Vai trò của vách rừng đối với khả năng phục hồi rừng ở khu vực sau canh tác nương rẫy tại khu bảo tồn loài và sinh cảnh vượn Cao Vít, Trùng Khánh, Cao Bằng

TÓM TẮT

Nghiên cứu đã chỉ ra rằng các loài cây tái sinh hạt trong hai ô tiêu chuẩn nghiên cứu trên diện tích

đất rừng sau nương bãi tại lũng Đảy thuộc vùng lõi khu bảo tồn đều có nguồn gốc tại vách rừng

xung quanh khu vực đó. Nhìn chung loài cây tại vách rừng phong phú, trong đó chủ yếu là các loài

ưu sáng mọc nhanh. Loài cây tái sinh hạt được đánh giá là phát tán nhờ gió và nhờ chim thú ăn

mang đi; 2 loài có số lượng cây tái sinh nhiều nhất là cây Thích Bắc bộ (Acer tonkinensis) và

Dướng (Broussonetia papyrifera), Khả năng tự gieo giống của các loài cây tự nhiên trong khu vực

lũng Đảy là rất cao và có đầy đủ tiềm năng để đáp ứng cho nhu cầu phục hồi rừng tại chỗ. Tuy

nhiên hiện nay do khu vực bỏ hóa sau nương rẫy này ưu thế là cỏ tranh và cỏ lông vì vậy đây cũng

có thể là một hạn chế ảnh hưởng đến khả năng tái sinh hạt của các loài cây trong khu vực.

Từ khóa: Tái sinh, vách rừng, phục hồi rừng, khu bảo tồn, gieo giống

pdf 6 trang phuongnguyen 1340
Bạn đang xem tài liệu "Vai trò của vách rừng đối với khả năng phục hồi rừng ở khu vực sau canh tác nương rẫy tại khu bảo tồn loài và sinh cảnh vượn Cao Vít, Trùng Khánh, Cao Bằng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò của vách rừng đối với khả năng phục hồi rừng ở khu vực sau canh tác nương rẫy tại khu bảo tồn loài và sinh cảnh vượn Cao Vít, Trùng Khánh, Cao Bằng

