Vai trò của HLA-DR trên bạch cầu đơn nhân ở bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết và sốc nhiễm khuẩn
Đặt vấn đề: HLA-DR trên bạch cầu đơn nhân (BCĐoN) có chức năng trình diện kháng nguyên cho tế bào
T CD4+, nhiều nghiên cứu cho thấy giảm biểu hiện HLA-DR trên BCĐoN ở bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết/sốc
nhiễm khuẩn (NKH/SNK) có liên quan đến kết cục xấu.
Mục tiêu: Khảo sát biểu hiện cũng như đánh giá vai trò tiên lượng của HLA-DR trên BCĐoN ở bệnh nhân
NKH/SNK.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu quan sát hồi cứu trên các bệnh nhân nhập khoa ICU
- bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 01/2019 - 02/2020, được chẩn đoán NKH/SNK (theo tiêu chuẩn SCCM 2016) và
được thực hiện xét nghiệm HLA-DR trên BCĐoN bằng kỹ thuật Flow Cytometry tại thời điểm T0 và T48.
Bạn đang xem tài liệu "Vai trò của HLA-DR trên bạch cầu đơn nhân ở bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết và sốc nhiễm khuẩn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò của HLA-DR trên bạch cầu đơn nhân ở bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết và sốc nhiễm khuẩn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Hồi Sức Cấp Cứu – Nhiễm 84 VAI TRÒ CỦA HLA-DR TRÊN BẠCH CẦU ĐƠN NHÂN Ở BỆNH NHÂN NHIỄM KHUẨN HUYẾTVÀ SỐC NHIỄM KHUẨN Thái Minh Cảnh1, Phạm Thị Ngọc Thảo1, Phạm Minh Huy2, Nguyễn Lý Minh Duy2, Nguyễn Thị Thanh Trang2, Nguyễn Bá Duy2, Huỳnh Thị Thu Hiền2 TÓM TẮT Đặt vấn đề: HLA-DR trên bạch cầu đơn nhân (BCĐoN) có chức năng trình diện kháng nguyên cho tế bào T CD4+, nhiều nghiên cứu cho thấy giảm biểu hiện HLA-DR trên BCĐoN ở bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết/sốc nhiễm khuẩn (NKH/SNK) có liên quan đến kết cục xấu. Mục tiêu: Khảo sát biểu hiện cũng như đánh giá vai trò tiên lượng của HLA-DR trên BCĐoN ở bệnh nhân NKH/SNK. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu quan sát hồi cứu trên các bệnh nhân nhập khoa ICU - bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 01/2019 - 02/2020, được chẩn đoán NKH/SNK (theo tiêu chuẩn SCCM 2016) và được thực hiện xét nghiệm HLA-DR trên BCĐoN bằng kỹ thuật Flow Cytometry tại thời điểm T0 và T48. Kết quả: 55 bệnh nhân NKH/SNK được đưa vào nghiên cứu gồm 24 trường hợp sống và 31 trường hợp tử vong. HLA-DR trên BCĐoN tại T0 và T48 có giá trị lần lượt là 2433 (1439 – 3838) phân tử/tế bào và 2347 (1449 – 4094) phân tử/tế bào. HLA-DR T48 ở nhóm tử vong là 1759,5 (1216,5 – 3320) phân tử/tế bào thấp hơn nhóm sống 3240 (1984 – 5248) phân tử/tế bào (p = 0,023). HLA-DR T48 có khả năng tiên lượng tử vong với AUC= 0,679, ngưỡng cắt 1964 phân tử/tế bào cho độ nhạy 77,4%, độ đặc hiệu 62,5%, giá trị tiên đoán dương 72,7% và giá trị tiên đoán âm 68,2%. Kết luận: Giảm biểu hiện HLA-DR trên BCĐoN liên quan với tiên lượng xấu, tăng tỷ lệ tử vong. HLA- DR T48 có khả năng tiên lượng tử vong