chức năng quản lý kinh tế là chức năng rất quan trọng trong hệ thống các chức năng của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bởi lẽ, đây là chức năng có ảnh hưởng, tác động trực tiếp đến hầu hết các hoạt động của Nhà nước và đồng thời ảnh hưởng đến rất nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế - xã hội. Bài viết nghiên cứu về vai trò và đặc điểm của chức năng quản lý kinh tế, từ đó, đề xuất một số kiến nghị nhằm mục đích nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng quan trọng này. Từ khóa: pháp luật, kinh tế, quản lý kinh tế, chức năng kinh tế, hội nhập quốc tế. 1. Đặt vấn đề Hiện nay, “nền kinh tế thế giới hiện đại ngày càng gắn kết chặt chẽ các quốc gia với nhau”.1†Hòa cùng dòng chảy của kinh tế thế giới, Việt Nam đã và đang là thành viên của các tổ chức và diễn đàn kinh tế lớn như: ASEAN, APEC, ASEM, WTO... Mặt khác, nền kinh tế thị trường của Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn hình thành và phát triển, nên vì thế luôn đòi hỏi sự điều chỉnh kịp thời, linh hoạt từ phía Nhà nước. Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy, khác với thời kỳ kinh tế tập trung chỉ huy trước đây, vai trò và đặc * Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội 1 Phạm Quang Vinh (2011), Giáo trình Kinh tế học Vĩ mô, Đại học kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 135. điểm của chức năng quản lý kinh tế (QLKT) trong giai đoạn hội nhập quốc tế đã có sự thay đổi rất lớn. Từ đó, bài viết nghiên cứu về vai trò và đặc điểm của chức năng QLKT trong giai đoạn hội nhập quốc tế nhằm đề xuất một số kiến nghị để chức năng QLKT phù hợp hơn với yêu cầu và hoàn cảnh hiện nay. 2. Vai trò của chức năng quản lý kinh tế Vai trò của chức năng QLKT thể hiện ở các nội dung quan trọng như: “giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát huy mọi tiềm năng và 38 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion nguồn lực, xây dựng kết cấu hạ tầng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh, hình thành đồng bộ và hoàn thiện các loại thị trường và thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với đặc điểm của Việt Nam”.2*Tuy nhiên, khác với thời kỳ trước đây, hiện nay, do chịu tác động từ hội nhập kinh tế quốc tế nên vai trò của chức năng QLKT đã mở rộng thêm các nội dung: “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng kinh tế đối ngoại gắn với nâng cao khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế”.3†Đây là sự đổi mới, sáng tạo trong tư duy làm kinh tế và QLKT của Việt Nam và điều này mang lại rất nhiều cơ hội và thuận lợi cho nền kinh tế. Có thể khẳng định, chức năng QLKT “là chức năng có tầm quan trọng đặc biệt của Nhà nước”.4‡Sở dĩ như vậy là vì chức năng QLKT trực tiếp tác động, ảnh hưởng đến hầu hết các chủ thể trong xã hội và cả Nhà nước. Đối với người dân, kinh tế là vấn đề quan trọng và luôn là mục tiêu phấn đầu, sự mong muốn của mỗi người. Với các doanh nghiệp, hầu hết các loại hình doanh nghiệp đều hoạt động với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận. Còn đối với Nhà nước, việc điều tiết thu chi, quản 2 Nguyễn Văn Động (chủ biên 2010), Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Nhà xuất bản tư pháp, tr. 115. 3 Nguyễn Văn Động (chủ biên 2010), Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, sđd, tr. 116. 4 Nguyễn Minh Đoan (2010), Giáo trình lý luận về nhà nước và pháp luật, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, tr. 181. lý và sử dụng nguồn quỹ ngân sách nhà nước suy cho cùng đều liên quan đến các hoạt động kinh tế. Vì vậy, việc Nhà nước tác động, can thiệp đến chức năng QLKT cũng đồng nghĩa đã ảnh hưởng đến hầu hết các hoạt động kinh tế của mọi chủ thể trong xã hội. Hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, không quốc gia nào có thể phát triển mà không cần có sự hợp tác, giao lưu về kinh tế với các quốc gia khác. Để nền kinh tế tăng trưởng và phát triển ổn định, bền vững thì Nhà nước phải sử dụng chức năng QLKT để định hướng, điều tiết nền kinh tế. Cụ thể, Nhà nước