Vai trò của vách rừng đối với khả năng phục hồi rừng ở khu vực sau canh tác nương rẫy tại khu bảo tồn loài và sinh cảnh vượn Cao Vít, Trùng Khánh, Cao Bằng
Trần Quốc Hưng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 108(08): 35 - 40 
35 
VAI TRÒ CỦA VÁCH RỪNG ĐỐI VỚI KHẢ NĂNG PHỤC HỒI RỪNG 
Ở KHU VỰC SAU CANH TÁC NƯƠNG RẪY TẠI KHU BẢO TỒN LOÀI 
VÀ SINH CẢNH VƯỢN CAO VÍT, TRÙNG KHÁNH, CAO BẰNG 
Trần Quốc Hưng 
Trường Đại học Nông Lâm – ĐH Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng các loài cây tái sinh hạt trong hai ô tiêu chuẩn nghiên cứu trên diện tích 
đất rừng sau nương bãi tại lũng Đảy thuộc vùng lõi khu bảo tồn đều có nguồn gốc tại vách rừng 
xung quanh khu vực đó. Nhìn chung loài cây tại vách rừng phong phú, trong đó chủ yếu là các loài 
ưu sáng mọc nhanh. Loài cây tái sinh hạt được đánh giá là phát tán nhờ gió và nhờ chim thú ăn 
mang đi; 2 loài có số lượng cây tái sinh nhiều nhất là cây Thích Bắc bộ (Acer tonkinensis) và 
Dướng (Broussonetia papyrifera), Khả năng tự gieo giống của các loài cây tự nhiên trong khu vực 
lũng Đảy là rất cao và có đầy đủ tiềm năng để đáp ứng cho nhu cầu phục hồi rừng tại chỗ. Tuy 
nhiên hiện nay do khu vực bỏ hóa sau nương rẫy này ưu thế là cỏ tranh và cỏ lông vì vậy đây cũng 
có thể là một hạn chế ảnh hưởng đến khả năng tái sinh hạt của các loài cây trong khu vực. 
Từ khóa: Tái sinh, vách rừng, phục hồi rừng, khu bảo tồn, gieo giống 
MỞ ĐẦU* 
Tái sinh rừng là một quá trình sinh học mang 
đặc thù của hệ sinh thái rừng [3]. Đó là sự 
xuất hiện thế hệ những cây con của những 
loài cây gỗ ở những nơi còn hoàn cảnh rừng 
như dưới tán rừng, khoảng trống trong rừng, 
trên đất rừng sau khi khai thác hoặc sau khi 
làm nương rẫy các cây con sẽ thay thế các cây 
già cỗi. Theo nghĩa hẹp, tái sinh rừng là quá 
trình phục hồi lại thành phần cơ bản của rừng, 
chủ yếu là tầng cây gỗ và có vai trò quan 
trọng đối với sự phát triển của rừng trong 
tương lai, đảm bảo cho nguồn tài nguyên rừng 
có khả năng tái sản xuất mở rộng [4]. 
Khu bảo tồn loài và sinh cảnh Vượn Cao Vít 
huyện Trùng Khánh tỉnh Cao Bằng từ năm 
2002 đến nay đã thực hiện các hoạt động bảo 
tồn hướng tới sự ổn định và bảo vệ loài vượn 
này bằng cách tập trung giảm các tác động 
của các mối đe dọa chính đến sự suy thoái 
môi trường sống [1]. Duy trì và phục hồi hệ 
sinh thái rừng nhằm đảm bảo nguồn thức ăn 
cũng như nơi cư trú là nhiệm vụ được đặt lên 
hàng đầu. Các nghiên cứu về tái sinh và phục 
hồi rừng trên núi đá vôi tại khu vực hiện nay 
còn ít (Các quy luật tái sinh, sinh trưởng, 
*
 Tel: 0912 450 173; Email: hunglanduong@yahoo.de 
những nhân tố ảnh hưởng tới tái sinh...) [2]. 
Vì vậy để bảo tồn được sinh cảnh của loài 
Vượn quý hiếm trên, cần nghiên cứu tái sinh, 
thành phần các loài thực vật và tác động của 
hoàn cảnh sống tới tái sinh, sinh trưởng của 
thực vật nhằm khôi phục, phát triển hệ sinh 
thái rừng tại khu vực nhất là đối với các diện 
tích rừng trước đây đã bị khai phá làm nương 
bãi, để làm cơ sở cho công tác bảo tồn có ý 
nghĩa lớn này. 
