Vai trò của giới trong quản lý bảo vệ và phát triển rừng cộng đồng của huyện Nam Đông, Thừa Thiên Huế

TÓM TẮT

Thông qua kết quả phỏng vấn sâu 11 người am hiểu là cán bộ kiểm lâm huyện, trưởng thôn, đại

diện ban quản lý rừng cộng đồng; phỏng vấn 60 hộ dân, vàthảo luận 8 nhóm nam, nữ và trẻ em tại hai

điểm nghiên cứu, đề tài đã xác định được có sự phân biệt giới trong các hoạt động quản lý, bảo vệ và

phát triển rừng cộng đồng ở cả 2 nhóm dân tộc Kinh (xã Hương Lộc) và Cơ tu (xã Thượng Quảng).

Mức độ tham gia của nữ giới và nam giới trong quản lý bảo vệ và phát triển rừng cộng đồng là không

giống nhau và có sự tương đồng giữa 2 nhóm dân tộc. Nam giới thường tham gia vào các hoạt động

quản lý bảo vệ rừng nhiều hơn nữ giới. Nam giới hầu như có quyền tham gia và quyết định tất cả mọi

việc từ gia đình đến ngoài xã hội như: lập kế hoạch, xây dựng quy ước, tuần tra bảo vệ, phát triển rừng

cộng đồng và tham gia lãnh đạo cộng đồng; Trong lúc đó phụ nữ rất ít có cơ hội để tham gia vào các

hoạt động trên, đặc biệt là vị trí quản lý cộng đồng. Sở dĩ có sự khác biệt giới như vậy là do 2 nhân tố

chi phối: định kiến giới và địa vị xã hội. Tuy nhiên, trên cơ sở phân tích kết quả thì sự khác biệt giới

trong hoạt động quản lý bảo vệ rừng và phát triển rừng cộng đồng do địa vị xã hội ở nhóm người Cơ tu

rõ nét hơn ở nhóm người Kinh.

Từ khóa: Địa vị xã hội, Định kiến giới, Giới, Rừng cộng đồng, Nam Đông

pdf 12 trang phuongnguyen 860
Bạn đang xem tài liệu "Vai trò của giới trong quản lý bảo vệ và phát triển rừng cộng đồng của huyện Nam Đông, Thừa Thiên Huế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò của giới trong quản lý bảo vệ và phát triển rừng cộng đồng của huyện Nam Đông, Thừa Thiên Huế