sẽ “thông qua các công cụ, đường lối chiến lược, các chính sách, phương pháp, tạo điều kiện, môi trường lành mạnh cho các chủ thể, thành phần kinh tế phát triển”.5§Từ đó cho thấy, chức năng QLKT giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ, “kết quả thực hiện chức năng QLKT của Nhà nước tác động một cách trực tiếp tới tất cả các mặt của đời sống xã hội”.6** 3. Đặc điểm chức năng quản lý kinh tế Thứ nhất, chức năng QLKT trong giai đoạn hội nhập quốc tế do cả bộ máy 5 Phan Huy Đường (2012), Quản lý nhà nước về kinh tế, Đại học Kinh tế - ĐHQGHN, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 17. 6 Nguyễn Minh Đoan (2014), Hướng dẫn môn học Lý luận nhà nước và pháp luật, Nhà xuất bản tư pháp, tr. 93. Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 39 nhà nước thực hiện trên cơ sở sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước từ trung ương xuống địa phương: về cơ bản, quá trình xây dựng các chính sách về QLKT được tiến hành từ việc Quốc hội ban hành Hiến pháp, luật và các nghị quyết liên quan đến kinh tế. Đồng thời, Quốc hội quyết định những vấn đề quan trọng nhất về kinh tế và cũng chính Quốc hội sẽ thực hành quyền giám sát tối cao các hoạt động của Nhà nước và các chủ thể trong xã hội. Còn tại địa phương, Hội đồng nhân dân các cấp sẽ thực hiện nhiệm vụ ban hành các Nghị quyết về QLKT tại địa phương và đồng thời sẽ giám sát việc thực hiện của các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi công dân liên quan đến hoạt động kinh tế ở địa phương mình. Ngoài ra, các cơ quan như Chính phủ, Bộ Tài Chính, Bộ Công thương, Ngân hàng nhà nước hay Ủy ban nhân dân các cấp đều là những cơ quan quản lý hành chính đối với lĩnh vực kinh tế. Đối với các cơ quan tư pháp như Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, trong phạm vi và quyền hạn, các cơ quan này cũng góp phần quan trọng vào việc kiểm tra và xét xử các vi phạm liên quan đến việc các chủ thể chịu trách nhiệm tổ chức, thực hiện chức năng QLKT. 7 Nguyễn Vinh Hưng (2015), Thực hiện chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước Việt Nam, Thứ hai, chức năng QLKT trong giai đoạn hội nhập quốc tế có nội dung do pháp luật quy định: Chức năng QLKT là những hoạt động của Nhà nước liên quan đến việc tổ chức và quản lý nền kinh tế. Như vậy, xét về bản chất, chức năng QLKT cũng giống như các chức năng quản lý khác của nhà nước và vì thế, nội dung của chức năng QLKT phải do pháp luật quy định và điều chỉnh. Nghiên cứu cho thấy, “nội dung của pháp luật về tổ chức và QLKT gồm hai bộ phận là pháp luật nội dung và pháp luật hình thức”.7* Cụ thể, pháp luật nội dung sẽ quy định các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể hoạt động kinh tế. Còn pháp luật hình thức lại quy định về trình tự, thủ tục để các chủ thể tham gia có thể thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ. So với các giai đoạn trước đây, hệ thống pháp luật liên quan đến QLKT hiện nay khá đa dạng, phong phú và thường xuyên có sự điều chỉnh. Ngoài ra, việc mở cửa thị trường để các nhà đầu tư từ khắp nơi trên thế giới đến làm ăn, kinh doanh tại Việt Nam cũng góp phần làm cho hệ thống pháp luật Đầu tư, luật Doanh nghiệp, luật Thương mại phải thường xuyên có sự điều chỉnh để đáp ứng, phù hợp với tình hình. Thứ ba, chức năng QLKT trong giai đoạn hội nhập quốc tế có mục tiêu cụ thể là điều tiết mọi hoạt động kinh tế theo pháp luật nhằm đạt được những Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN, tr. 12. 