Vai trò của sự kết hợp điện cơ và gia tốc kế trong phân biệt bệnh Parkinson và run vô căn
Đặt vấn đề: Run trong bệnh Parkinson và run vô căn đã được nghiên cứu dựa trên sinh lý thần kinh
để phân biệt với nhau ở các nước trên thế giới, trong khi đó ở Việt Nam hiện chưa có dữ liệu nghiên cứu về
vấn đề này.
Mục tiêu: Nghiên cứu giá trị của phân tích run trên điện cơ bề mặt và gia tốc kế trong chẩn đoán phân biệt
bệnh Parkinson và run vô căn.
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Đây là nghiên cứu mô tả hàng loạt ca. Nghiên cứu được tiến hành
tại bệnh viện Ngoại thần kinh Quốc tế từ tháng 1/2020 đến tháng 6/2020. Tổng số 38 bệnh nhân trong đó có 29
bệnh nhân Parkinson và 9 bệnh nhân run vô căn tham gia nghiên cứu. Các bệnh nhân sẽ được đo gia tốc kế và
điện cơ bề mặt để đánh giá các đặc điểm run.
Bạn đang xem tài liệu "Vai trò của sự kết hợp điện cơ và gia tốc kế trong phân biệt bệnh Parkinson và run vô căn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò của sự kết hợp điện cơ và gia tốc kế trong phân biệt bệnh Parkinson và run vô căn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 27 VAI TRÒ CỦA SỰ KẾT HỢP ĐIỆN CƠ VÀ GIA TỐC KẾ TRONG PHÂN BIỆT BỆNH PARKINSON VÀ RUN VÔ CĂN Võ Ngọc Duy1, Nguyễn Hữu Công2 TÓM TẮT Đặt vấn đề: Run trong bệnh Parkinson và run vô căn đã được nghiên cứu dựa trên sinh lý thần kinh để phân biệt với nhau ở các nước trên thế giới, trong khi đó ở Việt Nam hiện chưa có dữ liệu nghiên cứu về vấn đề này. Mục tiêu: Nghiên cứu giá trị của phân tích run trên điện cơ bề mặt và gia tốc kế trong chẩn đoán phân biệt bệnh Parkinson và run vô căn. Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Đây là nghiên cứu mô tả hàng loạt ca. Nghiên cứu được tiến hành tại bệnh viện Ngoại thần kinh Quốc tế từ tháng 1/2020 đến tháng 6/2020. Tổng số 38 bệnh nhân trong đó có 29 bệnh nhân Parkinson và 9 bệnh nhân run vô căn tham gia nghiên cứu. Các bệnh nhân sẽ được đo gia tốc kế và điện cơ bề mặt để đánh giá các đặc điểm run. Kết quả: Trong nhóm bệnh nhân Parkinson, tần số run khi nghỉ, khi duy trì tư thế, khi nâng vật nặng trong khoảng 4-6 Hz. Trong nhóm run vô căn, tần số run khi duy trì tư thế, khi nâng vật nặng trong khoảng 4-8 Hz. Tần số run khi duy trì tư thế ở hai nhóm bệnh nhân chồng lấp nhau. Đặc điểm phân biệt chính run Parkinson và run vô căn là mô hình hoạt động cơ luân phiên ở bệnh nhân Parkinson và đồng bộ ở bệnh nhân run vô căn, sự ảnh hưởng của nghiệm pháp tập trung tinh thần và thời gian tiềm khi chuyển từ tư thế nghỉ sang duy trì tư thế. Kết luận: Một số đặc điểm sinh lý thần kinh giúp phân biệt run vô căn và bệnh Parkinson như thời gian tiềm thời khi chuyển từ tư thế nghỉ sang duy trì tư thế, sự thay đổi về biên độ run khi thực hiện nghiệm pháp tập trung tinh thần và mô hình hoạt động của cơ đồng vận và đối vận của run trên EMG bề mặt. Từ khoá: gia tốc kế, run vô căn ABSTRACT THE ROLE OF THE COMBINATION OF ELECTROMYOGRAPHY AND ACCELEROMETER TO DIFFERENTIATE PARKINSON’S DISEASE AND ESSENTIAL TREMOR Vo Ngoc Duy, Nguyen Huu Cong * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No. 2 - 2021: 