với AUC = 0,679. Tại ngưỡng cắt 1964 phân tử/tế bào cho độ nhạy và độ đặc hiệu ở mức độ khá. Từ khóa: nhiễm khuẩn huyết, tình trạng ức chế miễn dịch, HLA-DR ABSTRACT THE VALUE OF HLA-DR EXPRESSION ON MONOCYTE IN SEPSIS AND SEPTIC SHOCK Thai Minh Canh, Pham Thi Ngoc Thao, Pham Minh Huy, Nguyen Ly Minh Duy, Nguyen Thi Thanh Trang, Nguyen Ba Duy, Huynh Thi Thu Hien * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No 1- 2021: Background: HLA-DR on monocyte has the function of presenting antigen for T CD4+ cells, many studies showed that a decrease in HLA-DR expression on monocyte in sepsis/septic shock was related to poor outcome. Objectives: To observe the expressionlevel of HLA-DR on monocyte and the correlation with prognosis in sepsis and septic shock. Method: A retrospective observational study was conducted on sepsis/septic shock patients (defined as criteria of SCCM 2016) admitted to ICU Department – Cho Ray hospital from January 2019 to February 2020 and were tested to measure the HLA-DR expression levelby Flow Cytometry technique on the 1st day and the 3rd day after admission. 1Bộ môn Hồi sức - Cấp cứu - Chống độc, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 2Khoa Hồi sức Cấp cứu, Bệnh viện Chợ Rẫy Tác giả liên lạc: BS.Thái Minh Cảnh ĐT: 0386654373 Email:[email protected] Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Chuyên Đề Hồi Sức Cấp Cứu – Nhiễm 85 Result: 55 patientswere enrolled, including 24 patients in the survival group and 31 patients in the death group. The value of HLA-DR expression on monocyte at T0 and T48 was 2433 (1439 – 3838) molecules/cell and 2347 (1449 – 4094) molecules/cell, respectively. The death group had a significantly lower HLA-DR expression than the survivor group (p = 0.023) at T48, which was 1759.5 (1216.5 –3320) molecules/cell and 3240 (1984 – 5248) molecules/cell, respectively. HLA-DR T48 had the ability to predict mortality in sepsis/septic shock with AUC = 0.679. The cut-off of 1964 molecules/cell showed the sensitivity 77.4%, the specificity 62.5%, the PPV 72.7% and the NPV 68.2%. Conclusion: The decrease in HLA-DR expression on monocyte is related to poor prognosis and mortality in sepsis/septic shock. HLA-DR T48 has the ability to predict mortality with AUC = 0.679, the cut-off of 1964 molecules/cell showsthe mean sensitivity and specificity. Key words: sepsis, immunosuppression, HLA-DR expression ĐẶT VẤN ĐỀ Nhiễm khuẩn huyết (NKH) và sốc nhiễm khuẩn (SNK) là một trong những nguyên nhân tử vong hàng đầu ở bệnh nhân nằm hồi sức(1). Chậm trễ chẩn đoán làm tổn thương đa cơ quan, dẫn đến kết cục xấu và tăng chi phí điều trị. Tuy nhiên, việc chẩn đoán và tiên lượng bệnh còn gặp nhiều thách thức. Do đó, cần có một chỉ dấu sinh học với độ nhạy, độ đặc hiệu cao để góp phần chẩn đoán sớm cũng như giúp tiên lượng bệnh chính xác. Trước đây, NKH được xem là tình trạng đáp