Vai trò của tỷ giá hối đoái thực đa phương trong điều hành kinh tế vĩ mô và một số hàm ý chính sách
Tóm tắt: Trong những năm qua, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã thay
đổi linh hoạt cơ chế điều hành tỷ giá. Từ đầu năm 2016, NHNN bắt đầu chuyển sang
chính sách điều hành tỷ giá mới - tỷ giá trung tâm. Trong bối cảnh nền kinh tế Việt
Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới, thị trường tài chính tiền tệ và
tỷ giá có xu hướng ngày càng biến động và dễ tổn thương (Trần Thị Thu Hà1, 2014),
việc tham khảo các công cụ hỗ trợ tỷ giá sẽ trở nên cần thiết. Tỷ giá hối đoái thực đa
phương, hay tỷ giá hối đoái thực hiệu quả (REER), có thể cung cấp những thông tin
hữu ích trong việc phân tích, ra quyết định, đánh giá các biện pháp chính sách kinh
tế vĩ mô và các chính sách liên quan đến tỷ giá, song hiện vẫn chưa được công bố
chính thức tại Việt Nam.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò của tỷ giá hối đoái thực đa phương trong điều hành kinh tế vĩ mô và một số hàm ý chính sách
1 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 224+225- Tháng 1&2. 2021 Vai trò của tỷ giá hối đoái thực đa phương trong điều hành kinh tế vĩ mô và một số hàm ý chính sách Trần Thị Thu Hà Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế xã hội Quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư Ngày nhận: 22/12/2020 Ngày nhận bản sửa: 20/01/2021 Ngày duyệt đăng: 28/01/2021 Tóm tắt: Trong những năm qua, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã thay đổi linh hoạt cơ chế điều hành tỷ giá. Từ đầu năm 2016, NHNN bắt đầu chuyển sang chính sách điều hành tỷ giá mới - tỷ giá trung tâm. Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới, thị trường tài chính tiền tệ và tỷ giá có xu hướng ngày càng biến động và dễ tổn thương (Trần Thị Thu Hà1, 2014), việc tham khảo các công cụ hỗ trợ tỷ giá sẽ trở nên cần thiết. Tỷ giá hối đoái thực đa phương, hay tỷ giá hối đoái thực hiệu quả (REER), có thể cung cấp những thông tin hữu ích trong việc phân tích, ra quyết định, đánh giá các biện pháp chính sách kinh tế vĩ mô và các chính sách liên quan đến tỷ giá, song hiện vẫn chưa được công bố chính thức tại Việt Nam. Nghiên cứu thực hiện đánh giá thực trạng điều hành tỷ giá The role of the REER and some policy implications in Vietnam Abstract: Over the past years, the State Bank of Vietnam (SBV) has flexibly changed the exchange rate management mechanism. From the beginning of 2016, the State Bank started to shift to a new exchange rate policy- the central rate. In the context of deeply intergration into the global economy, the Vietnamese financial monetary market and the exchange rate tend to be increasingly volatile and vurnerable. A Real Effective Exchange Rate (REER) - which can provide useful information in the analysis, decision-making, evaluation of macroeconomic policies as well as measures related to the exchange rate, but has not been officially published in Vietnam. This research aimed to evaluate the current situation of exchange rate management in Vietnam, estimate the REER in the period 2000- 2019 and analyze the role of REER in macroeconomic management through empirical studies and modeling method (impact simulation by NIGEM global econometric model). The research results show that REER should be a userful tool in the administration of exchange rate policy in Vietnam. Keywords: real effective exchange rate, management, state bank Ha Thi Thu Tran Email: hatranthu2017@gmail.com The National Center for Socio-Economic Information and Forecast (NCIF), Ministry of Planning and Investment 1 Trần Thị Thu Hà (2014). “ Ứng dụng mô hình lớp VAR trong phân tích, đánh giá tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến quy mô và rủi ro của thị trường tài chính ViệtNam giai đoạn 2000-2012”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Vai trò của tỷ giá hối đoái thực hiệu quả trong điều hành kinh tế vĩ mô và một số hàm ý chính sách 2 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 224+225- Tháng 1&2. 