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 
Đánh giá vai trò của vách rừng đối với khả 
năng phục hồi rừng khu vực sau canh tác 
nương rẫy tại khu bảo tồn loài và sinh cảnh 
vượn Cao Vít thông qua khả năng gieo giống 
và hình thức gieo giống của vách rừng từ đó 
làm cơ sở khoa học cho việc đề xuất giải pháp 
lâm sinh thúc đẩy nhanh quá trình diễn thế và 
nâng cao chất lượng của rừng phục hồi. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng và địa điểm nghiên cứu 
Là các vách rừng xung quanh khu vực phục 
hồi sau canh tác tại lũng Đảy thuộc vùng lõi 
của khu bảo tồn. Đây là khu vực với diện tích 
hơn 3ha được sử dụng canh tác nương rẫy rất 
mạnh trước đây, tuy nhiên từ khi thành lập 
khu bảo tồn (2007) đến nay việc tác động đốt 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 
Trần Quốc Hưng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 108(08): 35 - 40 
36 
nương làm rẫy trong những lũng này đã hạn 
chế tiến tới xóa bỏ tuy nhiên có thể nhận thấy 
khả năng phục hồi rừng còn khá chậm. 
Cách tiến hành đo đếm vách rừng và thu 
thập số liệu 
Nghiên cứu được tiến hành tại 5 địa điểm 
vách rừng tại khu vực lũng Đảy, đó là những 
khu vực xung quanh 2 ô tiêu chuẩn (OTC) lập 
để nghiên cứu tái sinh phục hồi sau canh tác; 
trong đó OTC 1 là khu vực nương rẫy đã bỏ 
hóa 3 năm, OTC 2 khu vực nương rẫy đã bỏ 
hóa 5 năm. 
(1). Vách rừng 1 bên phải OTC số 1; (2). 
Vách rừng 2 trên đỉnh OTC 1 
(3). Vách rừng 3 Phía trên bên phải OTC số 2 
và phía trên bên trái OTC 1; (4). Vách rừng 4 
Phía trên bên trái OTC số 2; (5). Vách rừng 5 
phía dưới bên trái OTC 2 
- Xác định khoảng cách từ OTC tới các khu 
vực đo đếm. Lập tuyến đo đếm. 
- Đo những cây có D1.3 từ 20cm trở lên, vì 
đây là các cây đã có khả năng ra hoa quả. Xác 
định tên loài cây gồm tên Việt Nam, tên địa 
phương. Đo khoảng cách trung bình từ vách 
rừng tới vị trí OTC nghiên cứu tái sinh gần 
nhất. Đo tọa độ, đai cao bằng GPS 60CSx. 
Xác định tổ thành loài trong các vách rừng 
Tổ thành loài cây trong nghiên cứu vách rừng 
được tính theo từng địa điểm vách rừng riêng 
và theo hệ số tổ thành loài đơn giản chỉ dựa 
vào số loài cây mẹ là chính, vì đây là các cây 
quyết định nên cấu trúc rừng: 
Công thức: a =n/N x 10 
a là hệ số tổ thành của loài a 
n là số cây mẹ của loài A 
N là số tổng số cây có trong khu vực (địa 
điểm nghiên cứu vách rừng) nghiên cứu 
10 hệ số phần mười. 
Đánh giá vai trò của vách rừng tới khả 
năng phục hồi rừng 
So sánh khả năng tái sinh của các loài cây, 
tiến hành so sánh tổ thành loài cây mẹ và cây 
tái sinh hạt được điều tra trong hai OTC (theo 
nghiên cứu về đánh giá khả năng tái sinh sau 
canh tác) đã lập căn cứ trên các yếu tố chính: 
- Tổ thành cây tái sinh xuất hiện trên OTC so 
sánh với cây có trong vách rừng. 
- Tỷ lệ chất lượng tái sinh (%) 
- Đặc điểm phát tán hạt của loài cây có cây 
con tái sinh 
Trong khi so sánh chỉ sử dụng các cây tái sinh 
có nguồn gốc từ hạt để so sánh, vì các cây này 
mới liên qua tới nguồn gốc của hạt giống phát 
tán từ vách rừng. Không sử dụng các loài cây 
có nguồn gốc tái sinh từ chồi vì có thể chúng 