ứng viêm quá mức, kéo dài của cơ thể. Tuy nhiên, sự hiểu biết rõ hơn về cơ chế bệnh sinh hiện nay cho thấy NKH gồm 2 quá trình phức tạp diễn ra song song, bao gồm giai đoạn đáp ứng viêm hệ thống (SIRS) và đáp ứng kháng viêm bù trừ (CARS). Giai đoạn CARS liên quan với tình trạng ức chế miễn dịch, đặc trưng bởi giảm chức năng tế bào đơn nhân, sản sinh các yếu tố trung gian kháng viêm và sự điều hòa xuống của đáp ứng viêm. Giảm chức năng tế bào đơn nhân biểu hiện bằng giảm phóng thích các chất oxy hóa, giảm trình diện kháng nguyên và giảm biểu hiện HLA-DR. HLA-DR là một phần của kháng nguyên phức hợp phù hợp mô chính lớp II, nằm trên nhiễm sắc thể số 6, có chức năng trình diện kháng nguyên đã được xử lí cho tế bào T CD4+ để khởi động đáp ứng miễn dịch đặc hiệu giúp đào thải các tác nhân gây bệnh. Ở người khỏe mạnh, BCĐoN biểu hiện hơn 90% HLA-DR. Ở bệnh nhân NKH, BCĐoN giảm biểu hiện HLA- DR phản ánh tình trạng ức chế miễn dịch của cơ thể. Cho đến nay, nhiều công trình nghiên cứu về HLA-DR trên BCĐoN ở bệnh nhân NKH đã được công bố, tuy nhiên, các kết quả còn trái ngược nhau(2). Dó đó, chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm khảo sát biểu hiện cũng như đánh giá vai trò tiên lượng của HLA-DR trên BCĐoN ở bệnh nhân NKH/SNK. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Chọn các bệnh nhân nhập ICU được chẩn đoán NKH/SNK (theo tiêu chuẩn SCCM 2016) trong thời gian từ tháng 01/2019 - 02/2020 và được thực hiện xét nghiệm HLA-DR trên BCĐoN bằng kỹ thuật Flow Cytometry. Tiêu chuẩn loại trừ Dưới 18 tuổi, mang thai, bệnh lý ác tính, suy thận mạn giai đoạn cuối, xơ gan Child C, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính nhóm D, thời gian nằm ICU dưới 48 giờ. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu quan sát hồi cứu. Các bước tiến hành Chúng tôi ghi nhận các thông tin tuổi, giới, bệnh nền, ổ nhiễm, điểm APACHE II, điểm SOFA, kết quả vi sinh, các kết quả xét nghiệm thường quy và giá trị HLA-DR tại thời điểm T0 và T48. Kết cục chính là tử vong tại ICU. Ngoài ra, còn ghi nhận các kết cục khác như thời gian Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Hồi Sức Cấp Cứu – Nhiễm 86 thở máy, thời gian nằm ICU và thời gian nằm viện. Các biến số chính HLA-DR T0 (phân tử/tế bào) là biến liên tục, giá trị HLA-DR trên BCĐoN trong 24 giờ đầu nằm ICU; HLA-DR T48 (phân tử/tế bào) là biến liên tục, giá trị HLA-DR trên BCĐoN sau 48 giờ nằm ICU; tử vong tại ICU là biến nhị phân, gồm 2 giá trị sống và tử vong; nếu bệnh nặng, thân nhân xin đưa về thì được xem là tử vong tại ICU. Cách đo lường Thực hiện chạy mẫu trên hệ thống máy Flow Cytometry. Thu thập và phân tích trên phần mềm FACSDiva. Xử lý số liệu bằng phần mềm Stata. Phương pháp thống kê So sánh 2 nhóm biến định tính bằng phép kiểm chi bình phương; so sánh 2 nhóm biến định lượng bằng phép kiểm Student t đối với phân phối chuẩn, nếu biến định