Vai trò của giới trong quản lý bảo vệ và phát triển rừng cộng đồng của huyện Nam Đông, Thừa Thiên Huế
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(1)-2020:1613-1624 
 1613 
VAI TRÒ CỦA GIỚI TRONG QUẢN LÝ BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG CỘNG 
ĐỒNG CỦA HUYỆN NAM ĐÔNG, THỪA THIÊN HUẾ 
Ngô Thị Phương Anh*, Đỗ Thị Thu Ái, Vũ Thị Thùy Trang, 
Lê Thị Phương Thảo, Nguyễn Duy Ngọc Tân 
Khoa Lâm nghiệp, trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế 
*Tác giả liên hệ: ngothiphuonganh@huaf.edu.vn 
Nhận bài:10/08/2019 Hoàn thành phản biện: 05/11/2019 Chấp nhận bài: 30/11/2019 
TÓM TẮT 
Thông qua kết quả phỏng vấn sâu 11 người am hiểu là cán bộ kiểm lâm huyện, trưởng thôn, đại 
diện ban quản lý rừng cộng đồng; phỏng vấn 60 hộ dân, vàthảo luận 8 nhóm nam, nữ và trẻ em tại hai 
điểm nghiên cứu, đề tài đã xác định được có sự phân biệt giới trong các hoạt động quản lý, bảo vệ và 
phát triển rừng cộng đồng ở cả 2 nhóm dân tộc Kinh (xã Hương Lộc) và Cơ tu (xã Thượng Quảng). 
Mức độ tham gia của nữ giới và nam giới trong quản lý bảo vệ và phát triển rừng cộng đồng là không 
giống nhau và có sự tương đồng giữa 2 nhóm dân tộc. Nam giới thường tham gia vào các hoạt động 
quản lý bảo vệ rừng nhiều hơn nữ giới. Nam giới hầu như có quyền tham gia và quyết định tất cả mọi 
việc từ gia đình đến ngoài xã hội như: lập kế hoạch, xây dựng quy ước, tuần tra bảo vệ, phát triển rừng 
cộng đồng và tham gia lãnh đạo cộng đồng; Trong lúc đó phụ nữ rất ít có cơ hội để tham gia vào các 
hoạt động trên, đặc biệt là vị trí quản lý cộng đồng. Sở dĩ có sự khác biệt giới như vậy là do 2 nhân tố 
chi phối: định kiến giới và địa vị xã hội. Tuy nhiên, trên cơ sở phân tích kết quả thì sự khác biệt giới 
trong hoạt động quản lý bảo vệ rừng và phát triển rừng cộng đồng do địa vị xã hội ở nhóm người Cơ tu 
rõ nét hơn ở nhóm người Kinh. 
Từ khóa: Địa vị xã hội, Định kiến giới, Giới, Rừng cộng đồng, Nam Đông 
THE ROLE OF GENDER IN COMMUNITY FOREST MANAGEMENT, 
PROTECTION AND DEVELOPMENT IN NAM DONG DISTRICT, THUA THIEN 
HUE PROVINCE 
Ngo Thi Phuong Anh, Do Thi Thu Ai, Vu Thi Thuy Trang, 
Le Thi Phuong Thao, Nguyen Duy Ngoc Tan 
Faculty of Forestry, University of Agriculture and Forestry, Hue University 
ABSTRACT 
11 knowledgeable people who were district forest rangers, village heads, representatives of 
community forest management boards were thoroughly interviewed; 60 households, 8 groups of men, 
women and children in two research sites were interviewed and discussed; the study identified that there 
was the gender discrimination in community forest management, protection and development activities 
in both 2 groups of Kinh people (Huong Loc commune) and Co tu people (Thuong Quang commune). 
The participation level of women and men was different from these activities, thus there were 
similarities between the two ethnic groups. Men were more involved in forest protection and 
management activities than women. Most men had the rights to participate in and decide everything 
from their families to social activities such as making plans and regulations, patrolling, protecting and 
developing community forest and joining community leadership. At the same time, women had few 
opportunities to participate in these activities, especially community management positions. There were 
gender differences in the community forest management, protection and development activities due to 
two main factors: Gender discrimination and social status. However, based on the analysis of the results, 
there were gender differences in forest protection and development of community forests due to the fact 
that social status in the Cotu group was clearer than the Kinh group. 
Keywords: Community forest, Gender discrimination, Nam Dong, Social status 
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(1)-2020:1613-1624 
1614 Ngô Thị Phương Anh và cs. 
1. MỞ ĐẦU 
Trong những năm gần đây, quản lý 
rừng cộng đồng đã và đang trở thành một 
trong những phương thức quản lý rừng phổ 
biến ở Việt Nam đã mang lại một số hiệu 
quả đáng ghi nhận. 
Nam Đông là một huyện miền núi 