là các cây đã có xuất xứ tại chỗ từ lâu. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Thành phần loài cây chính (cây mẹ) trong 
vách rừng xung quanh khu vực cần đánh 
giá khả năng phục hồi rừng 
Một số đặc điểm khu vực điều tra vách rừng 
Khu vực nghiên cứu thuộc các sườn núi thấp 
có độ cao trên 700m so với mặt biển, nơi cao 
nhất có độ cao 750m, có độ dốc lớn trên 400 
và tỷ lệ đá lộ đầu rất cao trên 85%, có những 
nơi có tỷ lệ đá lộ đầu tới 92%, địa hình tương 
đối khó khăn có nhiều vách núi dựng đứng, 
khó khăn trong việc điều tra; Độ tàn che trung 
bình đạt 0,62, ở đây chủ yếu là các loài thực 
vật điển hình của núi đá vôi; các cây mẹ trong 
vách rừng điều tra đều là những cây trưởng 
thành có đường kính bình quân 24,4 cm; 
chiều cao bình quân 12,4cm, trong đó khu 
vực 1 có đường kính bình quân cao nhất 34,6 
cm và chiều cao vút ngọn cao nhất 14,3 cm. 
Khu vực 3 là nơi có độ dốc không lớn lắm 
(400), độ cao trung bình (750m), có tỷ lệ đá lộ 
đầu (82%), địa hình ít bị chia cắt, không có 
vách núi đá trong tuyến điều tra vách rừng do 
đó số loài tập trung lớn ở khu vực này. Khu 
vực 4 có số loài tập trung ít nhất 21 loài, có 
chiều cao trung bình thấp nhất, do khu vực này 
địa hình chia cắt, có vách đá dựng đứng, số 
liệu cụ thể được thể hiện tại bảng 1 và 2. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 
Trần Quốc Hưng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 108(08): 35 - 40 
37 
Bảng 1. Các yếu tố chính khu vực điều tra vách rừng 
Khu vực 
vách 
rừng 
Độ 
dốc 
(độ) 
Độ cao 
tương 
đối (m) 
Tỷ lệ đá 
lộ đầu 
(%) 
Hướng 
phơi 
Độ tàn 
che 
(1/10) 
D1.3 
(cm) 
Hvn 
(m) 
Khoảng cách 
đến OTC gần 
nhất (m) 
1 40 700 85 Đông Bắc 0.6 34.6 14.3 120 (OTC 2) 
2 45 740 92 Đông Bắc 0.6 21.6 13 166 (OTC 2) 
3 40 750 82 Đông Bắc 0.8 21.8 12.7 316 (OTC 1) 
4 40 730 80 Bắc 0.5 23.5 10.7 107 (OTC 1) 
5 45 710 85 Bắc 0.6 20.8 11 78 (OTC 1) 
TB 0.62 24.4 12.4 
Thành phần loài cây mẹ trong vách rừng xung quanh khu vực nghiên cứu 
- Thành phần các loài cây mẹ có trong các khu vực vách rừng 
Bảng 2. Thành phần các loài cây trong vách rừng khu vực nghiên cứu 
Khu vực 
vách rừng 
Tổng 
số cây 
Tổng số loài 
1 25 
16 loài (Nghiến, Dâu da xoan, Thích, Kháo vàng, Tì bà lá to, Dẻ, Thông đỏ, 
Xoan nhừ, Mạy puôn, Dướng, Rầy hoài, Côm, Trường sâng, Lăng khi, Khảo 
mi, Sếu 4 nhị) 
2 42 
13 loài (Nanh chuột, Thích, Thông, Chay, Nhãn rừng, Dẻ, Mạy puôn, Kháo 
vàng, Trường sâng, Trai lí, Sếu hôi, Thôi chanh, Dâu da xoan) 
3 83 
19 loài (Dướng, Mạy puôn, Trường sâng, Vàng anh, Thích, Thôi ba, Chay, 
Nhọc, Móc, Nhãn rừng, Sồi đá, Trai lí, Kháo, Thổ mật tù, Dương đào (TQ), 
Hu đay, Dâu da xoan, Mò lá tròn, Dẻ) 
4 21 
13 loài (Bình linh, Chay, Kháo vàng, Lá nến, Mạy puôn, Muồng quả tròn, 
Nghiến, Nhãn rừng, Sau sau, Thích, Thôi ba, Tông dù, Trai lí) 
5 28 10 loài (Lá nến, Sảng lông, Du, Nhọc, Mạy puôn, Dâu da xoan, Thích, Kháo 
vàng, Dẻ) 
Tổng 199 38 loài trên 5 khu vực 
- Công thức tổ thành loài trong vách rừng theo từng khu vực 