lượng không theo phân phối chuẩn, so sánh 2 nhóm biến bắt cặp bằng kiểm định Wilcoxon hoặc so sánh 2 nhóm biến độc lập bằng kiểm định Mann-Whitney U; phân tích đơn biến và đa biến bằng mô hình hồi quy logistic, tính tỷ số OR; mối tương quan giữa 2 biến định lượng được kiểm định bằng phép kiểm Pearson (phân phối chuẩn) hoặc Spearman (không theo phân phối chuẩn); dùng đường cong ROC và diện tích dưới đường cong AUC để đánh giá khả năng tiên lượng của các biến số; điểm cắt tốt nhất được xác định thông qua chỉ số Youden; các phép so sánh, hệ số tương quan có ý nghĩa thống kê khi p <0,05. Y đức Nghiên cứu này được thông qua bởi Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Đại học Y Dược TP. HCM, số 109/HĐĐĐ-ĐHYD, ngày 14/02/2020. KẾT QUẢ Đặc điểm của dân số nghiên cứu Dân số nghiên cứu có tuổi trung vị là 60 (51– 73) và nam giới chiếm tỷ lệ 54,5%. Trong đó, 72,7% BN có bệnh nền kèm theo. Tại thời điểm nhập ICU, dân số nghiên cứu có điểm APACHE II trung vị là 22 (17–27) và điểm SOFA trung vị là 9 (7–12). Không có sự khác biệt về tuổi, giới tính, bệnh nền, điểm APACHE II và điểm SOFA tại thời điểm T0 giữa nhóm sống và nhóm tử vong. Sau 48 giờ nằm ICU, dân số nghiên cứu có điểm SOFA T48 trung vị là 7 (4–11), trong đó, nhóm tử vong có điểm SOFA T48 cao hơn so với nhóm sống với giá trị lần lượt là 11 (7,5–13,5) và 6 (3–8), p <0,001 (Bảng 1). Bảng 1: Đặc điểm chung của dân số nghiên cứu TỔNG N = 55 Nhóm sống (n = 31) Nhóm tử vong (n = 24) Giá trị p Giới nam (%,n) 54,5 (30) 51,6 (16) 58,3 (14) 0,620(*) Tuổi 60 (51 – 73) 59 (47 – 73) 61,5 (54 – 68,5) 0,552(**) Có bệnh nền (%,n) 72,7 (40) 74,2 (23) 83,3 (20) 0,345(*) APACHE II 22 (17 – 27) 21 (17 – 24) 24 (17 – 29,5) 0,07(**) SOFA T0 9 (7 – 12) 9 (6 – 11) 11 (8 – 13) 0,07(**) SOFA T48 7 (4 – 11) 6 (3 – 8) 11 (7,5–13,5) <0,001(**) (*) Kiểm định Chi square (**)Kiểm định Mann-Whitney U Giá trị HLA-DR trên BCĐoN Bảng 2: Giá trị HLA-DR trên BCĐoN TỔNG N = 55 Nhóm sống (n = 31) Nhóm tử vong (n = 24) Giá trị p HLA-DR T0 (phân tử/tế bào) 2433 (1439–3838) 2618 (1558–3978) 2140,5 (1126,5–3339) 0,308 HLA-DR T48 (phân tử/tế bào) 2347 (1449–4094) 3240 (1984–5248) 1759,5 (1216,5–3320) 0,023 Kiểm định Mann-Whitney U Tại thời điểm nhập ICU, dân số nghiên cứu có giá trị HLA-DR trung vị là 2433 (1439–3838) (phân tử/tế bào), không có sự khác biệt giữa nhóm sống và nhóm tử vong (p=0,308). Sau 48 giờ nằm ICU, dân số nghiên cứu có giá trị HLA- DR trung vị là 2347 (1449–4094) (phân tử/tế bào), trong đó, nhóm tử vong có giá trị HLA-DR thấp hơn nhóm sống với giá trị lần lượt là 1759,5 (1216,5–3320) (phân tử/tế bào) và 3240 (1984– 5248) (phân tử/tế bào) với p=0,023 (Bảng 2). Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Chuyên Đề Hồi Sức Cấp Cứu – Nhiễm 87 Tương quan giữa HLA-DR trên BCĐoN với các thang điểm đánh giá độ nặng Tại thời điểm nhập ICU, giá trị HLA-DR không có mối tương quan với điểm APACHE II và điểm SOFA T0 (Bảng 3, Hình 1). Bảng 3: Tương quan giữa HLA-DR với điểm APACHE II và SOFA tại thời điểm T0 Hệ số tương quan r Giá trị p HLA-DR T0 APACHE II -0,2 0,140 HLA-DR T0 SOFA T0 -0,24 0,081 Kiểm định Spearman Hình 1: Tương quan giữa HLA-DR với điểm SOFA tại thời điểm T48 Giá trị tiên lượng tử vong của HLA-DR trên BCĐoN Hình 2: Đường cong ROC của HLA-DR T48, SOFA T48, PCT T48 và Lactate T48 trong tiên lượng tử vong HLA-DR T48 có khả năng tiên lượng tử vong tốt hơn HLA-DR T0 và ΔHLA-DR với AUC=0,679 (KTC 95%, 0,540–0,799). Tại ngưỡng cắt 1964 phân tử/tế bào, HLA-DR T48 có khả năng tiên lượng tử vong với độ nhạy 77,4%, độ đặc hiệu 62,5%, giá trị tiên đoán dương 72,7% và giá trị tiên đoán âm 68,2% (Bảng 4, Hình 2). Bảng 4: Giá trị tiên lượng tử vong của HLA-DR trên BCĐoN AUC Khoảng tin cậy 95% HLA-DR T0 (phân tử/tế bào) 0,581 0,440 – 0,712 HLA-DR T48 (phân tử/tế bào) 0,679 0,540 – 0,799 ΔHLA-DR (phân tử/tế bào) 0,620 0,479 – 0,747 Các yếu tố ảnh hưởng đến tử vong Phân tích hồi quy logistic đơn biến cho thấy điểm APACHE II >25, điểm SOFA T48 >8 và giá trị HLA-DR T48 <2000 (phân tử/tế bào) là các yếu tố nguy cơ tăng tỷ lệ tử vong (Bảng 5). Bảng 5: Phân tích hồi quy logistic đơn biến các yếu tố ảnh hưởng tử vong Biến số OR KTC 95% Giá trị p Tuổi ≥ 60 1,49 0,51-4,37 0,465 Giới nam 1,31 0,45-3,84 0,620 Bệnh nền (CCI>2) 2,95 0,95-9,12 0,061 APACHE II >25 3,71 1,06-13,0 0,040 SOFA T0 >8 2,28 0,74-7,03 0,153 SOFA T48 >8 15,6 4,12-59,0 <0,001 HLA-DR T0 <1500 (phân tử/tế bào) 1,71 0,52-5,67 0,377 HLA-DR T48 <2000 (phân tử/tế bào) 4,79 1,51-15,20 0,008 ∆HLA-DR <0 2,1 0,70-6,30 0,186 PCT T0 >2 (ng/mL) 0,54 0,11-2,66 0,455 PCT T48 >2 (ng/mL) 0,47 0,13-1,71 0,251 Lactate T0 >2 (mmol/L) 1,15 0,96-1,38 0,130 Lactate T48 >2 (mmol/L) 1,59 0,95-2,67 0,081 Bảng 6: Phân tích hồi quy logistic đa biến các yếu tố ảnh hưởng tử vong tại T48 Biến số OR KTC 95% Giá trị p CCI >2 5,75 1,10 -29,80 0,037 SOFA T48 >8 20,09 3,45-117,09 0,001 HLA-DR T48 <2000 (phân tử/tế bào) 6,43 1,22-33,68 0,028 Lactate T48 >2 (mmol/L) 0,81 0,13-5,03 0,828 Phân tích hồi quy logistic đa biến cho thấy bệnh nền (CCI >2), điểm SOFA T48 >8 và giá trị r = -0,31, p = 0,021 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Hồi Sức Cấp Cứu – Nhiễm 88 HLA-DR T48 <2000 (phân tử/tế bào) là các yếu tố nguy cơ tăng tỷ lệ tử vong (Bảng 6). BÀN LUẬN 55 bệnh nhân NKH/SNK thỏa tiêu chuẩn được đưa vào nghiên cứu, gồm 31 trường hợp tử vong và 24 trường hợp sống. Không có sự khác biệt về tuổi, giới tính, tỷ lệ mắc bệnh nền, điểm APACHE II và điểm SOFA T0 giữa nhóm sống và tử vong. Dân số nghiên cứu của chúng tôi có tuổi trung vị 59 (47–73), phù hợp với độ tuổi trung bình của bệnh nhân NKH trên thế giới khoảng 60 tuổi(3). Tỷ lệ nam/nữ trong nghiên cứu là 1,2/1, trong đó, tỷ lệ tử vong ở nhóm bệnh nhân nam là 46,7% và nhóm bệnh nhân nữ là 40% (p=0,62). Mô hình hồi quy logistic