40 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion mục tiêu tổng quát của kinh tế: Về mục tiêu của quản lý nhà nước đối với nền kinh tế được phân chia thành: mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể. Theo đó, mục tiêu tổng quát được xác định căn cứ vào các tiêu chí chung của nền kinh tế Việt Nam. Mục tiêu cụ thể được xác định căn cứ vào mục tiêu chung của quản lý nhà nước đối với nền kinh tế là xây dựng, phát triển nền kinh tế tiên tiến, hiện đại, giàu mạnh và hội nhập kinh tế quốc tế. Thứ tư, chức năng QLKT trong giai đoạn hội nhập quốc tế được tiến hành theo những nguyên tắc do pháp luật quy định: Hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, được tiến hành bởi tất cả các cơ quan nhà nước từ trung ương xuống địa phương dựa trên các nguyên tắc chính trị - xã hội và các nguyên tắc tổ chức - kỹ thuật. Trong đó, các nguyên tắc chính trị gồm: Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong QLKT, bảo đảm sự bình đẳng giữa các dân tộc trong QLKT, tập trung dân chủ.8*Các nguyên tắc tổ chức - kỹ thuật gồm: “kết hợp quản lý theo ngành, chức năng với quản lý theo địa phương; quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo chức năng và phối hợp quản lý liên ngành”.9† Thứ năm, chức năng QLKT trong giai đoạn hội nhập quốc tế tiếp nối chức 8 Điều 4, Điều 5 và Điều 6 của Hiến pháp năm 2013. 9 Nguyễn Vinh Hưng (2011), Chức năng văn hóa - giáo dục của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, Luận văn năng QLKT của Nhà nước Việt Nam từ các giai đoạn phát triển trước đây: Từ khi ra đời (năm 1945), Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã đảm nhiệm chức năng QLKT và kéo dài cho tới năm 1976, khi Quốc hội chung của cả nước họp quyết định đổi tên nước và chức năng QLKT chính thức được chuyển thành chức năng QLKT của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Trong suốt giai đoạn này và kéo dài cho đến trước Đại hội Đảng VI (12/1986), chức năng QLKT được Nhà nước định hướng phát triển kinh tế tập trung chỉ huy (kinh tế quan liêu bao cấp). Kể từ Đại hội Đảng VI, nhận thức được các khó khăn của nền kinh tế và trước xu thế phát triển mới, Đảng và Nhà nước chủ trương thay đổi cơ chế QLKT từ kinh tế tập trung chỉ huy sang thành kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sau này, tổng kết sau 30 năm đổi mới đã chứng minh cho sự thay đổi đúng đắn và hợp lý của Đảng, Nhà nước: “trong hơn 30 năm qua (1986 - 2017), tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta, tuy có sự dao động nhất định, song vẫn ở mức cao hơn trung bình khu vực và thế giới với mức tăng bình quân cả thời kỳ gần 7%/năm. Nếu như giai đoạn 1986 - 1990, tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta chỉ đạt 4,4%/năm, thì đến năm 2016 là 6,21% và năm 2017 là 6,81%”.10‡ thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 11. 10 Báo điện tử Tạp chí công thương (2019), Thành tựu hơn 30 năm đổi mới tư duy kinh tế của Đảng về xây dựng nền kinh tế thị Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 41 Những năm gần đây, cùng với việc Việt Nam ra nhập hàng loạt sân chơi kinh tế lớn của khu vực và thế giới, chức năng QLKT hiện nay vẫn đang từng bước được điều chỉnh đề phù hợp với yêu cầu, hoàn cảnh và tình hình mới. Tuy nhiên, có thể thấy rằng, chức năng QLKT hiện nay vẫn đang được kế thừa và phát triển từ những nền tảng ban đầu. Đồng thời với đó, hiện nay, Nhà nước đã có một hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh về QLKT và vẫn không ngừng hoàn thiện, bổ sung bằng những quy định mới, để phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế. Thứ sáu, chức năng quản lý kinh tế trong giai đoạn hội nhập quốc tế có đối tượng tác động là các quan hệ kinh tế cơ bản và quan trọng nhất liên quan tới kinh tế: Những lĩnh vực quan hệ kinh tế chủ yếu mà Nhà nước tác động thông qua việc thực hiện chức năng QLKT rất đa dạng, phong phú và phức tạp. Tuy nhiên, trước sức ép từ hội nhập kinh tế quốc tế thì các lĩnh vực kinh tế trọng yếu như ngoại thương, xuất nhập khẩu, đầu tư, tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bất động sản được quan tâm, chú ý hơn cả. Thứ bảy, chức năng quản lý kinh tế trong giai đoạn hội nhập quốc tế được thực hiện dưới những hình thức và bằng các phương pháp nhất định: Hình trường, nguồn truy cập: tuu-hon-30-nam-doi-moi-tu-duy-kinh-te- thức thực hiện chức năng QLKT là biểu hiện bên ngoài hoạt động của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế. Thông thường, Nhà nước thực hiện chức năng QLKT dưới các hình thức pháp lý và các hình thức không mang tính pháp lý. Các hình thức pháp lý