Công thức tổ thành loài trong vách rừng ở từng khu vực nghiên cứu được thể hiện ở bảng sau: 
Bảng 3. Công thức tổ thành vách rừng tại khu vực nghiên cứu 
Khu vực vách rừng Công thức tổ thành 
1 2 Dâu da xoan + 0.8 Sếu hôi + 0.8 Nghiến - 0.4 Xoan nhừ 5.8LK 
2 3.26 Mạy puôn + 2.79 Thích + 0.7 Trai – 0.47 Nhãn rừng 2.79LK 
3 4.1 Mạy puôn + 2.3 Dướng + 0.7 Thích - 0.4 Móc 2.5 LK 
4 2.3 Sau sau + 1.43 Thích + 0.95 Mạy puôn + 0.95 Muồng - 0.48 Tông dù - 0.48 Trai 3.33 LK 
5 2.86 Mạy puôn + 1.79 Dướng + 1.79 Thích + 0.71 Sảng lông + 0.71 Lá nến + 0.71 Dẻ - 0.36 Dâu da xoan 1.07 LK 
Qua công thức tổ thành tại 5 khu vực vách rừng cho thấy số loài cây mẹ chủ yếu gồm các loài: 
 Mạy puôn (Cephalomappa sinensis), Dâu da xoan (Spondias lakonensis), Dướng (Broussonetia 
papyrifera), Thích (Acer tonkinensis), Sếu (Celtis timorensis), Nhãn rừng (Dimocarpus fumatus 
ssp. indochinensis), Móc (Caryota bacsonensis), Sau sau (Liquidambar formosana), Nghiến 
(Excentrodendron tonkinense), Trai lí (Garcinia paucinervis), Tông dù (Toona sinensis). 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 
Trần Quốc Hưng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 108(08): 35 - 40 
38 
Bảng 4. Thành phần loài và tổ thành của cây tái sinh có nguồn gốc từ hạt tại 2 OTC 
STT Loài 
OTC1 OTC 2 
Số cây Hệ số tổ thành Số cây Hệ số tổ thành 
1 Thích - - 31 6.71 
2 Thôi chanh 1 0.067 3 0.65 
3 Lát trắng - - 5 1.08 
4 Móc 129 8.66 4 0.87 
5 Sếu - - 1 0.21 
6 Xung sao - - 1 0.21 
7 Dướng 15 1.007 1 0.21 
8 Boọc bịp 1 0.067 - - 
9 Sung lá lệch 1 0.067 - - 
10 Kháo vàng 1 0.067 - - 
11 Sóc đỏ 1 0.067 - - 
(Số liệu nghiên cứu tái sinh phục hồi sau canh tác nương rẫy tại lũng Đảy năm 2012) 
Vai trò của vách rừng tới khả năng phục 
hồi rừng sau canh tác nương rẫy 
So sánh thành phần loài cây tái sinh hạt tại 
2 OTC nghiên cứu về tái sinh phục hồi sau 
nương rẫy với các cây mẹ trong vách rừng 
Kết quả nghiên cứu tái sinh tại 2 OTC thiết 
lập trong khu vực nghiên cứu đã cho biết số 
loài cũng như công thức tổ thành của loài tái 
sinh từ hạt tại khu vực nghiên cứu đó, kết quả 
cụ thể được thể hiện tại bảng 4. 
So sánh bảng 4 với bảng 3 và 2 cho thấy tổ 
thành tái sinh có nguồn gốc từ hạt của 2 OTC 
là tương đối đồng nhất với tổ thành cây mẹ tại 
vách rừng xung quanh OTC. Trong đó Thích 
(Acer tonkinensis) và Móc (Caryota 
bacsonensis) là hai loài có hệ số tổ thành cao 
nhất, sau đó là Dướng (Broussonetia 
papyrifera), Lát trắng (Acrocarpus 
fracinioides), đây là những loài ưa sáng mọc 
nhanh, có khả năng tái sinh mạnh. Những loài 
này có mặt hầu hết ở vách rừng xung quanh 2 
OTC (khu vực nghiên cứu tái sinh phục hồi 
sau nương rẫy). 
Đánh giá khả năng phát tán hạt giống của 
một số loài chính xuất hiện tại khu vực 
nghiên cứu 
Qua nghiên cứu đặc điểm sinh thái của các 
loài cây tái sinh chính tại khu vực nghiên cứu 
có thể chia ra làm 2 nhóm quả chính. 
Cây có hạt nhẹ và có cánh để phát tán gồm 4 
loài: Thích (Acer tonkinensis), Lát trắng 
(Acrocarpus fracinioides), Xung sao 
(Boniodendron minius) và Boọc bịp 
(Radermachera boniana). Những cây này có 