27 - 32 Background: Neurophysiological test is used in many studies to differentiate Parkinson tremor and essential tremor in many countries around the world, while the data in Vietnamese with this issue is currently unknown. Objective: To evaluate the role of EMG and accelerometer in differentiating between Parkinson’s disease and essential tremor. Methods: This was a case series study. This study was conducted in International Neurosurgery Hospital from 1/2020 to 6/2020. A total of 38 patients with 29 Parkinson and 9 essential tremor were enrolled. The parameters of tremor were studied by EMG and accelerometer in all the patients. Results: In Parkinson’s disease group, frequency of tremor when maintaining posture and lifting heavy object (500g,1000g) as well as at rest 4–6 Hz. The tremor frequency of essential tremor patients during posturing, and during loading of tremorous limb was 4–8 Hz. Tremor frequency during posturing on two group overlap. The pattern in Parkinson’s disease was mainly alternative contraction, while the muscle contraction mode of 1Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 2Bệnh viện Chuyên khoa Ngoại Thần kinh Quốc tế Tác giả liên lạc: BS. Võ Ngọc Duy ĐT: 0394057876 Email: [email protected] Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 28 essential tremor was synchronous contraction, the effect of mental concentration on tremor, and the latency of tremor from rest to postural position. Conclusion: Tremor analysis of neurophysiological features was able to distinguish Parkinson’s disease from essential tremor by the latency and concentration effect. It can also differentiate between Parkinson’s disease and essential tremor by muscle contraction pattern. Keywords: accelerometer, essential tremor ĐẶT VẤN ĐỀ Run trong bệnh Parkinson là loại run thường gặp, thường được gọi run kinh điển, với biểu hiện run khi nghỉ kiểu vấn thuốc và có thể gặp run khi giữ tư thế. Triệu chứng run khi nghỉ là một đặc điểm điển hình của bệnh Parkinson, tuy nhiên trong giai đoạn sớm của bệnh có thể gặp dạng ưu thế run khi duy trì tư thế, còn triệu chứng run khi nghỉ có thể nhẹ hơn(1). Do đó sự phân biệt hai loại run này có thể gặp khó khăn. Trong một nghiên cứu, người ta đã ghi nhận trong bệnh Parkinson giai đoạn sớm với run là biểu hiện duy nhất có tỷ lệ bị chẩn đoán sai là khoảng 25%(2). Trong run vô căn, 50% chẩn đoán run vô căn dựa vào lâm sàng là chẩn đoán sai(3). Về kinh điển, run vô căn được xem như bệnh đơn triệu chứng với đặc điểm đặc trưng là run khi vận động. Tuy nhiên trong nhiều năm qua, khái niệm kinh điển này đã được bàn cãi nhiều, và được mô tả bổ sung thêm các đặc điểm lâm sàng(3,4). Bệnh nhân (BN) run vô căn và BN Parkinson có thể có các đặc điểm lâm sàng trùng lấp nhau, và một số BN có thể có biểu hiện phù hợp với tiêu chí chẩn đoán cho cả hai bệnh. Do sự khác biệt về điều trị và tiên lượng giữa hai bệnh, cần có một phương pháp để phân biệt tốt hơn run vô căn và run Parkinson. Nghiên cứu sinh lý thần kinh là một phương pháp hỗ trợ nhiều trong chẩn đoán các rối loạn vận động, đặc biệt run. Điện sinh