2021 của Việt Nam, ước lượng REER trong giai đoạn 2000 - 2019 và phân tích vai trò của REER trong công tác điều hành kinh tế vĩ mô qua các nghiên cứu thực nghiệm và phương pháp mô hình hóa (mô phỏng tác động bằng mô hình kinh tế lượng toàn cầu NIGEM2). Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ giá REER là công cụ tham khảo hữu ích và khuyến nghị được sử dụng trong công tác điều hành chính sách tỷ giá của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập sâu rộng. Từ khóa: tỷ giá hối đoái thực hiệu quả, điều hành, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. 1. Giới thiệu Chính sách tỷ giá hối đoái đóng vai trò quan trọng trong điều hành kinh tế vĩ mô của một quốc gia và tỷ giá hối đoái là một trong những công cụ quan trọng nhất của quá trình này. Khi một quốc gia tham gia vào hoạt động thương mại và thực hiện các giao dịch khác với các quốc gia, đặc biệt là với nền kinh tế có độ mở cao thì việc xây dựng một chỉ số chung phản ánh giá trị chung của đồng tiền so với một giỏ tiền tệ khác - được tính dựa trên các tỷ giá song phương và tỷ trọng thương mại giữa quốc gia đó với các quốc gia khác có quan hệ thương mại - trở nên cần thiết, đó là tỷ giá hối đoái thực đa phương, hay còn gọi là tỷ giá thực hiệu quả (Real Effective Exchange Rate - REER). Trong 5 năm qua, cơ chế điều hành tỷ giá trung tâm được thực hiện ở Việt Nam đã giúp thị trường ít xáo trộn hơn, tỷ giá VND không biến động mạnh như trước, song cách tính toán tỷ giá trung tâm và tỷ trọng của từng đồng tiền trong rổ tiền tệ không được công bố; tỷ giá đôi lúc vẫn còn xa rời, chưa sát với thị trường. Trong bối cảnh hội nhập của nền kinh tế ngày càng sâu rộng hơn, việc hoán đổi tiền tệ giữa tiền Việt Nam đồng (VND) với đồng tiền của nhiều nước là một xu hướng nổi trội, việc áp dụng tỷ giá trung tâm (so sánh với một giỏ 8 đồng tiền) có thể cần được mở rộng hơn nữa để thực hiện điều hành tỷ giá chủ động, hiệu quả và phù hợp với xu thế. Tỷ giá hối đoái thực đa phương (REER) - chỉ số đo lường VND với một giỏ tiền tệ của nhiều nền kinh tế là các đối tác thương mại của Việt Nam - có thể cung cấp những thông tin hữu ích trong việc phân tích, ra quyết định, đánh giá các biện pháp chính sách kinh tế vĩ mô và các chính sách liên quan đến tỷ giá, song hiện vẫn chưa được công bố chính thức tại Việt Nam. Nghiên cứu này hướng tới việc phân tích vai trò của REER trong điều hành kinh tế vĩ mô trên hai khía cạnh: từ các nghiên cứu thực nghiệm của các nước; tính toán tỷ giá REER của Việt Nam trong giai đoạn 2000 - 2020 và thực hiện mô phỏng từ mô hình kinh tế lượng NIGEM để xem xét tác động của REER và tỷ giá song phương VND/USD đến các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô (GDP) của Việt Nam và tác động từ các biến động bên ngoài đến 2 tỷ giá này. 2. Cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên cứu 2.1. Cơ sở lý thuyết Lý thuyết về REER đã được đưa ra bởi các tổ chức tài chính quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB) hay Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh 2 Mô hình kinh tế lượng toàn cầu NIGEM được xây dựng và phát triển tại Viện Nghiên cứu kinh tế xã hội Anh (NISER) và hiện được Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế xã hội Quốc gia (NCIF), Bộ Kế hoạch và Đầu tư ở Việt Nam mua bản quyền sử dụng. TRẦN THỊ THU HÀ 3Số 224+225- Tháng 1&2. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng tế (OECD) và sau đó được công nhận và thống nhất rộng rãi bởi các công trình trong nước và trên thế giới. Cụ thể, theo IMF, về lý thuyết, tỷ giá hối đoái phản ánh mức giá tương đối giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa đa phương, hay tỷ giá hiệu quả danh nghĩa (Nominal Effective Exchange Rate - NEER) được tính dựa trên cơ sở này là tỷ giá giữa đồng nội tệ của một nước với một giỏ đồng tiền của các nước đối tác lấy quyền số là tỷ trọng thương mại hoặc thanh toán quốc tế. (1)1 Trong đó: NEER it là tỷ giá hối đoái danh nghĩa đa phương của nước i (nước chủ nhà) RX ij là tỷ giá hối đoái song phương danh nghĩa của quốc gia (khu vực) j và nước i, đo bằng giá của 1 đơn vị tiền tệ của nước (khu vực) j tính bằng số đơn vị tiền tệ của nước i2 và; w itj phản ánh tầm quan trọng tương đối của các nước khác đối với các thị trường xuất khẩu và nhập khẩu của nước i, còn được gọi là trọng số thương mại của nước đối tác (khu vực) j và nước chủ nhà i. REER được tính dựa trên NEER sau khi loại bỏ yếu tố lạm phát. Tổng quan các công trình nghiên cứu trong nước cho thấy, cho đến hết năm 2015 đã có một số nghiên cứu thực nghiệm tính toán các chỉ số này theo công thức từ các tổ chức quốc tế. Nguyen Thi Thu Hang (2011) tính toán hai chỉ số này theo năm cho giai đoạn 2000- 2010 theo 10 đối tác thương mại 1 Ray Barrell, Amanda Choy, Dawn Holland and Rebecca Rile, 1/2005. The Sterling Effective Exchange Rate and other Measures of UN Competitiveness. National Institute Economic Review No.19 January. 2 Để tránh nhầm lẫn trong diễn giải kết quả nghiên cứu, tác giả thay đổi quy định theo cách hiểu thông thường của Việt Nam. Trong phần diễn giải gốc của Ray Barrell và cộng sự (2005) thì RXij là tỷ giá hối đoái song phương của quốc gia (khu vực) j và nước i, đo bằng giá của 1 đơn vị tiền tệ của nước i tính bằng số đơn vị tiền tệ của nước (khu vực) j). Như vậy, khi tăng (giảm) được xem là phá giá (tăng giá) đồng nội tệ. chính của Việt Nam; Nguyễn Trần Phúc và Nguyễn Đức Thọ (2009) tính toán 2 chỉ số này cả theo số liệu năm giai đoạn 1992-2007 và số liệu tháng giai đoạn tháng 1/1995 đến tháng 12/2007 với giỏ tiền tệ của 25 đối tác thương mại chính của Việt Nam với quyền số là tỷ trọng thương mại theo năm cho cả hai chuỗi số liệu năm và tháng. Các nghiên cứu trong nước cũng đã sử dụng tỷ trọng thương mại để tính trọng số đồng tiền, như nghiên cứu của Vũ Quốc Huy, Nguyễn Thị Thu Hằng, Vũ Phạm Hải Đăng (2012) trong khuôn khổ tài trợ của Uỷ ban Kinh tế Quốc hội (UBKTQH) và Tổ chức UNDP (UBKTQH và UNDP, 2012), đã sử dụng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu (KNXNK) hàng hóa của Việt Nam với 20 nước đối tác khác nhau. Tuy nhiên, có thể do hạn chế về số liệu và tần suất số liệu trong các nghiên cứu hiện có, sự lựa chọn mô hình và biến số, kết quả từ một số nghiên cứu hiện có cho thấy những đánh giá chưa thực sự thuyết phục. Chẳng hạn kết quả từ nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Hằng (2011) và UBKTQH và UNDP (2012) đã kết luận đến cuối năm 2010, REER của Việt Nam vẫn cao hơn so với năm 2003 đến hơn 20%. Các nghiên cứu đã thực hiện cả việc ứng dụng REER ước lượng tỷ giá cân bằng và sai lệch tỷ giá, đánh giá một số tác động của REER tới nhân tố xuất khẩu như UBKTQH và UNDP (2012), nhưng chưa nghiên cứu nào trong nước đánh giá và xem xét đến vai trò của REER trong công tác điều hành tỷ giá của Việt Nam. 2.2. Các nghiên cứu thực nghiệm về vai trò của tỷ giá thực đa phương trong điều hành tỷ giá Tổng quan các nghiên cứu thực nghiệm về vai trò của REER đối với nền kinh tế vĩ mô đã cho thấy, không giống như tỷ giá hối đoái chung, việc xây dựng REER là công cụ rất Vai trò của tỷ giá hối đoái thực hiệu quả trong điều hành kinh tế vĩ mô và một số hàm ý chính sách 4 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 224+225- Tháng 1&2. 