của tỉnh Thừa Thiên Huế đã triển khai giao 
rừng cho các cộng đồng quản lý, sử dụng và 
bước đầu đã có những thành quả nhất định. 
Công tác giao rừng cho cộng đồng quản lý 
bảo vệ được người dân và chính quyền địa 
phương hưởng ứng tích cực, tạo được 
chuyển biến lớn trong cộng đồng dân cư về 
nhận thức trách nhiệm công tác quản lý bảo 
vệ và phát triển rừng; bước đầu đã mang lại 
hiệu quả trong công tác Quản lý bảo vệ 
(QLBV) rừng, hạn chế tình hình xâm hại tài 
nguyên rừng, từng bước xác lập được chủ 
thể quản lý rừng; nâng cao hiệu quả sử dụng 
rừng và đất lâm nghiệp, tạo điều kiện cho 
hộ gia đình yên tâm sử dụng đất và đầu tư 
vào các hoạt động làm giàu rừng, góp phần 
bảo vệ môi trường sinh thái, bảo tồn đa dạng 
sinh học (Hạt kiểm lâm huyện Nam Đông, 
năm 2017). Tuy nhiên, một trong những vấn 
đề bất cập trong quản lý rừng cộng đồng ở 
đây chưa được quan tâm nghiên cứu đó là 
sự bất bình đẳng giới. Ở khu vực miền núi, 
phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong tất cả 
các hoạt động của cộng đồng về khai thác 
và sử dụng các loại sản phẩm có liên quan 
đến rừng nhưng vai trò của họ trong các 
hoạt động về QLBV rừng ít khi nhận được 
sự chú ý đúng mức trong các chương trình 
phát triển rừng. Bên cạnh đó, các quy định 
pháp lý của Việt Nam thường ít đề cập đến 
vai trò và giá trị của người phụ nữ (Lê Thị 
Diên, 2011). Chính vì vậy, sự hạn chế của 
phụ nữ trong việc tham gia quản lý tài 
nguyên rừng cũng như quyền ra quyết định 
đã gây ra rất nhiều khó khăn cho công tác 
QLBV&PTR. Để góp phần làm cơ sở 
hướng tới quản lý bền vững rừng cộng đồng 
nói riêng và nguồn tài nguyên rừng nói 
chung, đề tài nghiên cứu này tập trung vào 
phân tích vai trò của giới trong công tác 
QLBV&PT rừng cộng đồng tại điểm nghiên 
cứu. 
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
2.1. Đối tượng nghiên cứu 
Nghiên cứu được triển khai thực hiện 
ở địa bàn 2 xã Hương Lộc và Thượng 
Quảng, thuộc huyện Nam Đông, tỉnh Thừa 
Thiên Huế. Đây là 2 xã đại diện cho 2 nhóm 
dân tộc Kinh (xã Hương Lộc) và Cơ tu (xã 
Thượng Quảng) được giao rừng cho cộng 
đồng quản lý, bảo vệ và đã mang lại một số 
thành quả nhất định. Tuy nhiên, vấn đề giới 
trong quản lý bảo vệ rừng cộng đồng ở đây 
vẫn chưa được chú trọng. 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
2.2.1. Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp 
- Thu thập các thông tin, số liệu thứ 
cấp từ các báo cáo của Hạt kiểm lâm Nam 
Đông, Ban quản lý rừng huyện Nam Đông; 
UBND xã Hương Lộc và Thượng Quảng. 
- Kế thừa, tham khảo số liệu khoa học 
liên quan đến đề tài nghiên cứu trong các 
bài báo cáo khoa học, tạp chí, trang web, các 
công trình nghiên cứu trong và ngoài nước. 
2.2.2. Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp 
- Phỏng vấn sâu các cán bộ địa 
phương, bao gồm 4 trưởng thôn, 1 cán bộ 
hạt kiểm lâm huyện, 2 kiểm lâm viên địa 
bàn, 4 cán bộ của ban quản lý rừng cộng 
đồng tại địa phương. 
- Phỏng vấn bán cấu trúc 60 người 
dân địa phương tham gia quản lý bảo vệ và 
phát triển rừng cộng đồng tại xã Thượng 
Quảng và xã Hương Lộc. 
- Tiến hành thảo luận 8 nhóm theo 
giới, mỗi nhóm từ 5-8 người: bao gồm 
nhóm 4 nam và 4 nhóm nữ tại Thương 
Quảng và Hương Lộc về khung hoạt động, 
bảng phân công lao động theo giới, khung 
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(1)-2020:1613-1624 
 1615 
tiếp cận và kiểm soát nguồn lực, sơ đồ 
SWOT, các yếu tố ảnh hưởng đến sự khác 
biệt giới trong quản lý, sử dụng và phát triển 
rừng cộng đồng. 
2.2.3. Phương pháp xử lý số liệu 
Số liệu từ thảo luận nhóm được tổng 
hợp vừa làm cơ sở xây dựng bộ câu hỏi 
phỏng vấn cá nhân hộ gia đình và cán bộ 
quản lý. 
Số liệu thu thập qua bảng phỏng vấn 
được chọn lọc, kiểm tra chéo, xử lý và phân 
tích định lượng bằng phần mềm Excel 2010 
nhằm phục vụ cho việc giải thích các sự 
kiện, kết quả nghiên cứu. Kết quả xử lý 
được thể hiện theo dạng phân tích, mô tả, 
bảng và biểu đồ. 
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Giới thiệu chung về địa bàn nghiên 
cứu 
Hương Lộc là xã thuộc miền núi cách 
trung tâm huyện 2 km về phía Đông Nam. 