lý thần kinh có thể giúp ích nhiều cho chẩn đoán phân biệt hai loại run trên, đặc biệt là khi kết hợp với lâm sàng. Chẩn đoán phân biệt run Parkinson và run vô căn dựa trên EMG bề mặt và gia tốc kế đã được nghiên cứu ở nhiều nước trên thế giới(5,6), tuy nhiên ở Việt Nam, hiện chưa có nghiên cứu nào về vấn đề này. Do đó chúng tôi quyết định thực hiện nghiên cứu vai trò của gia tốc kế và điện cơ bề mặt trong phân biệt run trong bệnh Parkinson và run vô căn, từ đó có thể tìm ra các đặc điểm phân biệt hai loại run này, trên nghiên cứu sinh lý thần kinh, và áp dụng trên thực hành lâm sàng. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Tất cả bệnh nhân (BN) đến khám tại phòng khám Thần kinh, bệnh viện Ngoại Thần Kinh Quốc Tế từ tháng 1/2020 đến tháng 6/2020, được chẩn đoán bệnh Parkinson hoặc run vô căn. Tiêu chuẩn chọn bệnh - Tất cả BN được chẩn đoán chắc chắc hoặc có khả năng Parkinson theo tiêu chuẩn chẩn đoán Parkinson của MDS (2015)(7). - BN được chẩn đoán run vô căn thỏa tiêu chuẩn chẩn đoán của hội rối loạn vận động và Parkinson quốc tế (2017)(8). Tiêu chuẩn loại trừ -BN không thể hợp tác làm các nghiệm pháp trong nghiên cứu. - BN có sử dụng các thuốc và chất gây run gồm thuốc cường giao cảm, thuốc chống trầm cảm, hóa trị, thuốc chống động kinh, thuốc dạ dày ruột, thuốc ức chế miễn dịch, hóc môn thay thế, thuốc chống loạn thần, nhóm methylxanthine trong vòng 1 tuần. - BN từ chối tham gia nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu cắt ngang mô tả hàng loạt ca. Cỡ mẫu Nghiên cứu áp dụng phương pháp chọn mẫu thuận tiện. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 29 Tổng số BN thu được là 38 BN, trong đó có 29 BN Parkinson và 9 BN run vô căn. Phương pháp thực hiện Các thông số chẩn đoán điện được khảo sát trên máy điện cơ VIKING EDX của hãng NATUS của Mỹ, tại phòng điện cơ bệnh viện Ngoại thần kinh quốc tế, trong thời gian từ đầu tháng 1 năm 2020 đến cuối tháng 6 năm 2020. Máy điện cơ trong nghiên cứu này được sử dụng với 4 điện cực bề mặt và 1 gia tốc kế áp lực. Điện cực bề mặt được đặt lần lượt lên cơ gấp cổ tay trụ và cơ duỗi cổ tay trụ. Gia tốc kế đặt cố định ở phần xa xương bàn tay ngón 3 ở cùng tay. Tần số và biên độ run của BN sẽ được ghi lại khi BN ở tư thế ngồi lúc nghỉ (đặt bàn tay thư giãn lên đùi), khi duy trì tư thế (2 cẳng tay để sấp đưa ra trước), ở 1 cẳng tay tải nặng lần lượt khoảng 500g, 1000g và khi thực hiện động tác ngón tay chỉ mũi. Mỗi lần ghi 40 giây. BN sẽ được quan sát liệu họ có run ngay lập tức khi thay đổi từ tư thế nghỉ sang duy trì tư thế để xác định run này có thời gian tiềm thời không và được yêu cầu thực hiện nắm mở bàn tay đối bên hoặc đếm ngược từ 100 khi run diễn ra để xác định hoạt động tinh thần có ảnh hưởng đến run không(6,9). Đồng thời quan sát các hoạt động EMG của cơ gấp và duỗi cổ tay trụ khi run để đánh giá hoạt động run là đồng bộ hoặc luân phiên. Biên độ run được lấy từ khoảng cách trung bình giữa hai đỉnh run ở gia tốc kế. Tần số run sẽ được xử lý bởi thuật toán chuyển đổi Fourier nhan để thu được phổ tần số. Việc xử lý các thành phần tần số cao không liên quan