cho thấy tuổi và giới tính không liên quan tử vong. 72,7% bệnh nhân có tiền căn mắc bệnh nền, trong đó, đái tháo đường type 2 và bệnh lý tim mạch được ghi nhận nhiều nhất. Bệnh nền là yếu tố liên quan tử vong, khi CCI >2 thì nguy cơ tử vong tăng 6 lần (p=0,037). Dân số nghiên cứu của chúng tôi có điểm APACHE II trung vị 22 (17– 37) và điểm SOFA T0 trung vị 9 (7–12), gần tương đồng với các nghiên cứu trước đây về NKH như nghiên cứu của tác giả Phạm Thị Ngọc Thảo (2011)(4). Điểm SOFA T48 trong nghiên cứu của chúng tôi là 7 (4–11), trong đó, nhóm tử vong có điểm SOFA T48 là 11 (7,5–13,5) cao hơn nhóm sống là 6 (3–8) với p <0,001. Mô hình hồi quy logistic đa biến cho thấy điểm SOFA T48 là yếu tố liên quan tử vong, khi SOFA T48 >8 thì tăng nguy cơ tử vongkhoảng 20 lần (p=0,001). HLA-DR là một phần của kháng nguyên phức hợp phù hợp mô chính lớp II, nằm trên nhánh ngắn nhiễm sắc thể số 6 và có chức năng trình diện các chuỗi polypeptid đã được xử lý cho tế bào lympho T. Ở người khoẻ mạnh, BCĐoN biểu hiện >90% HLA-DR. Trong NKH, BCĐoN giảm biểu hiện HLA-DR cho thấy quá trình rối loạn miễn dịch với ức chế miễn dịch kéo dài.Biểu hiện HLA-DR trên BCĐoN thay đổi tùy theo nồng độ các cytokine trợ viêm và kháng viêm, đây là những cytokine quan trọng cho quá trình điều hòa đáp ứng của cơ thể trong NKH(5). Trong nghiên cứu của chúng tôi, HLA-DR T0 có giá trị 2433 (1439-3838) phân tử/tế bào, giá trị nhỏ nhất 223 và giá trị lớn nhất 16117 phân tử/tế bào. HLA-DR T48 có giá trị 2347 (1449-4094) phân tử/tế bào, giá trị nhỏ nhất 371 và giá trị lớn nhất 14155 phân tử/tế bào. Tất cả bệnh nhân đã được chẩn đoán NKH cho nên đều có giảm biểu hiện HLA-DR trên BCĐoN so với người bình thường. Tác giả Docke W (2005) phân loại giá trị bình thường của HLA-DR trên BCĐoN là >15000 phân tử/tế bào, khi HLA-DR <5000 phân tử/tế bào cho thấy có tình trạng suy giảm miễn dịch nghiêm trọng(6). Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận biểu hiện HLA-DR trên BCĐoN không có mối tương quan với thang điểm APACHE II (p=0,14). Tác giả Perry SE (2003) cũng ghi nhận HLA-DR không có mối tương quan với điểm APACHE II. Khi tác giả chia mẫu nghiên cứu thành 2 nhóm, gồm nhóm có biểu hiện HLA-DR trên BCĐoN >30% và ≤30%, kết quả cho thấy không có sự khác biệt về điểm APACHE II giữa 2 nhóm (p=0,36)(7). Ngược lại, nghiên cứu của Wang J (2018) cho thấy HLA-DR có mối tương quan nghịch, mạnh với điểm APACHE II (r=-0,91, p=0,032)(8). Chúng tôi ghi nhận HLA-DR T48 có mối tương quan nghịch với SOFA T48, tuy nhiên, mối tương quan này khá yếu với r=-0,31, p=0,021 và ∆HLA- DR cũng có mối tương quan nghịch, yếu với ∆SOFA (r=-0,27, p=0,043). Giá trị của HLA-DR đã được nghiên cứu khá nhiều, hầu hết các tác giả đều thừa nhận có sự giảm biểu hiện HLA-DR trên BCĐoN ở bệnh nhân NKH, đặc biệt ở nhóm tử vong. Chúng tôi ghi nhận HLA-DR T48 ở nhóm tử vong thấp hơn nhóm sống (p=0,023). Mô