Theo báo cáo kiểm kê đất đai năm 2017 của 
Huyện Nam Đông, tổng diện tích đất tự 
nhiên của xã là 6.570,28 ha, trong đó diện 
tích đất lâm nghiệp là 6.128,87 ha (gồm: 
4.539,25 ha đất rừng đặc dụng và 1.589,62 
ha đất rừng phòng hộ). Tổng diện tích giao 
đất giao rừng toàn xã tính đến năm 2017 là 
691,582 ha, trong đó giao cho 2 cộng đồng 
(thôn 2 và 3) là 282,36 ha, 4 nhóm hộ: 
400,722 ha và 58 hộ gia đình: 278,5 ha để 
quản lý bảo vệ và phát triển rừng. Đa số diện 
tích đất rừng được giao cho cộng đồng, 
nhóm hộ và hộ gia đình ở trạng thái rừng 
thứ sinh trữ lượng nghèo. 
Thượng Quảng là xã miền núi ở vùng 
thượng nguồn sông Hương, nằm về phía 
Tây của huyện Nam Đông, cách trung tâm 
thị trấn Khe Tre khoảng 16 km về hướng 
Đông. Theo số liệu thống kê năm 2017, tổng 
diện tích đất tự nhiên của xã Thượng Quảng 
là 15.522,35 ha, trong đó diện tích đất lâm 
nghiệp chiếm 14.320,94 ha, hơn gấp 2 lần 
xã Hương Lộc, bao gồm đất rừng phòng hộ 
5.153,03 ha, đất rừng đặc dụng 4.568,16 ha, 
đất rừng sản xuất 4.599,75 ha. Toàn xã đến 
năm 2017 đã giao được 863,80 ha, trong đó 
giao cho 4 cộng đồng dân cư thôn với diện 
tích 475,30 ha và 6 nhóm hộ với diện tích 
388,50 ha. Phần lớn diện tích rừng tự nhiên 
giao cho cộng đồng, nhóm hộ là rừng sản xuất 
với trạng thái rừng nghèo, tổ thành loài cây 
chủ yếu là ươi, chò, đào, trám. 
3.2. Vai trò của giới trong quản lý, bảo vệ 
và phát triển rừng cộng đồng tại điểm 
nghiên cứu 
3.2.1. Sự tham gia của giới trong các hoạt 
động quản lý, bảo vệ và phát triển rừng 
cộng đồng 
Kết quả nghiên cứu cho thấy vai trò 
của nam và nữ giới trong quản lý bảo vệ và 
phát triển rừng cộng đồng là không giống 
nhau và có sự tương đồng giữa 2 nhóm dân 
tộc. Nam giới thường tham gia vào các hoạt 
động quản lý bảo vệ rừng nhiều hơn nữ giới, 
nam giới hầu như có quyền quyết định tất 
cả mọi việc từ trong gia đình đến ngoài xã 
hội. Qua điều tra tại địa bàn nghiên cứu 
được kết quả thể hiện ở Biểu đồ 1. 
Biểu đồ 1 cho thấy: người dân của 
cả 2 nhóm dân tộc đều tham gia hầu hết 
các hoạt động quản lý bảo vệ và phát triển 
rừng cộng đồng.Tuy nhiên, phụ nữ ở dân 
tộc Kinh và Cơ tu rất ít khi tham gia các hoạt 
động QLBVR, họ chiếm tỷ lệ tham gia rất 
thấp, thường dưới 20%, trong khi đó nam 
giới tham gia trên 50%. Nữ giới thường chỉ 
tham gia các hoạt động trồng, vệ sinh, chăm 
sóc rừng, họ ít tham gia vào các hoạt động 
tuần tra bảo vệ rừng. Kết quả phỏng vấn sâu 
các thành viên ban quản lý rừng và thông qua 
thảo luận nhóm người dân cho biết: do 
khoảng cách từ nhà đến rừng cộng đồng khá 
xa, phụ nữ không đủ sức khỏe, đường núi 
dốc, nhiều khe đá rất nguy hiểm nên đã hạn 
chế sự tham gia của nữ giới. Ở đây trừ khi 
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(1)-2020:1613-1624 
1616 Ngô Thị Phương Anh và cs. 
nam giới trong gia đình bận không đi được 
thì nữ giới mới đi thay nhưng đa số rất ít. 
Ngoài ra, nữ giới phải đảm đương các công 
việc nhà như nội trợ, dọn dẹp nhà cửa, lo cho 
con cái nên họ thường bị hạn chế trong việc 
quản lý và khai thác các nguồn lợi từ rừng. 
Biểu đồ 1.Sự tham gia của giới trong các hoạt động liên quan đến QLBV RCĐ 
3.2.2. Sự phân công lao động theo giới 
trong các hoạt động quản lý, bảo vệ và phát 
triển RCĐ 
Để thấy rõ sự phân công lao động 
theo giới trong các hoạt động quản lý, bảo 
vệ và phát triển RCĐ tại xã Hương Lộc và 
xã Thượng Quảng, đề tài đã tiến hành phân 
tích công cụ Bảng phân công lao động theo 
giới và kết quả thể hiện ở Bảng 1. 
Qua số liệu ở Bảng 1 có thể thấy sự 
phân công lao động theo giới trong quản lý 
bảo vệ và phát triển rừng cộng đồng tại các 
thôn nghiên cứu đều có sự tham gia của nam 
giới và nữ giới. Tuy nhiên, đa số trong các 
hoạt động xây dựng quy ước, tuần tra rừng, 
phòng cháy chữa cháy, khai thác Lâm sản 
ngoài gỗ (LSNG), bắt giữ vi phạm nam giới 
tham gia nhiều hơn nữ giới. Nữ giới thường 
tham gia nhiều hơn nam giới trong các hoạt 
động chăm sóc, gieo ươm cây giống do đòi 
hỏi sự tỉ m. Phụ nữ phải tham gia vào rất 
nhiều các hoạt động, từ hoạt động sản xuất 
để tạo ra thu nhập đến các hoạt động xã hội 
và đặc biệt là tham gia vào các công việc 