hình thức phát tán chủ yếu nhờ gió, do có hạt 
nhỏ nhẹ có cánh nên có thể phát tán rộng nhất 
trong khu vực. Trong đó OTC 2 có số lượng 
cây Thích (Acer tonkinensis) khá lớn 31 cây 
điều đó phù hợp thành phần cây mẹ ở vách 
rừng xung quanh OTC 2. 
Cây có quả nhỏ không cánh gồm 7 loài: Thôi 
chanh (Euodia bodiniera), Sếu (Celtis 
tetrandra), Sóc đỏ (Clochidion rubrum), Kháo 
vàng (Machilus odoratissima), Sung lá lệch 
(Ficus cyrtophylla), Dướng (Broussonetia 
papyrifera), Móc (Caryota bacsonensis). 
Trong đó những cây có quả là nguồn thức ăn 
của các loài chim, thú trong khu vực gồm Móc 
(Caryota bacsonensis), Dướng (Broussonetia 
papyrifera), Sung lá lệch (Ficus cyrtophylla) 
và Sếu (Celtis tetrandra). Chính vì vậy nhờ 
chim, thú mà hạt của những cây này có thể 
phát tán mạnh trong khu vực này, cung cấp 
nguồn hạt giống tại chỗ. 
Trong các loài cây tái sinh tại khu vực nghiên 
cứu, Móc (Caryota bacsonensis) là cây tái 
sinh mạnh nhất vì nguồn cây mẹ có ngay tại 
OTC, loài Thích (Acer tonkinensis) là loài cây 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 
Trần Quốc Hưng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 108(08): 35 - 40 
39 
có hạt nhỏ lại có cánh nên khả năng phát tán 
giúp tái sinh mạnh, thông qua lượng cây tái 
sinh tương đối lớn chỉ sau cây Móc (Caryota 
bacsonensis). Loài Dướng (Broussonetia 
papyrifera) số lượng cây tái sinh hạt nhỏ 
nhưng lượng cây tái sinh chồi lớn. 
Một số loài cây ở các vách rừng như Dâu da 
xoan (Spondias lakonensis), Mạy puôn 
(Cephalomappa sinensis), Sau sau 
(Liquidambar formosana), là những loài có 
hệ số tổ thành cao nhưng chưa thấy xuất hiện 
cây tái sinh. Điều này có thể do những 
nguyên nhân sau: Mạy puôn (Cephalomappa 
sinensis) cây thường mọc ở nơi có tỷ lệ đá lộ 
đầu lớn; còn cây Dâu da xoan (Spondias 
lakonensis) và Sau sau (Liquidambar 
formosana), lượng hạt rơi tuy nhiều nhưng 
khả năng bị các loài thú nhỏ như chuột, sóc 
ăn hết số lượng hạt này. 
 Các cây tái sinh có nguồn gốc hạt đều là 
những cây tiên phong ưa sáng sinh trưởng 
nhanh. Nhưng chất lượng gỗ không tốt mà 
chủ yếu tạo sinh cảnh, lấp đầy khoảng trống 
sau canh tác nương rẫy của người dân tại khu 
vực nghiên cứu, đồng thời chúng cũng tạo 
nguồn thức ăn cho loài vượn Cao Vít. 
KẾT LUẬN 
Vách rừng khu vực nghiên cứu rất phong phú 
và đa dạng về loài và số lượng cây mẹ. Kết 
quả số lượng cây đã điều tra được trong 5 
khu vực vách rừng gồm 199 cây thuộc 38 
loài, trong đó chủ yếu là các loài ưu sáng mọc 
nhanh. Đây cũng là nguồn hạt giống chính 
phát tán xuống khu vực canh tác sau nương 
rẫy tại đây, góp phần tái sinh phục hồi rừng 
tại khu vực này. 
Số lượng cây tái sinh có nguồn gốc từ hạt 
đồng nhất với loài cây mẹ trong vách rừng 
xung quanh. 
Loài cây tái sinh hạt được đánh giá là phát tán 
nhờ gió và nhờ chim thú ăn mang đi. Trong số 
các loài tái sinh, 2 loài được đánh giá phát tán 
mạnh nhất là Thích (Acer tonkinensis) và 
Dướng (Broussonetia papyrifera), riêng loài 
Móc (Caryota bacsonensis) chủ yếu do nguồn 
giống ngay trên diện tích đất sau canh tác nương 
rẫy. Một số loài có tỷ lệ cao ở các vách rừng 
nhưng chưa thấy tái sinh nguyên nhân là do hạt 
của chúng có thể do bị chuột và sóc ăn khi rơi 
xuống, như Dâu da xoan (Spondias lakonensis), 
Sau sau (Liquidambar formosana) 
Khả năng tự gieo giống của các loài cây tự 
nhiên trong khu vực lũng Đảy là rất cao và có 
đầy đủ tiềm năng để đáp ứng cho nhu cầu 
phục hồi rừng. Tuy nhiên hiện nay do khu 
vực bỏ hóa sau nương rẫy này ưu thế là Cỏ 
tranh và Cỏ lông vì vậy đây cũng có thể là 
một hạn chế ảnh hưởng đến khả năng tái sinh 
hạt của các loài cây trong khu vực. Điều này 
cần xác định và chứng minh sau khi hoàn tất 
nghiên cứu về khả năng tái sinh bằng các biện 
pháp lâm sinh tại khu vực này. 
Lời cảm ơn 
Nghiên cứu này được hoàn thành với sự hỗ 
trợ về tài chính của tổ chức Arcus, tổ chức 
PRCF và Đại học Thái Nguyên. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Trần Quốc Hưng (2009). Nghiên cứu biện pháp 
phục hồi rừng tại khu vực phục hồi sinh cảnh cho 
vượn Cao Vít, Trùng Khánh Cao Bằng. Báo cáo 
cho tổ Động thực vật Quốc tế (FFI – Việt Nam), 
34 trang. 
2. Trần Quốc Hưng (2007). Bước đầu đánh giá tái 
sinh rừng tại khu vực phục hồi sinh thái của khu 
bảo tồn vượn Cao Vít, xã Ngọc Khê và Phong 
Nậm, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Báo 
cáo cho tổ Động thực vật Quốc tế (FFI – Việt 
Nam), 27 trang. 
3. Võ Đại Hải, Nguyễn Đình Quế và Phạm Ngọc 
Thường (2004). Canh tác nương rẫy và phục hồi 
rừng sau nương rẫy ở Việt Nam, Nxb Nghệ An. 
4. Nguyễn Văn Thêm (2006). Lâm sinh học, Nxb 
Nông nghiệp 2006 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 
Trần Quốc Hưng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 108(08): 35 - 40 
40 
SUMMARY 
THE EFFECT OF FOREST WALL ON THE FOREST RESTORATION 
IN THE FALLOW LAND (AFTER SHIFTING CULTIVATION) 
IN THE CAO VIT GIBBON SPECIES AND HABITAT CONSERVATION AREA, 
TRUNG KHANH, CAO BANG 
 Tran Quoc Hung* 
 College of Agriculture and Forestry – TNU 
The research has shown that the seedling species (by seed) in the two study plots on forest land 
after shifting cultivation in Day Valley of the core protected area are derived from the forest wall 
surrounding the area. In general, species of forest wall are abundant, which are mainly light 
demands fast-growing species. Seed tree regeneration evaluated is dispersed by the wind and by 
birds carrying; two species with high number of seedlings are Acer tonkinensis and Broussonetia 
papyrifera; Self natural seeding of trees in Day valley is high and has full potential to meet the 
demand for forest restoration in this area. But now due to fallow after shifting cultivation, the area 
is dominated by grass and imperata grass, so this can be a limitation affecting seed regeneration of 
tree species in the area. 
Key words: Regeneration, forest wall, forest restoration, protected areas, seeding. 
*
 Tel: 0912 450 173; Email: hunglanduong@yahoo.de 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 

File đính kèm:

  • pdfvai_tro_cua_vach_rung_doi_voi_kha_nang_phuc_hoi_rung_o_khu_v.pdf