hình hồi quy logistic cho thấy HLA-DR T48 là một yếu tố tiên đoán tử vong, khi HLA-DR T48 <2000 phân tử/tế bào thì nguy cơ tử vong tăng 6,4 lần. Đường cong ROC cho thấy HLA-DR T48 có khả năng tiên lượng tử vong tốt hơn HLA-DR T0 và ∆HLA-DR với AUC=0,679, ngưỡng cắt 1964 phân tử/tế bào cho độ nhạy 77,42%, độ đặc hiệu Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Chuyên Đề Hồi Sức Cấp Cứu – Nhiễm 89 62,5%, giá trị tiên đoán dương 72,7% và giá trị tiên đoán âm 68,2%. Nghiên cứu của Wang J (2018) ghi nhận HLA-DR có khả năng tiên lượng tử vong với AUC=0,91, độ nhạy 83,5% và độ đặc hiệu 82%(8). Nghiên cứu của Genel F (2010) trên trẻ sơ sinh NKH muộn cho thấy có hiện tượng giảm biểu hiện HLA-DR ở nhóm tử vong so với nhóm sống, với giá trị lần lượt là 16,6% và 45,2% (p <0,05). Đường cong ROC cho thấy HLA-DR có khả năng tiên lượng tử vong với AUC=0,89. Điểm cắt tối ưu là 30% cho độ nhạy 87,5% và độ đặc hiệu 81,3%, nguy cơ tử vong gấp 30 lần khi HLA-DR <30%(9). Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu khác đã cho kết luận trái ngược. Tác giả Oczenski W khảo sát trên bệnh nhân phẫu thuật tim chương trình đã kết luận rằng việc theo dõi HLA-DR trước và ngay sau phẫu thuật không giúp tiên đoán nguy cơ biến chứng nhiễm khuẩn(10). Nghiên cứu của Perry SE cho thấy giảm biểu hiện HLA-DR trên BCĐoN không liên quan với tử vong cũng như độ nặng của bệnh biểu hiện bằng thang điểm APACHE II. Tuy nhiên, tất cả bệnh nhân thuộc nhóm sống mà có giá trị HLA-DR trên BCĐoN <30% đều có thời gian nằm viện dài ngày. Điều này ngụ ý rằng tất cả những bệnh nhân này tuy không tử vong nhưng tình trạng NKH, tổn thương cơ quan của họ khá nghiêm trọng, đòi hỏi cần phải điều trị tại ICU và nằm viện lâu ngày(7). Năm 2006, tác giả Ng PC nghiên cứu trên trẻ sơ sinh nghi ngờ NKH, kết quả cho thấy không có sự khác biệt về HLA-DR giữa trẻ sơ sinh NKH và không NKH. Diện tích dưới đường cong của HLA-DR là 0,52 và không thể xác định điểm cắt tối ưu để chẩn đoán NKH(11). Kết luận giữa các nghiên cứu còn trái ngược nhau bởi nhiều lý do. Một là, đối tượng nghiên cứu không đồng nhất. Hai là, kỹ thuật xét nghiệm và sử dụng kháng thể đơn dòng khác nhau, quy trình và thời điểm lấy mẫu thực hiện xét nghiệm HLA-DR khác nhau(2). Như chúng ta đã biết, NKH gồm 2 quá trình trợ viêm và kháng viêm diễn ra song song. Khi quá trình trợ viêm chiếm ưu thế, HLA-DR biểu hiện trên BCĐoN ở mức bình thường hoặc tăng. Ngược lại, khi quá trình kháng viêm ưu thế, có hiện tượng ức chế sản xuất các hóa chất trung gian trợ viêm, cơ thể bắt đầu gia tăng sản sinh các hóa chất trung gian kháng viêm(12). Nhiều giả thuyết cho rằng chính giai đoạn kháng viêm bù trừ này khiến các tế bào đơn nhân giảm biểu hiện HLA-DR dẫn đến hiện tượng bất hoạt và rối loạn chức năng. Nghiên cứu của chúng tôi còn nhiều hạn chế, đây là nghiên cứu đơn trung tâm, cỡ mẫu nhỏ nên không thể đại diện cho tất cả bệnh nhân NKH. Hy vọng trong tương lai sẽ có thêm nhiều nghiên cứu đa trung tâm, cỡ mẫu lớn để khảo sát đầy đủ hơn giá trịcủa chỉ dấu sinh học tiềm năng này. KẾT LUẬN HLA-DR T48 có khả năng tiên lượng tử vong NKH với AUC = 0,679. Ngưỡng cắt 1964 phân tử/tế bào cho độ nhạy 77,42%, độ đặc hiệu 62,5%, giá trị tiên đoán dương 72,7% và giá trị tiên đoán âm 68,2%. HLA-DR T48 là một yếu tố liên quan kết cục tử vong. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Martin GS (2012). Sepsis, severe sepsis and septic shock: changes in incidence, pathogens and outcomes. Expert Review of Anti-Infective Therapy, 10(6):701-706. 2. Spittler A, Roth E (2003). Is monocyte HLA-DR expression predictive for clinical outcome in sepsis? Intensive Care Medicine, 29:1211-1213. 3. Rhee C, Dantes R (2017). Incidence and trends of sepsis in US hospitals using clinical vs claims data, 2009-2014.JAMA, 318(13):1241-1249. 4. Phạm Thị Ngọc Thảo (2011). Nghiên cứu tình hình điều trị nhiễm khuẩn huyết nặng và sốc nhiễm khuẩn tại các khoa Hồi sức tích cực khu vực châu Á. Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 15(1):550-557. 5. Ohno Y, Kitamura H (2016). IL-6 down-regulates HLA class II expression and IL-12 production of human dendritic cells to impair activation of antigen-specific CD4 (+) T cells. Cancer Immunology Immunotherapy, 65(2):193-204. 6. Docke W, Hoflich C (2005). Monitoring temporary immunodepression by flow cytometric measurement of monocytic HLA-DR expression: multicenter standardized study. Clinical Chemistry, 51(12):2341-2347. 7. Perry SE (2003). Is low monocyte HLA-DR expression helpful to predict outcome in severe sepsis? Intensive Care Medicine, 29(8):1245-1252. 8. Wang J, Li L (2018). Expression of monocyte HLA-DR and blood lactic acid level in patients with sepsis and correlation with prognosis. International Journal of Clinical Experimental Medicine, 11(5):4905-4911. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Hồi Sức Cấp Cứu – Nhiễm 90 9. Genel F (2010). Monocyte HLA-DR expression as predictor of poor outcome in neonates with late onset neonatal sepsis. Journal of Infection, 60(3):224-228. 10. Oczenski W, Krenn H (2003). HLA-DR as a marker for increased risk for systemic inflammation and septic complications after cardiac surgery. Intensive Care Medicine, 29(8):1253-1257. 11. Ng PC (2006). Quantitative measurement of monocyte HLA-DR expression in the identification of early-onset neonatal infection. Neonatology, 89(2):75-81. 12. Haveman J (1999). The central role of monocytes in the pathogenesis of sepsis: consequences for immunomonitoring and treatment. Netherlands Journal of Medicine, 55(3):132-141. Ngày nhận bài báo: 28/11/2020 Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 06/12/2020 Ngày bài báo được đăng: 01/03/2021
File đính kèm:
vai_tro_cua_hla_dr_tren_bach_cau_don_nhan_o_benh_nhan_nhiem.pdf