được coi là “trách nhiệm, thiên chức” như 
chăm sóc gia đình, nội trợ, nấu ăn, giặt quần 
áo, dọn dẹp nhà cửa, chăm sóc người già, 
nên hạn chế phụ nữ trong tất cả các hoạt 
động quản lý bảo vệ và phát triển rừng cộng 
đồng. 
Đơn vị: % 
Đơn vị: % 
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(1)-2020:1613-1624 
 1617 
Bảng 1. Phân công lao động theo giới trong hoạt động QLBV&PT rừng cộng đồng 
Hoạt động 
Xã Hương Lộc Xã Thượng Quảng 
Giới Thờiđiểm Tần suất Giới Thờiđiểm Tần suất 
Xây dựng quy ước 
QLBV&PTRCĐ 
Nam/Nữ 2011 1 lần Nam/Nữ 
Khi nhận 
RCĐ 
1 lần 
Tuần tra rừng Nam/Nữ 
Quanh 
năm 
4 
lần/tháng 
Nam/Nữ 
Quanh 
năm 
2-3 
lần/tháng 
Chăm sóc, vệ sinh 
rừng 
Nữ/Nam 
Quanh 
năm 
Tùy 
thuộc 
điều kiện 
rừng 
Nam/Nữ 
Quanh 
năm 
3 lần/ 
tháng 
Trồng phục hồi rừng Nam+Nữ 
Sau ươm 3 
tháng 
2 lần từ 
khi nhận 
Rừng 
Toàn 
thôn 
3 tháng/ 
lần 
3 tháng/ 
lần 
Khai thác LSNG Nam/Nữ 
Quanh 
năm 
 Nam/Nữ 
Quanh 
năm 
Phòng cháy chữa cháy 
rừng 
Nam/Nữ Mùa hè 
Toàn 
thôn 
Mùa hè 
Bắt giữ đối tượng vi 
phạm tài nguyên rừng 
Nam/Nữ 
Khi đi tuần 
tra 
 Nam 
Không cố 
định 
Xử lý vi phạm x x x Nam 
Không cố 
định 
 Nguồn: Tổng hợp kết quả thảo luận nhóm (2019) 
Nữ/Nam: Nữ tham gia nhiều hơn Nam Nam/Nữ: Nam tham gia nhiều hơn Nữ 
 Nam + nữ: Cả Nam và Nữ tham gia ngang nhau 
3.2.3. Vị trí của nam và nữ trong ban quản 
lý rừng cộng đồng 
Vai trò cộng đồng của giới bao gồm 
vai trò tham gia cộng đồng và lãnh đạo cộng 
đồng. Đối với vai trò tham gia cộng đồng, 
cả nam và nữ đều tham gia các hoạt động 
họp thôn để xây dựng quy ước hay lập kế 
hoạch quản lý bảo vệ rừng. Tuy nhiên, 
người chồng vẫn tham gia thường xuyên 
hơn, người vợ chỉ tham gia khi chồng bận 
hoặc không có ở nhà. Do đó, người phụ nữ 
thường ít được tham gia vào các hoạt động 
trong thôn, họ luôn cho rằng việc xã hội, 
việc cộng đồng họp hành là việc của đàn 
ông, cũng giống như việc bảo vệ rừng là 
việc của đàn ông, việc nội trợ, chăm sóc gia 
đình, con cái là việc của phụ nữ. Đối với vai 
trò lãnh đạo cộng đồng, vị trí của người dân 
khi tham gia trong ban quản rừng cộng đồng 
cho thấy vị trí của giới trong các hoạt động 
liên quan đến quản lý bảo vệ rừng cộng 
đồng. Cụ thể ở Bảng 2. 
Bảng 2. Vị trí của nam và nữ tham gia trong ban quản lí bảo vệ rừng cộng đồng 
Chức vụ 
Xã Hương Lộc Xã Thượng Quảng 
Thành phần tham gia Thành phần tham gia 
Nam Nữ Nam Nữ 
Trưởng ban x x 
Phó trưởng ban x x 
Thủ quỹ x x 
Tổ trưởng x x 
Thành viên x x x 
Nguồn: Tổng hợp từ phiếu điều tra điều tra (2019) 
Có thể thấy rằng, các thành viên 
trong ban quản lý rừng cộng đồng chủ yếu 
là nam giới, các vị trí quan trọng trong ban 
quản lý rừng cộng đồng cũng là nam giới, 
nữ giới chỉ là thành viên với số lượng tương 
đối ít chỉ có từ 2 – 3 người. Theo quan niệm 
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(1)-2020:1613-1624 
1618 Ngô Thị Phương Anh và cs. 
phụ nữ chân yếu tay mềm, ít có tiếng nói 
trong cộng đồng nên khi bầu chọn các chức 
vụ trong ban quản lý rừng cộng đồng thì phụ 
nữ hầu như không được chọn mà đa phần là 
nam giới đảm nhận. 
3.3. Mức độ tham gia của giới trong công 
tác quản lý bảo vệ và phát triển RCĐ 
Kết quả ở Biểu đồ 2 cho thấy, mức độ 
tham gia của nữ giới và nam giới là hoàn 
toàn khác nhau, nam giới thường tham gia 
vào các hoạt động QLBV và phát triển rừng 
nhiều hơn nữ giới. 
Cụ thể: 
- Đối với hoạt động xây dựng quy 
ước bảo vệ rừng: mức độ tham gia hoạt 
động giữa nam giới và nữ giới trong các gia 
đình ở cả 2 nhóm dân tộc là khác nhau. Sự 
tham gia của nam giới nhiều hơn nữ giới. Tỉ 
lệ nam giới tham gia hoạt đồng này là trên 
50%, nhưng nữ giới chỉ dưới 20%. 
Xã Hương Lộc Xã Thượng Quảng 
0
20
40
60
80
Nam Nữ
Xây dựng quy ước QLBVR
Mức 1
Mức 2
Mức 3
mức 4 0
20
40
60
Nam nữ
Xây dựng quy ước QLBVR
Mức 1
mức 2
Mức 3
Mức 4
0
20
40
60
80
Nam Nữ
Lập kế hoạch hành động hằng năm
Mức 1
Mức 2
Mức 3
Mức 4
(%)
0
20
40
60
80
Nam Nữ
Lập kế hoạch hành động hằng năm
Mức 1
mức 2
Mức 3
Mức 4
(%)
0
20
40
60
80
100
Nam Nữ
Hoạt động QLBVRCĐ
Mức 1
Mức 2
Mức 3
Mức 4
(%)
0
20
40
60
80
100
Nam Nữ
Hoạt động QLBVR cộng đồng
Mức 1
Mức 2
Mức 3
Mức 4
(%)
(%)(%)