2021 hữu ích cho việc phân tích chính sách và tình hình kinh tế vĩ mô của một nước, trong đó có cả chính sách tỷ giá. REER được định giá cao hơn giá trị thực kéo dài sẽ tác động xấu đến/phản ánh điều kiện kinh tế vĩ mô không ổn định trong các nước khiến các nước này bị tổn thương và tích tụ có thể dẫn đến cuộc khủng hoảng tiền tệ. Ngược lại, việc định giá thấp hơn giá trị thực có thể dẫn đến tăng trưởng nền kinh tế nóng, gây áp lực đối với giá cả trong nước và phân bổ không hiệu quả nguồn lực giữa các lĩnh vực mậu dịch và phi mậu dịch (Jongwanich, 2009, pp. 9). Nhiều ngân hàng trung ương (NHTW) của các nước đang phát triển châu Á đã ứng dụng REER để ước lượng tỷ giá cân bằng hành vi (BEER) và mức sai lệch tỷ giá dựa trên việc đo lường các biến số ảnh hưởng đến REER trong ngắn và dài hạn. Chẳng hạn tại NHTW Trung Quốc, nghiên cứu về BEER đã được tham khảo ứng dụng vào trong công tác điều hành tỷ giá. Theo đó, 5 biến cơ bản thường được sử dụng trong mô hình đánh giá BEER là tài sản nước ngoài ròng (NFA), chênh lệch năng lực sản xuất (PROD), chi tiêu chính phủ, độ mở của các chính sách thương mại (OPEN) và giá tương đối xuất nhập khẩu (TOT) nhằm ước lượng tỷ giá hối đoái cân bằng. Các biến khác như giá tài sản, chênh lệch sản lượng có thể được đưa vào ở một số nước tuỳ thuộc vào tầm quan trọng của các biến này trong việc xác định tỷ giá thực. Tại Hồng Kông, Trung Quốc, Zhang (2002) đã ước lượng BEER dựa vào REER trong giai đoạn 1984- 1988 bằng bốn đặc tính cơ bản của nền kinh tế, bao gồm: TOT, chênh lệch về nguồn lực (xuất, nhập khẩu/GDP), đầu tư tư nhân và độ mở thương mại. Giai đoạn từ quý 3/1993 đến quý 2/1995, REER được đánh giá cao so với giá trị thực và mức chênh lệch cao nhất là 20% vào quý 1/1994. 6 tháng cuối năm 1995, đồng tiền có xu hướng điều chỉnh về lại mức cân bằng. Cheng và Orden (2005) áp dụng phương pháp tiếp cận BEER ở Ấn Độ trong giai đoạn 1975 - 2002, nhận thấy rằng REER có xu hướng cao hơn giá trị thực tầm 10% vào những năm 1980 - 1990. Tuy nhiên, sau khủng hoảng 1991, REER đã dịch chuyển gần hơn đến giá trị cân bằng. Ở Indonexia, Sahminan (2005) ước lượng tỷ giá cân bằng từ quý 1/1993 đến quý 2/2005, sử dụng 4 biến số kinh tế cơ bản là TOT, PROD, chênh lệch lãi suất thực và NFA. Chênh lệch với giá trị thực luôn cao hơn 40% trong suốt những năm 1996 - 1997, còn giai đoạn 1998 - 2003 thì ngược lại. Năm 2004, REER bắt đầu định giá cao hơn rất nhiều. Singapore đã sử dụng phương pháp tiếp cận BEER trong công tác điều hành tỷ giá dựa trên nghiên cứu thực nghiệm của MacDonald (2000). Nghiên cứu này đã thực hiện việc đánh giá REER và ước lượng tỷ giá cân bằng của Singapore trong giai đoạn từ quý 1/1983 đến quý 2/2003. Ngoài 5 biến cơ bản thường được sử dụng trong mô hình đánh giá BEER là NFA, PROD, chi tiêu chính phủ, độ mở của các chính sách thương mại và TOT thì nghiên cứu này đưa thêm biến chênh lệch sản lượng và giá tài sản vào mô hình. Kết quả cho thấy, xét về tổng thể, REER ở Singapore có xu hướng biểu thị giá trị thấp hơn so với giá trị thực giai đoạn sau năm 1998 nhưng không có quan sát nào về mức độ chênh lệch được tìm thấy. Tại Thái Lan, Jongwanich (2009) áp dụng cách tiếp cận BEER để xác định tỷ giá cân bằng từ 1997 đến 2000. Biến số kinh tế dòng vốn vào (phân tách thành danh mục đầu tư và FDI) cùng với các biến số kinh tế cơ bản đã được sử dụng trong mô hình. Nghiên cứu đã chỉ ra trong suốt giai đoạn 1984- 1985 và 1990- 1996, REER định giá cao hơn giá trị thực. Trước khi xảy ra khủng hoảng tiền tệ, năm 1996, REER được quan sát cao hơn giá trị thực là 12%. TRẦN THỊ THU HÀ 5Số 224+225- Tháng 1&2. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Ngoài ra, Chinn (2005) đã chỉ ra nhiều trường hợp trong đó REER có thể được sử dụng cho nhiều vấn đề khác nhau trong các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô. Cụ thể, tác giả đã chỉ ra rằng những chỉ số này có thể được sử dụng làm: (i) một nhân tố quyết định xem khủng hoảng tiền tệ có xảy ra hay không như trong trường hợp khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997; (ii) một biến phụ thuộc phản ánh sự thay đổi trong năng suất lao động (Hsieh, 1982; De Gregorio và Worf, 1994; Chinn, 2000); (iii) một biến độc lập giải thích thâm hụt thương mại của một nước (trường hợp thâm hụt thương mại của Mỹ); và (iv) một chỉ số xác định khả năng phá giá cạnh tranh giữa các đồng tiền (trường hợp khu vực các nước thuộc Thái Bình Dương, Chinn, 2005). Trong khi đó, Soutar và Santoya (2011) khẳng định REER là một nhân tố quan trọng trong việc đo lường năng lực cạnh tranh toàn cầu của một quốc g ... u số liệu về NEER và REER ở Việt Nam, cũng như những hạn chế về phạm vi và tần suất số liệu sử dụng để tính NEER và REER trong các nghiên cứu hiện có, tác giả sẽ khắc phục những hạn chế trên bằng cách tính lại các chỉ số này số liệu có tần suất cao hơn và/hoặc phạm vi rộng hơn. Về phạm vi các nước được sử dụng: Khi xem xét các đối tác thương mại đưa vào để xác định tỷ trọng thương mại, tổng thương mại của các đối tác càng lớn thì càng phản ánh chính xác REER. Tác giả đã lựa chọn tỷ giá song phương với 32 đồng tiền của 50 đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam (trong đó có 19 đối tác sử dụng đồng tiền chung Châu Âu, đồng EUR và Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapo, Đài Loan, Thái Lan, Malaixia, Úc, Hồng Công, Indonexia, Ấn Độ, Anh, Campuchia, Philipin, Nga, Tiểu vương quốc Ả rập, Thụy Sỹ, Canađa, Braxin, Achentina, Ả rập Xê út, Thổ Nhĩ Kỳ, Châu Phi, Thụy Điển, Lào, Mêxico, Niu Di lân, Israel, Đan Mạch, Chi lê). Tỷ trọng thương mại của nhóm đối tác này hàng năm đều chiếm trên 98% tổng giá trị thương mại của Việt Nam với các nước trên thế giới. Về phạm vi thời gian và tần suất số liệu: Chinn (2005) và UBKTQH và UNDP (2012) chỉ ra rằng tùy theo mục đích sử dụng, việc tính REER sẽ dựa vào tần suất dữ liệu khác nhau. Nếu REER được tính toán để sử dụng cho việc theo dõi biến động của tỷ giá hoặc tìm kiếm những kết nối với các biến cơ bản của nền kinh tế thì REER cần được tính với tần suất dữ liệu cao hơn. Việc thu thập dữ liệu với tần suất càng cao sẽ cung cấp nhiều thông tin hơn về sự biến động của các biến, giúp các nhà hoạch định chính sách đưa ra những quyết định kịp thời hơn, song việc thu thập dữ liệu với tần suất và độ chính xác càng cao thì càng tốn kém. Bên cạnh đó, tần suất dữ liệu càng cao thì nhiễu sẽ nhiều hơn và có những sai lệch không mong đợi so với xu hướng bình thường. Trong trường hợp này cần làm trơn số liệu và sử dụng tần suất thấp hơn cũng có ưu điểm của nó. Ngoài ra, do một số khó khăn về sự sẵn có và độ tin cậy của số liệu, tác giả tiến hành ước lượng REER ở Việt Nam theo số liệu quý, từ quý 1/2000 đến quý 4/2019. Kết quả tính toán cho thấy, xu hướng biến động của REER được mô tả như Hình 4. Kết quả xác định REER dựa trên đánh giá sức mua thông qua chỉ số giá tiêu dùng cho thấy nếu năm 2000 được coi là năm cơ sở với chỉ số là 100 thì tới năm 2019, chỉ số REER là 75,86, có nghĩa là VND có xu hướng lên giá khoảng 24,14%. Trong giai đoạn từ năm 2000 - 2002, sức mua đa phương của VND tương đối ổn định, sau đó có xu hướng mất giá từ năm 2003 - 2008, nguyên nhân xuất phát từ sự neo giữ danh nghĩa VND với USD trong khi đó đồng USD có xu hướng mất giá so với các đồng tiền của các đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam như Trung Quốc, Nhật Bản... Sau năm 2008, đặc biệt là sau 2011, nền kinh tế Việt Nam có tỷ lệ lạm phát cao hơn so với các nước khác trong khu vực, trong khi đồng USD có xu hướng lên giá với các đồng tiền mạnh trên thế giới như Nhân dân tệ, Yên Nhật, Euro nhờ khả năng phục hồi của nền kinh tế Mỹ sau khủng hoảng 2008 trong bối TRẦN THỊ THU HÀ 11Số 224+225- Tháng 1&2. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng cảnh khủng hoảng nợ công ở Châu Âu, nên tỷ giá REER của Việt Nam cũng lên giá, trong khi nếu so sánh tỷ giá song phương của VND với USD thì VND mất giá so với USD trong năm 2011. Như vậy, có thể thấy, sự neo giữ VND với USD về mặt danh nghĩa tất yếu làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế và không cho thấy đầy đủ tín hiệu thị trường của tỷ giá. Từ năm 2016 đến nay, sức mua đa phương của VND tương đối ổn định và có xu hướng lên giá so với các đồng tiền khác, kể cả trong năm 2018, trong khi đó nếu so sánh với tỷ giá trung tâm trong khoảng thời gian này, VND vẫn mất giá so với 8 đồng tiền trong giỏ tiền tệ trong tỷ giá trung tâm. Kết quả tính toán REER cho ta thông tin đầy đủ và thực tế hơn về sức mua đa phương của đồng VND trong giai đoạn 2000 - 2019, do đó sẽ cung cấp những thông tin hữu ích cụ thể trong việc phân tích, ra quyết định, đánh giá các biện pháp chính sách kinh tế vĩ mô và các chính sách liên quan đến tỷ giá. 4.3. Mô phỏng so sánh tác động của tỷ giá hối đoái thực đa phương và tỷ giá song phương Trên cơ sở tính toán REER, nghiên cứu thực hiện mô phỏng tác động của việc tăng 1% REER và tỷ giá song phương VND/USD trong năm 2020 đến các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô đồng thời mô phỏng tác động của một biến động tài chính trên thế giới (Mỹ tăng lãi suất cơ bản) đến REER và tỷ giá VND/ USD thông qua việc sử dụng mô hình kinh tế lượng toàn cầu (NIGEM) - mô hình được xây dựng và phát triển bởi Viện Nghiên cứu kinh tế xã hội của Anh (NISER) và được Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế xã hội quốc gia (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) mua bản quyền sử dụng từ năm 2013 đến nay. Mô hình NIGEM của NIESR chủ trì xây dựng và phát triển, là một mô hình toàn cầu được hầu hết các quốc gia trong khối OECD và nhiều nước ngoài khối OECD sử dụng và được mô hình hóa một cách riêng biệt dưới dạng một khối trong mô hình. Mô hình được thiết kế theo đặc điểm kinh tế của từng quốc gia của khối, theo nhóm các nước của khối, theo từng nước riêng biệt trong khối và chung cho cả thế giới. Mô hình NIGEM cũng bao hàm một số mô hình con, riêng biệt cho các nước ngoài khối OECD như các nước BRICS, Indonesia, Singapore, và Việt Nam. Block Vietnam trong mô hình NIGEM được các chuyên gia của NIESR và Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - xã hội quốc gia phát triển với phiên bản đầu tiên được hoàn thành trong tháng 5/2013. Phần còn lại của thế giới được mô hình hóa theo các nhóm khu vực, cũng như các nền kinh tế khác. Nhìn chung, tất cả các mô hình riêng cho các nước hay khu vực đều bao gồm các khối chính sau: khối các thành phần cầu nội địa, thường gọi là cầu nội địa; khối xuất nhập khẩu hay còn gọi là khối cầu bên ngoài; khối cung bao gồm sản lượng, chi phí và giá cả; khối tài khoản vãng lai và tài sản ròng nước ngoài. Với chức năng thực hiện các mô phỏng, dự báo tác động từ các biến động kinh tế thế giới đến Việt Hình 4. Tỷ giá hối đoái hiệu quả thực của Việt Nam Nguồn: Tính toán của tác giả Vai trò của tỷ giá hối đoái thực hiệu quả trong điều hành kinh tế vĩ mô và một số hàm ý chính sách 12 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 224+225- Tháng 1&2. 2021 Nam và các chính sách đến các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của Việt Nam, mô hình này đang được sử dụng trong rất nhiều các báo cáo định kỳ và đột xuất của Bộ Kế hoạch đầu tư trình Chính phủ. Mô phỏng 1: Tăng tỷ giá song phương VND/USD và REER 1% Theo nguyên lý lý thuyết, đối với tỷ giá song phương, khi tỷ giá tăng thì hàng hóa xuất khẩu trong nước sẽ đắt hơn hàng hóa nước ngoài khiến xuất khẩu giảm, từ đó khiến GDP giảm theo nhưng đối với trường hợp REER thì việc tăng REER lại có tác động tích cực đến xuất khẩu và GDP. Kết quả chạy mô phỏng tác động của việc tăng tỷ giá song phương VND/USD và REER trên cơ sở mô hình NIGEM (Hình 5) cũng cho thấy nếu tăng 1% REER có thể khiến GDP của Việt Nam tăng lên 0,04%. Điều này cho thấy việc chỉ sử dụng tỷ giá song phương để đưa ra quyết sách điều hành