Vai trò của hóa xạ trị đồng thời trước mổ ung thư trực tràng giai đoạn II, III theo các nghiên cứu thực hành lâm sàng kinh điển và hướng dẫn của NCCN VERSION 2-2017
Điều trị ung thư trực tràng là một trong những điều trị đa mô thức điển hình bao gồm vai trò của phẫu thuật, hóa trị, xạ trị và liệu pháp nhắm trúng đích. Trong các mô thức điều trị trên vai trò của phẫu thuật luôn được đặt lên hàng đầu đặc biệt là các giai đoạn sớm (T1-2, N0, M0). Bên cạnh đó vai trò của hóa-xạ trị cũng ngày càng được khẳng định đặc biệt là các giai đoạn trung gian và muộn. Đối với ung thư trực tràng giai đoạn II, III (T3-4, N0 hoặc T bất kỳ, N1/N2, M0) từ lâu đã thống nhất có vai trò của phẫu thuật, xạ trị và hóa trị. Tuy nhiên thứ tự tiếp cận các mô thức điều trị trên không phải là hoàn toàn đồng thuận giữa nhiều chuyên gia ung thư và nhà ngoại khoa tiêu hóa
Bạn đang xem tài liệu "Vai trò của hóa xạ trị đồng thời trước mổ ung thư trực tràng giai đoạn II, III theo các nghiên cứu thực hành lâm sàng kinh điển và hướng dẫn của NCCN VERSION 2-2017", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò của hóa xạ trị đồng thời trước mổ ung thư trực tràng giai đoạn II, III theo các nghiên cứu thực hành lâm sàng kinh điển và hướng dẫn của NCCN VERSION 2-2017
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 8 - 12/2016 104 ĐẶT VẤN ĐỀ Điều trị ung thư trực tràng là một trong những điều trị đa mô thức điển hình bao gồm vai trò của phẫu thuật, hóa trị, xạ trị và liệu pháp nhắm trúng đích. Trong các mô thức điều trị trên vai trò của phẫu thuật luôn được đặt lên hàng đầu đặc biệt là các giai đoạn sớm (T1-2, N0, M0). Bên cạnh đó vai trò của hóa-xạ trị cũng ngày càng được khẳng định đặc biệt là các giai đoạn trung gian và muộn. Đối với ung thư trực tràng giai đoạn II, III (T3-4, N0 hoặc T bất kỳ, N1/N2, M0) từ lâu đã thống nhất có vai trò của phẫu thuật, xạ trị và hóa trị. Tuy nhiên thứ tự tiếp cận các mô thức điều trị trên không phải là hoàn toàn đồng thuận giữa nhiều chuyên gia ung thư và nhà ngoại khoa tiêu hóa. Trên thế giới trước những năm 1995, hầu hết các nghiên cứu và các hội nghị đồng thuận đều đề cập đến vai trò của phẫu thuật trước và hóa xạ trị bổ trợ sau đối với ung thư trực tràng giai đoạn II, III [1,2,3] . Tuy nhiên, từ sau 1995 theo hội nghị đồng thuận các trường phái Châu Âu và năm 2000 theo hội ung thư Bắc Mỹ đều thống nhất VAI TRÒ CỦA HÓA XẠ TRỊ ĐỒNG THỜI TRƯỚC MỔ UNG THƯ TRỰC TRÀNG GIAI ĐOẠN II, III THEO CÁC NGHIÊN CỨU THỰC HÀNH LÂM SÀNG KINH ĐIỂN VÀ HƯỚNG DẪN CỦA NCCN VERSION 2-2017 (Pre-operartive concurrent chemoradiation for stage II-III rectal cancer according classic clinical research and lastest NCCN guidelines updates) Phạm Thành Luân1, Nguyễn Minh Tính1, Lê Thị Thanh1 Nguyễn