được pháp luật quy định cụ thể về nội dung, thủ tục, trình tự tiến hành (ví dụ: các hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) về lĩnh vực kinh tế, ban hành văn bản áp dụng QPPL về kinh tế, kiểm tra và giám sát việc thực hiện pháp luật về kinh tế, văn bản áp dụng QPPL về kinh tế). Về các hình thức không mang tính pháp lý, pháp luật quy định thủ tục, trình tự chung để tiến hành như thủ tục, trình tự tiến hành hội nghị tổng kết công tác QLKT, hội nghị, hội thảo khoa học về quản lý nhà nước đối với lĩnh vực kinh tế, hội nghị phổ biến kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với lĩnh vực kinh tế Phương pháp quản lý nhà nước đối với lĩnh vực kinh tế được hiểu là cách thức tác động của chủ thể QLKT tới đối tượng QLKT nhằm đạt được mục tiêu. Ở cấp độ chung, có các phương pháp thuyết phục, cưỡng chế, hành chính và kinh tế. Ở cấp độ cụ thể, phương pháp quản lý nhà nước đối với kinh tế là cách thức mà các cơ quan quản lý nhà nước đối với kinh tế sử dụng trong khi thực hiện những nhiệm cua-dang-ve-xay-dung-nen-kinh-te-thi- truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia- 58999.htm , ngày 01/3/2019. 42 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion vụ, chức năng cụ thể của mình, đặc biệt trong việc giải quyết những vấn đề cụ thể phát sinh trong quá trình QLKT. Theo nghĩa này, có các phương pháp cụ thể mang tính tổ chức, kỹ thuật, nghiệp vụ như phối kết hợp hoạt động giữa các cán bộ quản lý ở những vị trí khác nhau, đảm nhận các công việc khác nhau nhưng đều hướng tới thực hiện nhiệm vụ chung và nhằm đạt mục tiêu chung. Thứ tám, chức năng quản lý kinh tế trong giai đoạn hội nhập quốc tế thường xuyên biến đổi về nội dung, hình thức và phương pháp thực hiện: Cùng với xu hướng phát triển chung của thời đại và quốc tế, nền kinh tế Việt Nam luôn luôn biến đổi. Mặt khác, nhu cầu, đòi hỏi của xã hội đối với kinh tế ngày càng lớn hơn trước. Vì thế, chức năng QLKT vẫn thường xuyên đổi mới, cải tiến cả về nội dung, hình thức, phương pháp cho phù hợp. Thứ chín, chức năng quản lý kinh tế trong giai đoạn hội nhập quốc tế được thực hiện trên cơ sở đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về lĩnh vực kinh tế: Hiến pháp năm 2013 khẳng định Đảng “là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.11*Vì vậy, các quan điểm của Đảng về lĩnh vực kinh tế là cơ sở để Nhà nước thể chế hoá thành pháp 11 Khoản 1, Điều 4 của Hiến pháp năm 2013. 12 Nguyễn Vinh Hưng (2018), Nguyên tắc, hình thức và phương pháp thực hiện chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước Việt Nam luật, tức là thành những quy tắc xử sự chung và được bảo đảm thực hiện bằng sự cưỡng chế nhà nước. Khi đã có pháp luật đòi hỏi Nhà nước phải điều chỉnh chức năng QLKT theo nội dung của pháp luật thì mới đạt được các mục tiêu của kinh tế. 4. Kiến nghị Hiện nay, “hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa đang là xu hướng phát triển tất yếu của mọi quốc gia”.12†Khi Việt Nam tham gia hội nhập quốc tế thì yếu tố hội nhập đầu tiên và chịu tác động mạnh nhất luôn là kinh tế. Vì thế, chức năng QLKT trong giai đoạn hội nhập quốc tế luôn đối mặt với các khó khăn, thách thức. Chính vì vậy, để chức năng QLKT hoạt động hiệu quả hơn thì cần thiết xem xét giải pháp sau: Việt Nam tiến hành xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trên một nền tảng hạ tầng kinh tế thiếu thốn, khó khăn vì phải trải qua các cuộc chiến tranh kéo dài. Hơn nữa, “Việt Nam xưa nay là một xứ nông nghiệp một xã hội chỉ chuyên sản xuất về nông nghiệp”.13‡ Suốt thời kỳ phong kiến, “nền kinh tế Việt Nam kéo dài trong tình trạng tự nhiên, tự cấp, tự túc. Ở đó, nông nghiệp là nền tảng kinh tế, công thương nghiệp phát triển phụ thuộc vào nông nghiệp và giai đoạn hội nhập quốc tế, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 04, tr. 3. 13 Lê Tài Triển, Nguyện Vạng Thọ, Nguyễn Tân (1972), Luật Thương mại Việt Nam dẫn giải, Nhà xuất bản Sài Gòn Kim lai ấn quán, Quyển I, tr. 3. Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 43 là hoạt động kinh tế phụ trợ cho nông nghiệp. Tầng lớp công thương chuyên nghiệp còn quá ít so với dân cư cả nước”.14*Với “hạ tầng cơ sở” là nền kinh tế phụ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông nghiệp nên “thượng tầng kiến trúc” của xã hội suốt “thời kỳ Bắc thuộc và thời kỳ các triều đại phong kiến, các tư tưởng pháp luật thống trị ở Việt Nam là tư tưởng pháp luật phong kiến, phản ánh tồn tại xã hội của xã hội phong kiến với nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, phân tán, manh mún”.15†Chính vì thế, suốt một thời gian dài, Việt Nam chỉ quan tâm phát triển nông nghiệp và xác định kinh tế nông nghiệp là lĩnh vực chủ đạo của nền kinh tế. Tuy nhiên, đến khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế thì các yếu tố của hội nhập đã tác động rất lớn đến cơ cấu, thành phần kinh tế. Cho đến nay, thực tiễn đã chứng minh, kinh tế nông nghiệp không còn phù hợp để dẫn dắt nền kinh tế phát triển. Vì thế, chúng tôi cho rằng, trước hết, cần thiết phải đổi mới tư duy làm kinh tế và QLKT. Nói cách khác, chúng ta cần phát triển các lĩnh vực kinh tế mới như kinh tế tri thức hay kinh tế số. Bởi đây là các lĩnh vực thu hút nguồn vốn tư bản mạnh mẽ và rất nhiều quốc gia có nền kinh tế tiên tiến, hiện đại đều đang áp dụng triển khai. Mặt khác, trước thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 14 Nguyễn Trí Dĩnh, Phạm Thị Quý (2007), Giáo trình lịch sử kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân, tr. 285. mang lại, việc giao lưu, buôn bán, hợp tác với các quốc gia khác ngày càng nhanh chóng, đơn giản. Vì vậy, chúng ta cần thiết có chủ trương cụ thể để khai thác, áp dụng các thành tựu của khoa học công nghệ để từng bước phát triển nền kinh tế số tại Việt Nam. Còn đối với nền kinh tế nông nghiệp truyền thống thì chỉ nên duy trì trong phạm vi tại các địa bàn, khu vực vốn có nhiều lợi thế sản xuất. Thiết nghĩ, có như vậy, chúng ta mới có thể đưa nền kinh tế Việt Nam từng bước ổn định và hội nhập quốc tế./. Tài liệu tham khảo: 1. Báo điện tử Tạp chí công thương (2019), Thành tựu hơn 30 năm đổi mới tư duy kinh tế của Đảng về xây dựng nền kinh tế thị trường, nguồn truy cập: tuu-hon-30-nam-doi-moi-tu-duy-kinh-te- cua-dang-ve-xay-dung-nen-kinh-te-thi- truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia- 58999.htm , ngày 01/3/2019. 2. Nguyễn Trí Dĩnh và Phạm Thị Quý (2007), Giáo trình lịch sử kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân. 3. Nguyễn Văn Động chủ biên (2010), Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb Tư pháp. 4. Nguyễn Minh Đoan (2010), Giáo trình lý luận về nhà nước và pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia. 15 Nguyễn Minh Đoan (2011), Ý thức pháp luật, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tr. 52 - 53. 44 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 5. Nguyễn Minh Đoan (2011), Ý thức pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia. 6. Nguyễn Minh Đoan (2014), Hướng dẫn môn học Lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb Tư pháp. 7. Phan Huy Đường (2012), Quản lý nhà nước về kinh tế, Đại học Kinh tế - ĐHQGHN, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 8. Nguyễn Vinh Hưng (2011), Chức năng văn hóa - giáo dục của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. 9. Nguyễn Vinh Hưng (2015), Thực hiện chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN. 10. Nguyễn Vinh Hưng (2018), Nguyên tắc, hình thức và phương pháp thực hiện chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước Việt Nam giai đoạn hội nhập quốc tế, Dân chủ và pháp luật, số 04. 11. Quốc hội, Hiến pháp năm 2013. 12. Lê Tài Triển, Nguyện Vạng Thọ và Nguyễn Tân (1972), Luật Thương mại Việt Nam dẫn giải, Nxb Sài Gòn Kim lai ấn quán, Quyển I 13. Phạm Quang Vinh (2011), Giáo trình Kinh tế học Vĩ mô, Đại học kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội. Địa chỉ tác giả: Khoa Luật - Đại học Quốc Gia Hà Nội Email: nguyenvinhhung85@gmail.com
File đính kèm:
- vai_tro_va_dac_diem_chuc_nang_quan_ly_kinh_te_cua_nha_nuoc_v.pdf