chính sách tỷ giá là chưa đủ. Kết quả này cũng đã được minh chứng qua một số nghiên cứu thực nghiệm nghiên cứu cho Việt Nam như Nguyễn Thanh Bình, Hồ Lê Nguyệt Cầm, Đỗ Trịnh Quỳnh Như (2019)3, theo đó kết luận tồn tại mối quan hệ dương giữa REER và tốc độ tăng GDP ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, cụ thể REER gia tăng 1% sẽ có tác động tích cực làm tăng trưởng GDP của 5 quốc gia tăng 16,2%. Mô phỏng 2: Đánh giá tác động của cú sốc Mỹ tăng lãi suất đến tỷ giá song phương và REER Trên cơ sở sử dụng mô hình NIGEM đánh giá tác động của một biến động tài chính thế giới (Mỹ tăng lãi suất cơ bản đồng 3 “Tác động của tỷ giá hối đoái đến tăng trưởng kinh tế - Từ trường hợp các quốc gia ASEAN” – Trường Đại học Văn Lang (11/2019). USD 1% trong năm 2020) đến REER và tỷ giá song phương cũng cho thấy việc sử dụng REER sẽ là cơ sở tham khảo quan trọng trong điều hành tỷ giá và chính sách kinh tế vĩ mô. Cụ thể, về mặt nguyên lý lý thuyết khi xem xét tỷ giá song phương, ví dụ VND/USD thì khi Fed nâng lãi suất sẽ khiến đồng USD tăng giá và tỷ giá VND/ USD sẽ tăng do đồng VND mất giá tương đối so với đồng USD. Tuy nhiên, nếu xét theo REER thì đồng VND lại tăng giá. Kết quả mô phỏng cho thấy REER là cơ sở tham khảo hữu ích, nếu chỉ dùng tỷ giá song phương giữa VND và USD thì chưa đủ để có thể đưa ra những quyết sách trong điều hành kinh tế vĩ mô nói chung và chính sách tỷ giá nói riêng, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng. 5. Kết luận và khuyến nghị Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng điều hành tỷ giá hối đoái của Việt Nam giai đoạn 2000-2019, dựa vào việc tính toán REER của Việt Nam, phân tích vai trò của REER qua các nghiên cứu thực nghiệm, thực hiện mô phỏng tác động của REER và tỷ giá song phương VND/USD đến các biến số kinh tế vĩ mô và ảnh hưởng của biến số vĩ mô đến 2 loại tỷ giá trên ở Việt Nam, có Hình 5. Tác động của việc tăng 1% tỷ giá song phương VND/USD và tỷ giá thực đa phương đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên mô hình NIGEM TRẦN THỊ THU HÀ 13Số 224+225- Tháng 1&2. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng thể thấy: - Chính sách điều hành tỷ giá đóng vai trò vô cùng quan trọng trong điều hành kinh tế vĩ mô. Nhìn từ kinh nghiệm các nước, Việt Nam chưa thể thả nổi hoàn toàn nhằm tránh việc VND mất giá quá lớn, ảnh hưởng đến sự ổn định của nền kinh tế. Việc lựa chọn neo tỷ giá VND theo một rổ tiền tệ là cần thiết và phù hợp. Trên thực tế, NHNN đã công bố áp dụng chế độ tỷ giá này được gần 5 năm. Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng với nền kinh tế thế giới, cần tham khảo ứng dụng các công cụ khác như REER, gắn với việc sử dụng nhiều đồng tiền hơn trong rổ tiền tệ tham chiếu và nhiều đối tác thương mại hơn, từ đó có thêm thông tin để thực hiện điều hành tỷ giá chủ động, hiệu quả và phù hợp với xu thế. - Ứng dụng thêm REER để ước tính tỷ giá cân bằng và sai lệch tỷ giá- phản ánh đồng tiền đang xem xét được định giá quá cao hay quá thấp để làm cơ sở để điều chỉnh tỷ giá là phá giá hay nâng giá đồng tiền. Điều này có ý nghĩa và vai trò quan trọng trong công tác hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô nói chung và chính sách tài khóa, tiền tệ cũng như chính sách tỷ giá của Việt Nam nói riêng, giúp Chính phủ và hệ thống các Ngân hàng Việt Nam có được những thông tin quan trọng về hiện trạng cũng như tương lai tiền đồng. - Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan thống kê trong việc xây dựng cơ sở dữ liệu về thông tin kinh tế - xã hội một cách chuyên nghiệp, cập nhật và tin cậy để có nguồn thông tin tốt hỗ trợ cho công tác tính toán và dự báo tỷ giá hối đoái. Nghiên cứu này dừng lại ở việc xem xét vai trò của REER trong công tác điều hành tỷ giá. Việc sử dụng mô hình kinh tế lượng NIGEM để so sánh tỷ giá song phương và REER cũng chỉ phản ánh được một phần biến động của tỷ giá (do Việt Nam đang sử dụng cơ chế tỷ giá trung tâm gồm 8 đồng tiền), mặc dù đồng USD chiếm cấu phần và có ảnh hưởng lớn nhất khiến có quan điểm cho rằng VND vẫn chủ yếu neo với đồng USD. Nghiên cứu có ý nghĩa là tiền đề cho nghiên cứu tiếp theo về tỷ giá cân bằng, sai lệch tỷ giá và đánh giá các tác động của sai lệch tỷ giá đến các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô Hình 6. Tác động của việc Mỹ tăng lãi suất đến tỷ giá song phương VND/USD và tỷ giá thực đa phương Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên mô hình NIGEM Tài liệu tham khảo Cheng, F., and D. Orden. (2005). Exchange rate misalignment and its effects on agricultural producer support estimates: Empirical evidence from India and China. MTID Discussion Paper 81. Washington, D.C.: International Food Policy Research Institute. Chinn, M.D, (2002), “The Measurement of Real Effective Exchange Rate: A survey and Applications to East Asia” , University of California, Santa Cruz. De Gregorio và Worf (1994), “Terms of Trade, Productivity, and the Real Exchange Rate”. Vai trò của tỷ giá hối đoái thực hiệu quả trong điều hành kinh tế vĩ mô và một số hàm ý chính sách 14 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 224+225- Tháng 1&2. 2021 của Việt Nam ■ . Jongwanich, Juthathip (2009), “Equilibrium Real Exchange rate, Misalignment, and Export Performance in Developing Asia” , ADB Economics Working Paper Series, N0. 151. Hsieh, D. (1982), “The Determination of the Real Exchange Rate: The Productivity Approach”, Journal of International Economics, Vol.12,pp.335-362. Hsieh, D. (1982), “The Determination of the Real Exchange Rate: The Productivity Approach”, Journal of International Economics, Vol.12,pp.335-362. Nguyen Tran Phuc and Nguyen Duc-Tho (2009), “Exchange Rate Policy in Vietnam, 1985–2008”, https://www. researchgate.net/journal/0217-4472_Asean_Economic_Bulletin Nguyễn Thanh Bình, Hồ Lê Nguyệt Cầm, Đỗ Trịnh Quỳnh Như (2019) “Tác động của tỷ giá hối đoái đến tăng trưởng kinh tế - Từ trường hợp các quốc gia ASEAN”, Tạp chí Tài chính. MacDonald, R., (2000), “Concepts to calculate equilibrium exchange rates: An overview”, Discussion paper 3/00, Deutsche Bunndesbank Soutar và Santoya (2011), “Estimating the Real Effective Exchange Rate (REER) for Belize”, Research Department, Central Bank of Belize. Trần Thị Thu Hà (2014). “Ứng dụng mô hình lớp VAR trong phân tích, đánh giá tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến quy mô và rủi ro của thị trường tài chính Việt Nam giai đoạn 2000-2012”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Trần Thị Thanh Huyền (2018) “Chính sách tỷ giá hối đoái trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế”, Luận án tiến sỹ, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà nội. Ray Barrell, Amanda Choy, Dawn Holland and Rebecca Rile, 1/2005. The Sterling Effective Exchange Rate and other Measures of UN Competitiveness. National Institute Economic Review. UBKTQH và UNDP tại Việt Nam (2012), Tỷ giá hối đoái giai đoạn 2000-2011: Mức độ sai lệch và tác động đối với xuất khẩu. Nhà xuất bản Tri thức. Nguyen Thi Thu Hang (2011), “Exchange Rate Policy in Vietnam 2000-2011: Determination, Misallignment, Impact on Exports and Policy Dimension,” Report RS-01 Economic Committee of Vietnam National Assembly and UNDP Vietnam Zhang, X. (2002). Equilibrium and misalignment: An assessment of the RMB exchange rate from 1978 to 1999. Stanford University Working Paper 127. Stanford, Calif. Các nguồn dữ liệu từ Direction of Trade Statistics (DOT); International Financial Statistics (IFS) của Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF. Số liệu Niên giám thống kê 2020 của Tổng cục Thống kê (GSO).
File đính kèm:
- vai_tro_cua_ty_gia_hoi_doai_thuc_da_phuong_trong_dieu_hanh_k.pdf