Đăng Huy1, Nguyễn Thị Kim Oanh1, Cao Văn Khánh1 (1) Bệnh viện Quân y 175 Người phản hồi (Corresponding): Phạm Thành Luân ([email protected]) Ngày nhận bài: 15/12/2016. Ngày phản biện đánh giá bài báo: 21/12/2016. Ngày bài báo được đăng: 30/12/2016 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 105 khuyến cáo nên hóa xạ đồng thời trước mổ cho các trường hợp này. Từ đó đến nay sau nhiều đóng góp của các nghiên cứu thực hành lâm sàng đã củng cố thêm mức chứng cứ cho khuyến cáo này. Bài viết này trình bày kết quả của một số nghiên cứu uy tín về vai trò của hóa xạ trị đồng thời trước mổ và hướng dẫn của NCCN (National Comprehensive Cancer Network Version 2.2017) cho điều trị ung thư trực tràng giai đoạn II, III. TỔNG QUAN VỀ PHÂN GIAI ĐOẠN VÀ CÁC BIỆN PHÁP ĐIỀU TRỊ UNG THƯ TRỰC TRÀNG Phân giai đoạn ung thư trực tràng Theo AJCC 7 (American Joint Committee on Cancer) ung thư trực tràng được phân chia giai đoạn như sau: T (Khối u): Tis: carcinoma in situ; T1: carcinoma xâm lấn tới lớp dưới niêm mạc; T2: carcinoma xâm lấn tới lớp cơ; T3: carcinoma xâm lấn qua lớp cơ nhưng chưa qua lớp thanh mạc (hay xâm lấn vào mô quanh trực tràng phần ngoài phúc mạc); T4: carcinoma xâm lấn vào các tạng, cấu trúc lân cận hay thủng. N (Hạch): N0: chưa di căn hạch vùng; N1: di căn 1-3 hạch vùng; N2: di căn 4 hạch vùng trở lên; M (Di căn xa): M0: chưa di căn xa; M1: di căn xa. Giai đoạn T N M Dukes* MAC** 0 Tis 0 0 I 1 0 0 A A 2 0 0 A B1 IIA 3 0 0 B B2 IIB 4 0 0 B B3 IIIA 1-2 1 0 C C1 IIIB 3-4 1 0 C C2/C3 IIIC Bất kỳ 2 0 C C1/ C2/C3 IV Bất kỳ Bất kỳ 1 D TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 8 - 12/2016 106 * Dukes: Phân loại theo Cuthbert Dukes ** MAC: Cải biên của phân loại theo Astler-Coller Bảng 1: Phân chia giai đoạn ung thư trực tràng. Các mô thức điều trị ung thư trực tràng Phẫu thuật: Phẫu thuật từ lâu đã chứng tỏ vai trò hàng đầu trong điều trị ung thư đại trực tràng, dù cho hóa trị và xạ trị thậm chí là liệu pháp trúng đích có phát triển đến đâu thì cũng chỉ đóng góp vai trò điều trị bổ trợ là chủ yếu (trước hoặc sau phẫu thuật). Phương pháp phẫu thuật ung thư trực tràng phụ thuộc vào vị trí của bướu so với hậu môn, có thể phẫu thuật nội soi hoặc qua tầng sinh môn, cắt trước thấp (LAR, TME) hoặc cắt trước (AR) thậm chí là phẫu thuật Miles (Abdominoperineal), phẫu thuật Babcock - Bacon. Việc lựa chọn cắt nối 1 thì hay kì sau cũng phụ thuộc vào kinh nghiệm của từng trung tâm, bên cạnh đó vấn đề có bảo tồn cơ thắt trong những trường hợp nào cũng còn tranh luận và phụ thuộc vào những phương pháp điều trị bổ trợ trước và sau đó nhưng xu hướng thu hẹp chỉ định phẫu thuật Miles ngày càng được chú trọng. Vấn đề bảo tồn cơ thắt có ý nghĩa quan trọng vì nó ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng sống của bệnh nhân khi phải làm phẫu thuật Miles sẽ mang hậu môn nhân tạo suốt đời. Việc phẫu thuật với mục đích chính là lấy bỏ khối u và mô mỡ xung quang đặc biệt là khoang mỡ trước xương cùng, mạc treo trực tràng (đoạn cao) và các nhóm hạch theo khuyến cáo, đặc biệt lưu ý đến việc lấy đủ số hạch quy định và đánh dấu lại các vị trí nghi ngờ diện cắt là rất quan trọng nếu là phẫu thuật trước. Tái phát tại chỗ sau khi điều trị ung thư trực tràng vẫn còn là một vấn đề khó khăn do đó các nhà ung thư đã và đang nỗ lực để cải thiện tỷ lệ kiểm soát tại chỗ, tập trung vào các phương pháp điều trị bổ trợ trước hoặc sau phẫu thuật. Hóa trị và liệu pháp nhắm trúng đích Vai trò của hóa trị với ung thư trực tràng phụ thuộc giai đoạn: với giai đoạn I (T1-2, N0, M0) mà không có nguy cơ cao nào khác thì không cần điều trị hỗ trợ, giai đoạn II, III, IV đã được chứng minh qua nhiều nghiên cứu hóa trị làm tăng thời gian sống còn toàn bộ, giảm tỷ lệ tái phát và di căn xa. Điều trị hóa trị thường được áp dụng bổ trợ sau mổ hoặc giai đoạn muộn. Với sự phát triển của các thuốc hóa chất và sự phối hợp của các phác đồ ngày càng gia tăng lợi ích và giảm các độc tính trên bệnh TỔNG QUAN TÀI LIỆU 107 nhân. Các tác dụng phụ của hóa trị ung thư trực tràng nói chung thường nhẹ so với hóa trị độc tế bào các bệnh lý khác. Các phác đồ hóa trị thường dùng cho ung thư trực tràng: 5FU +/- Leucovorin; FOLFOX 4 hoặc FOLFOX 6: Oxaliplatin + 5FU; FOLFIRI : Irrinotecan + 5FU; XELOX, XELIRI: thay 5FU bằng Capecitabin; Capecitabin đơn trị. Liệu pháp nhắm đích được áp dụng cho ung thư trực tràng giai đoạn IV hoặc tái phát giúp tăng thời gian sống còn: Liệu pháp kháng sinh mạch: Bevacizumab (Avastin) là kháng thể đơn dòng nhóm tác động lên VEGF (vascular endothelial growth factor) làm ức chế tăng sinh mạch khối u đã chứng minh có thể tăng OS (Overall survival - thời gian sống còn toàn bộ) đáng kể ở bệnh nhân ung thư đại trực tràng tái phát hoặc di căn xa đã được áp dụng tương đối phổ biến trong điều trị. Cetuximab ức chế sự tăng sinh tế bào bướu có biểu lộ EGFR (Epidermal growth factor receptor) gây ra sự chết tế bào theo lập trình. Thuốc này cũng ức chế sản xuất các yếu tố sinh mạch, ức chế sự di cư các tế bào nội mô , làm giảm sự thành lập các mạch máu mới và di căn. Đồng thời có tác dụng ưu thế ở những bệnh nhân không có đột biến KRAS (KRAS wild type). Liệu pháp kháng đa đích ức chế phân tử nhỏ Regorafenib (Stivaga) cũng đã chứng minh có hiệu quả về sống còn tuy vậy chi phí điều trị cao là yếu tố quan trọng chưa được sử dụng phổ biến. Xạ trị Giống như hóa trị, xạ trị cũng ngày càng chứng minh được hiệu quả của nó trong điều trị nhằm 2 mục đích chính: Mục đích điều trị hỗ trợ cùng phẫu