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(1)-2020:1613-1624 
 1619 
Nguồn: Tổng hợp từ phiếu điều tra (2019) 
Biểu đồ 2. Mức độ tham gia các hoạt động các hoạt động QLBVR theo giới 
 Mức 1: Không tham gia Mức 2: Ít Tham gia 
Mức 3: Tham gia vừa phải Mức 4: Tham gia nhiều 
Đối với các hoạt động phát triển rừng 
cộng đồng: phần lớn nam giới tham gia với 
mức độ trên 60%, nữ giới chỉ dưới 20%. 
Theo phỏng vấn sâu, nữ giới ít tham gia là 
do họ phải làm nhiều công việc khác nhau: 
việc nhà, chăm lo cho gia đình con cái, tham 
gia vào việc sản xuất kiếm thêm thu nhập 
nên mức độ tham gia của họ trong công tác 
QLBV&PT rừng cộng đồng rất hạn chế. 
Hoạt động sử dụng tài nguyên rừng 
cộng đồng: mức độ tham gia trong hoạt động 
này đều rất thấp đối với cả hai giới, tỷ lệ nam 
giới và nữ giới tham gia dưới 20%. Riêng 
nhóm dân tộc Cơ tu ở xã Thượng Quảng, mức 
độ tham gia của nam giới nổi trội hơn chiếm 
khoảng 40%. 
Từ các kết quả nghiên cứu ở trên, 
chúng ta dễ nhận thấy rằng trong các hoạt 
động động QLBV&PT rừng cộng đồng mức 
độ tham gia của giới có sự chênh lệch rất 
lớn, nam giới là người luôn có mức độ tham 
gia nhiều hơn nữ giới. Chính điều này đã 
làm tăng khoảng cách giữa nữ giới với các 
hoạt động QLBV&PT rừng cộng đồng nên 
mức độ tham gia của họ là rất thấp. 
3.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự khác 
biệt về giới trong quản lý, sử dụng và 
phát triển RCĐ 
Sự khác biệt giới trong quản lý, sử 
dụng và phát triển rừng cộng đồng luôn chịu 
ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Trong phạm vi 
nghiên cứu, đề tài khảo sát ý kiến các bên 
liên quan và xác định 2 nhân tố ảnh hưởng 
nhiều nhất đến sự khác biệt này chính là 
định kiến giới và địa vị xã hội. 
3.4.1. Định kiến giới ảnh hưởng đến sự khác 
biệt giới trong quản lý, sử dụng và phát 
triển RCĐ 
Định kiến giới: là nhận thức, thái độ 
và đánh giá thiên lệch, tiêu cực về đặc điểm, 
0
20
40
60
80
Nam Nữ
Hoạt động phát triển RCĐ
Mức 1
Mức 2
Mức 3
Mức 4 0
20
40
60
80
Nam Nữ
Hoạt động phát triển rừng
Mức 1
Mức 2
Mức 3
Mức 4
0
50
100
150
Nam Nữ
Hoạt động sử dụng TNR
Mức 1
Mức 2
Mức 3
Mức 4
0
20
40
60
80
Nam Nữ
Hoạt động sử dụng TNR
Mức 1
Mức 2
Mức 3
Mức 4
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(1)-2020:1613-1624 
1620 Ngô Thị Phương Anh và cs. 
vị trí, vai trò và năng lực của nam hoặc nữ 
(Khoản 4, Điều 5, Luật Bình đẳng giới). 
Vậy trong bối cảnh nhóm dân tộc Kinh và 
Cơ tu tại huyện Nam Đông thì những định 
kiến nào đã ảnh hưởng đến sự khác biệt giới 
trong quản lý, sử dụng và phát triển rừng 
cộng đồng? Kết quả cho dưới Biểu đồ 3.
ĐK1: Chỉ có phụ nữ mới làm công việc nội trợ, may vá, chăm sóc sức khỏe trong gia đình 
ĐK2: Chỉ nam giới mới làm các công việc tuần tra bảo vệ rừng cộng đồng. 
ĐK3: Chỉ nữ giới mới làm các công việc gieo ươm cây bản địa, chăm sóc vườn ươm, trồng phục hồi rừng cộng đồng. 
ĐK4: Chỉ nam giới mới làm các công việc vệ sinh rừng, phát luỗng dây leo bụi rậm. 
ĐK5: Chỉ nam giới mới cần tham gia các cuộc họp tập huấn về QLBV rừng cộng đồng. 
ĐK6: Chỉ nữ giới mới cần tham gia các cuộc họp, tập huấn về gieo ươm cây bản địa, chăm sóc cây con tại vườn 
ươm, trồng phục hồi rừng cộng đồng. 
ĐK7: Chỉ nam giới mới đảm đương tốt vai trò lãnh đạo cộng đồng tham gia các hoạt động liên quan đến QLBV rừng 
cộng đồng. 
(%) 
(%) 
Biểu đồ 3. Định kiến giới ảnh hưởng đến sự khác biệt giới trong quản lý, sử dụng và phát triển RCĐ 
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(1)-2020:1613-1624 
 1621 
Qua Biểu đồ 3, cho kết quả: 
- Người dân ở xã Hương Lộc (nhóm 
dân tộc Kinh) và xã Thượng Quảng (nhóm 
dân tộc Cơ tu) đồng ý với quan điểm “chỉ 
có phụ nữ mới làm các công việc nội trợ, 
may vá, chăm sóc sức khỏe trong gia đình” 
(với tỷ lệ ý kiến đồng ý: 60 – 80%).- Đa số 
người dân cả 2 nhóm dân tộc đồng ý với 
quan điểm “Chỉ nam giới mới làm các công 
việc tuần tra bảo vệ rừng cộng đồng” (ĐK2) 
(với tỷ lệ 73% ý kiến đồng ý). 
- Nhiều người dân ở 2 nhóm dân tộc 
đều không đồng ý với quan điểm “Chỉ nữ 
giới mới làm các công việc gieo ươm cây 
bản địa, chăm sóc vườn ươm, trồng phục 
hồi rừng cộng đồng” (ĐK3), tỷ lệ không 