đến run, các tín hiệu điện cơ và gia tốc kế sẽ đặt ngưỡng lọc tần số thấp là 30 Hz. Tín hiệu điện cơ cũng được đặt ngưỡng tần số cao là 2 Hz để khuếch đại những xung động run có thể nhìn thấy được. Các tín hiệu điện cơ bề mặt sẽ được xử lý cùng lúc với tín hiệu gia tốc kế. Thống kê và xử lý số liệu Số liệu ngay sau khi được thu thập sẽ được kiểm tra lại tính hoàn tất và phù hợp của bảng thu thập. Nếu có thông tin không chính xác hoặc không phù hợp sẽ tiến hành điều chỉnh ngay lúc đó. Các giá trị định tính được mã hóa trong bộ câu hỏi để việc nhập dữ liệu dễ dàng hơn. Dữ liệu khi nhập sẽ được kiểm tra hai lần để đảm bảo không xảy ra sai sót. Dữ liệu sau khi được kiểm tra và nhập hoàn chỉnh sẽ được phân tích. Số liệu được nhập bằng phần mềm Microsoft Excel 2019 và xử lí bằng phần mềm SPSS 22.0 KẾT QUẢ Đặc điểm dịch tễ Bảng 1: Đặc điểm dịch tễ run trong bệnh Parkinson và run vô căn Run trong bệnh Parkinson Run vô căn Tuổi 42-83 (64) 50-75 (58) Giới 8 Nam 21 Nữ 5 Nam 4 Nữ Thời gian bệnh (năm) 2,7 4,1 Triệu chứng run giảm khi uống rượu (%) 0 55,6 Mức độ nặng theo Hoehn và Yahr 2,2 Tiền căn gia đình có run tương tự (%) 0 44 Nhóm BN Parkinson có 29 BN, trong đó có 8 nam và 21 nữ. Nhóm BN này có độ tuổi từ 42 đến 83 tuổi với độ tuổi trung bình là 64. Thời gian bệnh từ 0,5 năm đến 10 năm với trung bình là 2,7 năm. Không ghi nhận tiền căn gia đình có triệu chứng run tương tự trong nhóm BN Parkinson. Nhóm BN Parkinson có độ nặng trung bình theo Hoehn và Yahr là 2,2. Trong đó 23 BN mức độ 2 và 6 BN mức độ 3. Tỷ lệ số người bệnh có giảm run khi uống rượu là 0% ở nhóm người bệnh Parkinson. Nhóm BN run vô căn có 9 BN trong đó có 5 nam và 4 nữ. Nhóm BN này có độ tuổi từ 50 đến 75 tuổi với độ tuổi trung bình là 58. Thời gian bệnh từ 3 năm đến 10 năm với trung bình là 4,1 năm. Ghi nhận có 44% BN run vô căn có tiền căn gia đình có run tương tự. Tỷ lệ số người bệnh có giảm run khi uống rượu là 55,6% ở nhóm người Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 30 bênh run vô căn. Đặc điểm lâm sàng Nhóm BN Parkinson có nhiều vị trí run hơn. Tỷ lệ run khu trú ở một tay trong nhóm là 31%. Run nửa người ở cả tay và chân cùng bên chiếm tỷ lệ cao nhất là 41%. Run phân đoạn ở cả hai tay có tỷ lệ thấp hơn cả là 7%. Trong nhóm BN Parkinson, tất cả đều có run khi nghỉ. Tỷ lệ run khi vận động ở nhóm BN Parkinson là 66%. Các BN Parkinson đều có các triệu chứng thỏa hội chứng Parkinson. Trong nhóm run vô căn, toàn bộ các BN đều có run ở cả hai tay. Trong đó có hai BN có kèm run đầu kiểu no-no. Ở BN run vô căn, không ghi nhận có run khi nghỉ. Tất cả các BN này đều có run khi duy trì tư thế. Run là triệu chứng duy nhất trong nhóm BN run vô căn. Bảng 2: Đặc điểm lâm sàng run trong bệnh Parkinson và run vô căn Run trong bệnh Parkinson Run vô căn Điều kiện khởi phát Khi nghỉ 100% 0% Khi vận động 66% 100% Vị trí run Run 1 tay 31% 0% Run nửa người 41% 0% Run phân đoạn ở cả hai tay 7% 100% Run toàn thể 21% 0% Đặc điểm run trên điện cơ bề mặt và gia tốc kế Bảng 3: Tần số run, thời gian tiềm thời, ảnh hưởng tập trung, tỷ lệ đồng bộ trên EMG của bệnh Parkinson và run vô căn Nghỉ (Hz) Duy trì tư thế (Hz) Nâng vật nặng Thời gian tiềm Ảnh hưởng tập trung Đồng bộ trên EMG Bệnh Parkinson 4,8±0,3 5,1±0,4 5±0,33 100% 82% 22,22% Run vô căn 0 6,3±0,7 6,4±0,4 0% 0% 77,78% Trong nhóm BN Parkinson, tần số run khi nghỉ, khi duy trì tư thế, khi nâng vật nặng là khoảng từ 4 đến 6 Hz. Trong nhóm BN run vô căn, không ghi nhận run khi nghỉ, tần số run khi duy trì tư thế, khi nâng vật nặng là khoảng từ 4 đến 8. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tần số run khi nâng vật nặng và khi duy trì tư thế ở cả hai nhóm BN (p >0,05). Khoảng tần số run khi duy trì tư thế của BN Parkinson cũng nằm trong khoảng tần số run của BN run vô căn do đó không thể phân biệt hai loại run này nếu chỉ dựa vào tần số. Run khi duy trì tư thế được xem là có thời gian tiềm khi thời gian xuất hiện xung động run trên EMG khi chuyển từ tư thế nghỉ sang duy trì tư thế lớn hơn 2 giây. Khi chuyển từ tư thế nghỉ sang duy trì tư thế, trong nhóm BN Parkinson tất cả đều có thời gian tiềm khi chuyển tư thế với thời gian tiềm trung bình là 22,1 giây. Còn nhóm BN run vô căn không ghi nhận thời gian tiềm. Khi thực hiện nghiệm pháp tập trung tinh thần, nhóm BN Parkinson có biên độ run tăng lên có ý nghĩa thống kê so với khi nghỉ, p=0,017. Có 82% BN run Parkinson có tăng biên độ so với khi nghỉ. Trong khi đó, sự thay đổi về biên độ không có ý nghĩa thống kê đối với nhóm BN run vô căn và không có BN nào có biên độ tăng khi thực hiện nghiệm pháp tập trung tinh thần. Trên EMG bề mặt, mô hình hoạt động cơ chính của nhóm BN Parkinson là luân phiên (Hình 1) còn nhóm BN run vô căn là đồng bộ (Hình 2). Hình 1: Mô hình hoạt động cơ trong bệnh Parkinson Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 31 Hình 2: Mô hình hoạt động cơ trong run vô căn BÀN LUẬN Run điển hình trong bệnh Parkinson có thể dễ dàng phân biệt với run vô căn. Do nó có các đặc điểm như run khi nghỉ, run thường chỉ khởi phát ở một bên và không đối xứng. Thêm nữa, BN có thể có các triệu chứng trong hội chứng Parkinson như chậm vận động, đơ cứng, không ổn định tư thế. Tuy nhiên một số trường hợp run Parkinson là triệu chứng duy nhất. Triệu chứng run khi duy trì tư thế có thể là triệu chứng chính và nổi bất trong giai đoạn sớm của bệnh khi mà các triệu chứng khác như run khi nghỉ, đơ cứng, chậm vận động biểu hiệu rất nhẹ(3). Run Parkinson sẽ khó phân biệt với run vô căn trong giai đoạn này. Hai bệnh này có phương pháp điều trị và tiên lượng khác nhau nên việc chẩn đoán chính xác là vô cùng quan trọng. Do đó, chúng tôi thực hiện nghiên cứu sinh lý thần kinh run để mô tả các đặc điểm định lượng của run và từ đó giúp chúng tôi phân biệt hai loại này một cách tốt hơn(9,10). Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tần số run Parkinson nằm trong khoảng từ 3,3 đến 6,1 Hz. Trong khi đó tần số run của run vô căn cũng chồng lấp trong khoảng này. Do đó khó có thể phân biệt run Parkinson và run vô căn nếu chỉ dựa vào tần số run. Kết quả này tương tự như các nghiên cứu trên thế giới(5,6). Ở nhóm BN Parkinson, tất cả run khi duy trì tư thế đều có thời gian tiềm, run này thường được gọi là run tái lập(5) ngược lại trong run vô căn, không ghi nhận có thời gian tiềm. Đây là một đặc điểm quan trọng để phân biệt run Parkinson và run vô căn trong nghiên cứu sinh lý thần kinh run. Kết quả này tương tự như kết quả trong nghiên cứu của tác giả Zhang J(6). Trong nghiên cứu của chúng tôi, khi thực hiện nghiệm pháp tập trung tinh thần, không ghi nhận có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tần số run khi thực hiện nghiệm pháp so với tần số run khi nghỉ ở nhóm BN Parkinson. Tuy nhiên có sự thay đổi về biên độ khi thực hiện nghiệm pháp. Biên độ trung bình khi thực hiện nghiệm pháp 2,2 lần cao hơn so với biên độ trung bình khi nghỉ ở nhóm BN Parkinson. Kết quả này tương tự như trong nghiên cứu của tác giả Zhang J(6), nghiên cứu của tác giả này cũng cho thấy biên độ run tăng khi BN thực hiện nghiệm pháp tập trung tinh thần. Ở trong nghiên cứu này, tác giả ghi nhận 100% BN Parkinson có ảnh hưởng khi thực hiện nghiệm pháp. Còn trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ ảnh hưởng của nghiệm pháp tập trung tinh thần là khoảng 82%. Tỷ lệ này có thấp hơn so với nghiên cứu trên có thể do một số nguyên nhân sự khác biệt về thực hiện nghiệm pháp do trong nghiên cứu của chúng tôi chủ yếu thực hiện bằng cách cho người bệnh nắm mở bàn tay đối bên hoặc đếm ngược từ 100. Còn trong nghiên cứu của tác giả Zhang J, nghiệm pháp được dùng là nghiệm pháp 100 trừ 7, có thể nghiệm pháp 100 trừ 7 có ảnh hưởng mạnh hơn đến sự tập trung của người bệnh, do đó làm cho tỷ lệ ảnh hưởng của nghiệm pháp được tối đa là 100%. Nguyên nhân của sự thay đổi về biên độ này thì chưa được rõ, tuy nhiên nó có nguyên tắc tương tự như thủ thuật Jandrassik trong phản xạ gân cơ. Nguyên nhân này có thể cần được nghiên cứu sâu hơn. Ở nhóm BN run vô căn, tần số cũng như biên độ run khi thực hiện nghiệm pháp đều không thay đổi so với tần số và biên độ run khi duy trì tư thế. Kết quả này là tương đồng so với nghiên cứu của tác giả Zhang J(6). Tỷ Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 32 lệ ảnh hưởng của việc thực hiện nghiệm pháp tập trung tinh thần đối với BN run vô căn trong nghiên cứu của chúng tôi là 0% tương tự như trong nghiên cứu trên. Do đó đây cũng là một đặc điểm giúp ích trong việc phân biệt run trong bệnh Pakinson và run vô căn. Chúng tôi tìm thấy tần số run ở cả hai nhóm BN thay đổi không có ý nghĩa thống kê khi nâng vật nặng (p >0,05). Kết quả này tương tự như trong các nghiên cứu về run vô căn và run Parkinson trên thế giới(6,11,12). Do cơ chế run Parkinson và run vô căn thường là cơ chế trung ương. Mô hình hoạt động cơ đồng vận và đối vận ở nhóm BN Parkinson chủ yếu là luân phiên với tỷ lệ 77,78%. Trong nhóm BN run vô căn, mô hình hoạt động cơ chủ yếu là đồng bộ với tỷ lệ 77,78%. Do đó đây là một đặc điểm quan trọng có thể giúp ta phân biệt run vô căn và run Parkinson. Dựa trên kết quả nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy rằng phân tích run dựa trên EMG bề mặt và gia tốc kế có thể giúp phân biệt run vô căn và bệnh Parkinson dựa trên thời gian tiềm, ảnh hưởng của nghiệm pháp tập trung tinh thần và mô