thuật và hóa trị: thường được áp dụng cho giai đoạn II, III. Xạ trị sau mổ: Xạ trị nền bướu và hạch chậu liều xạ thường 45-50,4 Gy có thể boost nền bướu nếu có nghi ngờ tồn dư lên 54Gy, lợi thế của xạ sau mổ là xác định được chính xác giai đoạn bệnh nhưng trường chiếu xạ rộng do phải bao trùm tầng sinh môn và do sau mổ ruột non bị xuống thấp hơn nằm trong trường chiếu xạ nên dễ gây biến chứng hơn khi xạ (đau bụng, tiêu chảy, thủng ruột). Xạ trị trước mổ: Xạ vào bướu và hạch chậu. Có hai phác đồ xạ được khuyến cáo là xạ phân liều chuẩn (45 đến 50,4 Gy phân liều 1,8-2 Gy) hoặc xạ trị giảm phân liều 25Gy/5 lần. Xạ trị trước mổ có lợi thế TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 8 - 12/2016 108 là giúp khối u, hạch giảm giai đoạn, dễ cắt trọn hơn, trường chiếu xạ so với sau mổ cũng hẹp hơn, ít tác dụng phụ hơn do bệnh nhân có thể nằm sấp đưa bụng vào hố của phương tiện cố định Belly board làm cho ruột non ít nằm trong hố chậu. Bên cạnh đó xạ trị trước mổ theo nguyên tắc sẽ nhạy xạ hơn do mô bướu còn nhiều mạch máu nuôi so với xạ sau mổ chỉ còn mô sẹo ít máu nuôi. Đặc biệt xạ trước mổ có nhiều ưu thế về khả năng bảo tồn cơ thắt và giảm tỷ lệ tái phát tại chỗ sẽ được chứng minh bằng các nghiên cứu lâm sàng sẽ trình bày ở phần sau. Với xạ phác đồ phân liều chuẩn nên hóa xạ đồng thời, sau xạ trị khoảng 6-8 tuần bệnh nhân nên được phẫu thuật để hồi phục các tác dụng phụ xạ và cũng không để quá lâu gây xơ dính và dễ chảy máu trong phẫu thuật. Với phác đồ xạ trị giảm phân liều bệnh nhân nên phẫu thuật ngay vào tuần kế sau khi xạ trị đủ 5 lần. Mục đích giảm triệu chứng: chủ yếu là xạ trị tạm bợ giảm đau (do chèn ép bướu hoặc di căn xương), cải thiện tắc ruột, cầm máu Trong một vài trường hợp mà phẫu thuật không thể đặt ra do các bệnh lý kết hợp, thể trạng hoặc bệnh nhân từ chối phẫu thuật thì xạ trị được coi như biện pháp điều trị với hy vọng triệt để, lúc này liều xạ có thể boost vào bướu cao hơn 2-3 phân liều, biện pháp này đôi khi cũng đạt được hiệu quả hơn kỳ vọng ở một số bệnh nhân. CÁC NGHIÊN CỨU VỀ VAI TRÒ CỦA XẠ TRỊ ĐỒNG THỜI TRƯỚC MỔ Trên thế giới, có nhiều nghiên cứu về vai trò của xạ trị với ung thư trực tràng như đã trình bày ở trên và thấy không có lợi ích của xạ trị với ung thư giai đoạn I, với ung thư giai đoạn II, III có một số nghiên cứu uy tín quan trọng chỉ ra lợi ích của xạ trị và cách thức phối hợp. Nghiên cứu “Hóa xạ trị đồng thời trước mổ ung thư trực tràng: phân tích kết quả lâm sàng qua 13 năm kinh nghiệm”của nhóm tác giả từ Trung tâm Y tế Đại học Duke, Durham, North Carolina, Mỹ. Thiết kế nghiên cứu: Hồi cứu 141 bệnh nhân ung thư trực tràng được hóa xạ đồng thời trước mổ. Tiêu chí đánh giá chính gồm tỷ lệ giảm giai đoạn, tỷ lệ bảo tồn cơ thắt, và tỷ lệ đáp ứng hoàn toàn về mặt giải phẫu bệnh (đưa về pT0 - tức sau hóa xạ chuyển mổ thì không còn bướu), tỷ lệ sống còn toàn bộ sau 5 năm (OS) Kết quả: Kết quả đáp ứng về bướu: Sau hóa xạ trị đồng thời có 61 bệnh nhân được đánh giá bằng siêu âm qua đường trực tràng và MRI thấy: 40% của khối TỔNG QUAN TÀI LIỆU 109 bướu T2, 55,6% của khối bướu T3 và 100% bệnh nhân khối bướu T4 được giảm giai đoạn. Kết quả đáp ứng hạch: 75% của hạch N1 và 75% bệnh nhân hạch N2 được giảm giai đoạn về N0. Nhìn chung, xem xét cả giai đoạn T và N: có 57% được giảm giai đoạn bằng phác đồ hóa xạ trị đồng thời trước phẫu thuật. Trong số những bệnh nhân giai đoạn II có 26% sau mổ đạt được đáp ứng hoàn toàn về giải phẫu bệnh (tức pT0) bệnh nhân giai đoạn III 20% đáp ứng về pT0 . Bảng 2: Kết quả giảm giai đoạn bướu hạch sau hóa xạ đồng thời trước mổ TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 8 - 12/2016 110 Về tỷ lệ bảo tồn cơ thắt nhóm tác giả ghi nhận tỷ lệ bảo tồn trước năm 1996 là 20% và sau năm 1996 là 76% (vì từ năm 1996 tại trung tâm đã bắt đầu triển khai phẫu thuật căt trước thấp (LAR, TME). Về OS sau 5 năm lần lượt là 74% và 78 % không thấy có lợi ích sống còn. Nghiên cứu “ Hiệu quả kiểm soát tái phát tại chỗ lâu dài của hóa xạ đồng thời trước mổ ung thư trực tràng giai đoạn T3” của nhóm tác giả từ Trung tâm ung thư Anderson MD Texas, Houston, Texas, Mỹ. Thiết kế nghiên cứu Hồi cứu 431 bệnh nhân có chẩn đoán ung thư trực tràng giai đoạn T3 được hóa xạ đồng thời phân liều chuẩn trước mổ, trong số đó có 26 bệnh nhân thực hiện phẫu thuật Miles và 405 bệnh nhân được phẫu thuật TME, mục tiêu là đánh giá tái phát tại chỗ sau thời gian theo dõi trung bình 46 tháng. Kết quả Tái phát tại chỗ ở nhóm phẫu thuật Miles là 6%, nhóm phẫu thuật TME là 8,5% sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Khi phân tích riêng các bệnh nhân có đáp ứng đầy đủ với hóa xạ đồng thời trước phẫu thuật ( T0) thì tỷ lệ tái phát tại chỗ là 6%. Về sống còn toàn bộ sau 5 năm giữa nhóm phẫu thuật Miles và TME lần lượt là 85% và 81%, ở nhóm có đáp ứng đầy đủ với hóa xạ đồng thời trước mổ là 85%. Nghiên cứu “ So sánh hiệu quả kiểm soát tại chỗ điều trị bổ trợ trước mổ với sau mổ ung thư trực tràng : kết quả bước đầu từ những nghiên cứu của Đức” của Rofl Sauer , Đức. Thiết kế nghiên cứu: Tổng 805 bệnh nhân ung thư trực tràng có khối u T3-T4 được phân ngẫu nhiên hóa xạ đồng thời trước (405) hoặc sau (400) phẫu thuật. Khoảng cách giữa hóa xạ và phẫu thuật là 6-8 tuần. Tiêu chí chính là đánh giá sống còn toàn bộ (OS), tái phát tại chỗ, tỷ lệ bảo tồn cơ thắt, tỷ lệ đáp ứng hoàn toàn về mô học sau hóa xạ đồng thời (HXĐT) trước mổ (pT0), theo dõi trung bình 43 tháng. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 111 Kết quả: Bảng 3: Kết quả nghiên cứu CAO/CARO/AIO của Rolf Sauer. CAO/CARO/ AIO pT0N0 sau HXĐT Tỷ lệ bảo tồn cơ thắt Tỷ lệ tái phát tại chỗ sau 5 năm Sống còn 5 năm (OS) HXĐT sau mổ (400) 19 % 12% 73% HXĐT trước mổ (405) 8% 39% (p=0.04) 6% (p=0.02) 78% (p=0.38) KHUYẾN CÁO MỚI NHẤT CỦA NCCN VỀ ĐIỀU TRỊ UNG THƯ TRỰC TRÀNG GIAI ĐOẠN II, III. Từ những dữ liệu cập nhật và chúng cứ từ các nghiên cứu lâm sàng tổ chức ung thư thế giới đưa ra hướng dẫn mới nhất cho ung thư trực tràng giai đoạn II, III như sau. TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 8 - 12/2016 112 Theo bản cập nhật mới nhất này với bướu giai đoạn II, III có 3 lựa chọn chính: Lựa chọn hàng đầu: Hóa xạ trị đồng thời phân liều chuẩn với capecitabin hoặc 5FU truyền liên tục (khuyến cáo mức 1) hoặc với 5FU bolus +/- Leucovorin trước , phẫu thuật sau. Lựa chọn thứ hai: Xạ trị giảm phân liều (không khuyến cáo cho bướu T4), phẫu thuật sau. Hóa trị: FOLFOX hoặc CAPEOX, 5FU hoặc Capecitabine: khuyến cáo này cho các bướu lan rộng vùng chậu mà khả năng phẫu thuật hay xạ trị là khó khăn. *Bằng chứng khuyến cáo mức 2A (ngoại trừ phần trích dẫn riêng mức 1) KẾT LUẬN Điều trị ung thư trực tràng giai đoạn II, III cần phải phối hợp đa mô thức trong đó vai trò của phẫu thuật vẫn là chủ đạo tuy nhiên các bằng chứng từ những nghiên cứu lâm sàng và hướng dẫn của tổ chức ung thư thế giới (NCCN) khuyến cáo mạnh cho hóa xạ trị đồng thời trước mổ. Hóa xạ trị đồng thời trước mổ có lợi ích trong giúp giảm giai đoạn bệnh, dễ cắt trọn, bướu nhạy xạ hơn, trường chiếu xạ hẹp hơn ít làm tổn thương cơ quan lành hơn so với xạ trị sau mổ. Độc tính của điều trị hóa xạ đồng thời thấp và tỷ lệ biến chứng phẫu thuật có thể chấp nhận được. TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Mark Bonne,MD et al (2001). Long-term results using local excision after preoperative chemoradiation among selected T3 rectal cancer patients. Radiation Oncology Biology Phycics , November 15, 2004, volume 60. Issue 4. Pages 1098-1105. 2. Mark W. Onaitis, MD et al (2001). Neoadjuvant Chemoradiation for Rectal Cancer: Analysis of Clinical Outcomes From a 13-Year Institutional Experience. Annals of Sugrey. 2001 Jun; 233 (6): 778–785. PMCID: PMC1421320. 3. Rolf Sauer, M.D. Adjuvant versus Neoadjuvant Combined Modality Treatment for Locally Advanced Rectal Cancer: First Results of the German Rectal Cancer Study (CAO/ ARO/AIO-94). Radiation Oncology Biology Phycics , October 1, 2003, volume 57. Issue 2. Supplement, Pages S124-S125. 4. National Comprihensive Cancer Netwrok, Guidelines for treatment version 2.2017. (https://www.nccn. org/professionals/physician_gls/pdf/ rectal.pdf).
File đính kèm:
vai_tro_cua_hoa_xa_tri_dong_thoi_truoc_mo_ung_thu_truc_trang.pdf