đồng ý chiếm từ 40 – 60%, và đồng ý 
khoảng 30%. 
- Với quan điểm (ĐK4) chỉ nam giới 
mới làm các công việc vệ sinh rừng, phát 
luỗng dây leo bụi rậm thì nhóm người Kinh 
có tỷ lệ người dân không đồng tình với quan 
điểm ĐK4 khá cao (chiếm 53,33%). Trong 
khi đó, người Cơ tu cho rằng việc này là do 
nam giới làm (chiếm 57,69%). 
- Với quan điểm (ĐK5) chỉ nam giới 
mới cần tham gia các cuộc họp, tập huấn về 
QLBV rừng cộng đồng thì người dân cả 2 
xã đều không đồng tình với quan điểm này 
(chiếm trên 70%). 
Với quan điểm (ĐK6) chỉ nữ giới 
mới cần tham gia các cuộc họp, tập huấn về 
gieo ươm cây bản địa, chăm sóc cây con tại 
vườn ươm, trồng phục hồi rừng cộng đồng 
thì phần lớn người dân cả 2 xã đều không 
đồng ý với tỷ lệ (chiếm từ 38 – 66%), riêng 
xã Thượng Quảng một bộ phận người dân 
vẫn đồng tình với quan điểm (chiếm tỷ lệ 
27%). 
-Với quan điểm (ĐK7) chỉ nam giới 
mới đảm đương tốt vai trò lãnh đạo cộng 
đồng tham gia các hoạt động liên quan đến 
QLBV rừng cộng đồng thì cả 2 xã đều 
đồng ý với tỷ lệ 50 – 57% tại xã Hương Lộc 
và xã Thượng Quảng. 
Có thể thấy rằng, người dân ở cả 2 xã đại 
diện cho 2 nhóm dân tộc Kinh và Cơ tu đều 
coi việc phụ nữ đảm đương công việc nội 
trợ, chăm sóc con cái là nhiệm vụ và thiên 
chức của người phụ nữ. Việc tuần tra, quản 
lý, chăm sóc rừng là việc của nam giới, công 
việc này khá nặng nhọc do khoảng cách từ 
nhà đến rừng cộng đồng tương đối xa (1,5 
giờ đi bộ), đôi khi ở lại qua đêm nên rất ít 
khi phụ nữ tham gia. Việc tham gia vào các 
công việc (phát luỗng dây leo, bụi rậm, gieo 
ươm, trồng rừng) thì cả nam và nữ đều tham 
gia, song nam giới thường tham gia nhiều 
hơn nữ giới. Việc tham gia các buổi họp hay 
tập huấn thì người dân đều cho rằng cả nam 
và nữ đều có thể tham gia không phân biệt 
về nội dung tuần tra rừng hay hướng dẫn kỹ 
thuật gieo ươm cây bản địa. Tuy nhiên, thực 
tế cho thấy các cuộc hội họp trong thôn, phụ 
nữ thường ít khi tham gia vì họ cho rằng 
việc xã hội, họp hành là của đàn ông. Ngoài 
ra, người dân cũng quan niệm chỉ có nam 
giới mới đảm đương tốt vai trò lãnh đạo 
cộng đồng tham gia các hoạt động liên quan 
đến quản lý bảo vệ và phát triển rừng cộng 
đồng, nam giới tham gia các hoạt động xã 
hội nên có nhiều kinh nghiệm và kiến thức. 
Chính định kiến này càng làm phụ nữ ít có 
cơ hội để tham gia vào các hoạt động lãnh 
đạo cộng đồng. 
Tóm lại, những định kiến về giới luôn 
là rào cản lớn hạn chế nữ giới tham gia vào 
các hoạt động liên quan đến quản lý, bảo vệ 
và phát triển rừng cộng đồng tại địa phương. 
3.4.2. Địa vị xã hội ảnh hưởng đến 
sự khác biệt giới trong quản lý, sử 
dụng và phát triển RCĐ 
Đề tài đặt ra nghi vấn, liệu quyền lực 
và địa vị xã hội có lấn át hay ảnh hưởng đến 
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(1)-2020:1613-1624 
1622 Ngô Thị Phương Anh và cs. 
sự khác biệt giới trong hoạt động 
QLBV&PT rừng cộng đồng hay không? Lý 
giải cho vấn đề này, đề tài có các số liệu 
điều tra trong Biểu đồ 4.
Qua Biểu đồ 4 cho kết quả: 
 Với quan điểm (ĐV1): Từ kết quả 
biểu đồ cho thấy người Kinh ở xã Hương 
Lộc có thể tiếp cận tốt hơn về vấn đề bình 
đẳng giới nên quan niệm của họ về vai trò 
của giới phần nào đề cao vị trí của người 
phụ nữ trong xã hội hơn trước đây (với 
46,7% ý kiến đồng ý và 43,3% ý kiến không 
đồng ý với quan điểm những vị trí quản lý, 
lãnh đạo cộng đồng thường là nam giới). 
Người Cơ tu ở xã Thượng Quảng vẫn luôn 
đề cao vị trí của nam giới trong xã hội, nữ 
giới thường ít đảm nhận các vị trí quan trọng 
trong cộng đồng (với 62,1% ý kiến đồng ý 
và 26,9% ý kiến không đồng ý với quan 
điểm những vị trí quản lý, lãnh đạo cộng 
đồng thường là nam giới. 
 Với quan điểm (ĐV2) những người 
có chức trách trong cộng đồng thường đảm 
nhiệm vị trí quan trọng trong ban quản lý 
rừng cộng đồng thì kết quả phỏng vấn ý kiến 
người dân tại hai xã hoàn toàn khác nhau. 
 Tổng hợp từ phiếu điều tra (2019) 
Biểu đồ 4. Địa vị xã hội ảnh hưởng đến sự khác biệt giới trong quản lý, sử dụng và phát triển 
rừng cộng đồng tại xã Hương Lộc và xã Thượng Quảng 
ĐV1: Những vị trí quản lý, lãnh đạo cộng đồng thường là nam giới 