hình hoạt động cơ. Nó có thể hữu ích trong các trường hợp BN có cả run khi nghỉ và run khi vận động hoặc trong giai đoạn sớm của bệnh Parkinson. Nghiên cứu sinh lý thần kinh là phương pháp sử dụng điện cực EMG bề mặt và gia tốc kế. Do đó nó không xâm lấn, có thể lặp lại nhiều lần ở BN run. Tuy nhiên do số lượng mẫu nhỏ nên chúng tôi cần nghiên số lượng mẫu lớn hơn đồng thời các nghiên cứu xa hơn để đánh giá run sau khi điều trị ở BN run Parkinson và run vô căn cũng cần thiết. KẾT LUẬN Chúng tôi thấy rằng nghiên cứu sinh lý thần kinh run có thể giúp phân biệt run vô căn và bệnh Parkinson dựa vào sự hiện diện của thời gian tiềm, sự thay đổi về biên độ run khi thực hiện nghiệm pháp tập trung tinh thần và mô hình hoạt động của cơ đồng vận và đối vận của run trên EMG bề mặt. Nghiên cứu sinh lý thần kinh trong run là một kỹ thuật không xâm lấn, có tính lặp lại và có thể áp dụng rộng hơn trong thực hành lâm sàng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Gironell A, Kulisevskye J, Pascual-Sedano B, Barbanoj M (2004). Routine neurophysiologic tremor analysis as a diagnostic tool for essential tremor: a prospective study. J Clin Neurophysiol, 21(6):446-450. 2. Thenganatt MA, Louis ED (2012). Distinguishing essential tremor from Parkinson's disease: bedside tests and laboratory evaluations. Expert Review of Neurotherapeutics, 12(6):687-696. 3. Schrag A, Muenchau A, Bhatia KP, et al (1999). Overdiagnosis of essential tremor. Lancet, 353(9163):1498-1499. 4. Haubenberger D, Hallett M (2018). Essential Tremor. New England Journal of Medicine, 378(19):1802-1810 5. Burne JA, Hayes MW, Fung VSC, et al (2002). The contribution of tremor studies to diagnosis of parkinsonian and essential tremor: a statistical evaluation. J Clin Neurosci, 9(3):237-242. 6. Zhang J, Xing X, Ma X, et al (2017). Differential Diagnosis of Parkinson Disease, Essential Tremor, and Enhanced Physiological Tremor with the Tremor Analysis of EMG. Parkinsons Dis, 2017:1597907. 7. Postuma RB, Berg D, Stern M, et al (2015). MDS clinical diagnostic criteria for Parkinson's disease. Mov Disord, 30(12):1591-1601. 8. Bhatia KP, Bain B, Bajaj N, et al (2018). Consensus Statement on the classification of tremors. from the task force on tremor of the International Parkinson and Movement Disorder Society. Mov Disord, 33(1):75-87. 9. Vial F, Kassavetis P, Merchant S, et al (2019). How to do an electrophysiological study of tremor. Clin Neurophysiol Pract, 4:134-142. 10. Jankovic J, Schwartz KS, Ondo W (1999). Re-emergent tremor of Parkinson's disease. J Neurol Neurosurg Psychiatry, 67(5):646-650. 11. Milanov IG (2000). Clinical and electromyographic examinations of Parkinsonian tremor. Parkinsonism Relat Disord, 6(4):229-235. 12. Milanov IG (2000). Clinical and electromyographic examinations of patients with essential tremor. Can J Neurol Sci, 27(1):65-70. Ngày nhận bài báo: 10/11/2020 Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 01/02/2021 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021
File đính kèm:
vai_tro_cua_su_ket_hop_dien_co_va_gia_toc_ke_trong_phan_biet.pdf