ĐV2: Những người có chức trách trong cộng đồng thường đảm nhiệm vị trí quan trọng trong 
BQLRCĐ 
ĐV3: Chỉ những người có vị trí quan trọng trong BQLRCĐ mới có quyền đưa ra quyết định về 
các hoạt động liên quan đến QLBV &PTRCĐ. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(1)-2020:1613-1624 
 1623 
Tại xã Hương Lộc 80% người dân không 
đồng tình với quan điểm này. Theo các 
thành viên tham gia trong tổ QLBVR, các 
vị trí trong BQL rừng cộng đồng do cộng 
đồng bầu ra, khi đưa ra quyết định liên quan 
đến QLBV&PT rừng đều thông qua ý kiến 
của các thành viên tham gia sau đó lựa chọn 
ý kiến được tán thành đa số. Tại xã hượng 
Quảng, người dân lại đồng tình với quan 
điểm những người có chức trách trong cộng 
đồng thường giữ vị trí trogn BQL rừng cộng 
đồng với tỷ lệ 76,9%. 
 Với quan điểm (ĐV3) chỉ những 
người có vị trí quan trọng trong BQL rừng 
cộng đồng mới có quyền đưa ra quyết định 
về các hoạt động liên quan đến QLBV&PT 
rừng cộng đồng thì đa số người dân xã 
Hương Lộc hoàn toàn không đồng ý với ý 
kiến này (chiếm 63,3%), người dân cho 
rằng tất các các quyết định liên quan đến 
hoạt động QLBV&PT rừng phải thảo luận 
trước cộng đồng và lựa chọn ý kiến được tán 
thành nhiều nhất. Riêng xã Thượng Quảng 
tỷ lệ người dân đồng tình và không đồng 
tình với quan điểm ĐV3 gần tương đương 
nhau, có thể thấy rằng, nhóm dân tộc Cơ tu 
ở xã Thượng Quảng vẫn còn chưa thể hiện 
được quan điểm của cá nhân trong cộng 
đồng. Nhìn chung, theo quan sát và số liệu 
điều tra tại 2 xã nghiên cứu, nhân tố địa vị 
xã hội có thể xem là nhân tố ảnh hưởng đến 
sự khác biệt giới trong QLBV&PT rừng 
cộng đồng ở xã Thượng Quảng. Tuy nhiên 
tại xã Hương Lộc nhân tố này không quyết 
định nhiều đến sự khác biệt giới trong các 
hoạt động trên. 
4. KẾT LUẬN 
Từ kết quả nghiên cứu, đề tài rút ra 
một số kết luận: 
- Ở cả hai cộng đồng người và người 
Cơ tu đều có sự phân biệt giới tương đối rõ 
trong tất cả các hoạt động QLBV&PT rừng 
cộng đồng. 
- Nam giới ở cả hai cộng đồng người 
Kinh và Cơ tu đều có vai trò quan trọng và 
tham gia vào tất cả các hoạt động liên quan 
đến quản lý bảo vệ và phát triển rừng cộng 
đồng: xây dựng quy ước, lập kế hoạch, tuần 
tra, chăm sóc vệ sinh rừng, gieo ươm, trồng 
rừng ở mức độ cao; trong lúc nữ giới ở cả 2 
nhóm dân tộc đều có tham gia vào các hoạt 
động đó nhưng ở mức độ thấp. Nam giới có 
quyền ra quyết định và tham gia vào hoạt 
động lãnh đạo cộng đồng (ban quản lý rừng 
cộng đồng) trong khi nữ giới hiếm có cơ hội 
tham gia. 
- Ở 2 điểm nghiên cứu này hiện nay 
vẫn tồn tại quan điểm về định kiến giới và 
địa vị xã hội trong các hoạt động xã hội, 
chính điều này đã tạo ra sự phân biệt giới 
trong hoạt động quản lý bảo vệ và phát triển 
rừng ở địa phương. Tuy nhiên, quan điểm 
về địa vị xã hội có ảnh hưởng đến vai 
trò/mức độ tham gia của giới trong 
QLBV&PT rừng cộng đồng ở nhóm người 
Cơ tu thể hiện rõ nét hơn ở nhóm người 
Kinh. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (18/6/ 
2014). Vấn đề lồng ghép giới trong việc 
quản lý và bảo vệ rừng tại Hòa Bình. Khai 
thác từ 
 ấn đề 
lồng ghép giới trong quản lý và bảo vệ rừng 
Bùi Thị An và Nguyễn Thị Nghĩa. (2009). Tài 
liệu tập huấn Phương pháp phân tích giới và 
kế hoạch hành động giới, Dự án phát triển 
bền vững lâm sản ngoài gỗ, Bộ Nông nghiệp 
và phát triển nông thôn. 
Lê Thị Diên và Võ Đình Tuyên. (2011). Nghiên 
cứu vai trò của giới trong quản lý và phục 
hồi rừng cộng đồng tại xã Thượng Quảng, 
huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế. Tạp 
chí Khoa học Lâm Nghiệp, 3, Viện Khoa học 
Lâm nghiệp Việt Nam. 
Hạt Kiểm lâm huyện Nam Đông. (2017). Báo 
cáo kết quả thực hiện công tác giao rừng, 
cho thuê rừng theo nghị quyết của Hội đồng 
nhân dân Huyện. Thừa Thiên Huế. 
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(1)-2020:1613-1624 
1624 Ngô Thị Phương Anh và cs. 
Nguyễn Hữu Minh, Trần Thị Thanh Hải và 
Nguyễn Đức Tố Lưu. (2015). Báo cáo kỹ 
thuật: Vai trò của phụ nữ trong sử dụng và 
quản lý tài nguyên rừng tại khu bảo tồn thiên 
nhiên Xuân Nha, tỉnh Sơn La. Hà Nội.

File đính kèm:

  • pdfvai_tro_cua_gioi_trong_quan_ly_bao_ve_va_phat_trien_rung_con.pdf