Ung thư vú liên quan đến thai kỳ tại Bệnh viện Ung Bướu thành phố Hồ Chí Minh

Đặt vấn đề: Ung thư vú liên quan thai kỳ là bệnh cảnh hiếm gặp. Lâm sàng và tiên lượng cũng khác ung

thư vú nói chung. Vì vậy, chúng tôi tiến hành phân tích các đặc điểm lâm sàng và điều trị của bệnh nhân ung

thư vú liên quan thai kỳ từ đó rút ra kinh nghiệm thực tiễn cũng như hiểu rõ hơn về thể bệnh lý này.

Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu các bệnh nhân ung thư vú liên quan thai kỳ được điều trị

tại Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM từ năm 2012 đến 2015.

Kết quả: Chúng tôi ghi nhận 52 trường hợp ung thư vú liên quan thai kỳ, trong đó 21 ca được chẩn đoán

trong lúc mang thai và 31 ca chẩn đoán trong vòng 1 năm sau sinh. Tỉ lệ di căn hạch nách là 63,6%. Thụ thể

nội tiết ER/PR dương tính trong 52,9% trường hợp và nhóm tam âm chiếm khoảng 1/3. Sống còn toàn bộ và

sống còn không bệnh 5 năm lần lượt là 70,6% và 59,3%. Yếu tố bướu T là yếu tố tiên lượng độc lập duy nhất

cho sống còn toàn bộ. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi so sánh các đặc điểm lâm sàng hay tiên

lượng giữa bệnh nhận ung thư vú liên quan thai kỳ được chẩn đoán trước hay sau sinh.

Kết luận: Bệnh nhân ung thư vú liên quan thai kỳ có một số đặc điểm tiên lượng xấu: di căn hạch nhiều,

thụ thể nội tiết âm tính và phân nhóm sinh học tam âm chiếm tỉ lệ cao. Ung thư vú liên quan thai kỳ được chẩn

đoán trong lúc mang thai và năm đầu hậu sản không khác nhau về đặc điểm lâm sàng cũng như tiên lượng.

pdf 7 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Ung thư vú liên quan đến thai kỳ tại Bệnh viện Ung Bướu thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ung thư vú liên quan đến thai kỳ tại Bệnh viện Ung Bướu thành phố Hồ Chí Minh

Ung thư vú liên quan đến thai kỳ tại Bệnh viện Ung Bướu thành phố Hồ Chí Minh
VÚ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
418 
UNG THƯ VÚ LIÊN QUAN ĐẾN THAI KỲ 
TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 
TRẦN VIỆT THẾ PHƯƠNG1, NGUYỄN SỸ CAM2, NGUYỄN ANH LUÂN3, NGUYỄN ĐỖ THÙY GIANG4 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Ung thư vú liên quan thai kỳ là bệnh cảnh hiếm gặp. Lâm sàng và tiên lượng cũng khác ung 
thư vú nói chung. Vì vậy, chúng tôi tiến hành phân tích các đặc điểm lâm sàng và điều trị của bệnh nhân ung 
thư vú liên quan thai kỳ từ đó rút ra kinh nghiệm thực tiễn cũng như hiểu rõ hơn về thể bệnh lý này. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu các bệnh nhân ung thư vú liên quan thai kỳ được điều trị 
tại Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM từ nĕm 2012 đến 2015. 
Kết quả: Chúng tôi ghi nhận 52 trường hợp ung thư vú liên quan thai kỳ, trong đó 21 ca được chẩn đoán 
trong lúc mang thai và 31 ca chẩn đoán trong vòng 1 nĕm sau sinh. Tỉ lệ di cĕn hạch nách là 63,6%. Thụ thể 
nội tiết ER/PR dương tính trong 52,9% trường hợp và nhóm tam âm chiếm khoảng 1/3. Sống còn toàn bộ và 
sống còn không bệnh 5 nĕm lần lượt là 70,6% và 59,3%. Yếu tố bướu T là yếu tố tiên lượng độc lập duy nhất 
cho sống còn toàn bộ. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi so sánh các đặc điểm lâm sàng hay tiên 
lượng giữa bệnh nhận ung thư vú liên quan thai kỳ được chẩn đoán trước hay sau sinh. 
Kết luận: Bệnh nhân ung thư vú liên quan thai kỳ có một số đặc điểm tiên lượng xấu: di cĕn hạch nhiều, 
thụ thể nội tiết âm tính và phân nhóm sinh học tam âm chiếm tỉ lệ cao. Ung thư vú liên quan thai kỳ được chẩn 
đoán trong lúc mang thai và nĕm đầu hậu sản không khác nhau về đặc điểm lâm sàng cũng như tiên lượng. 
ABSTRACT 
Introduction: Pregnancy associated breast cancer (PABC) is uncommon with unique clinical and 
prognostic characteristics. In this study, we research this group of patients at Ho Chi Minh City Oncology 
hospital. 
Materials and methods: PABC patients treated at Ho Chi Minh City Oncology hospital from 2012 to 2015. 
Results: Fifty - two patients with PABC were included. Axillary lymph nodes were involved in 63,6% of 
case. Hormone receptor was positive in 52,9% and a third was triple - negative. The 5 - year overall survival 
was 70,6% and 5 - year disease free survival was 59,3%. In multivariate analysis of OS, tumor size was the 
only independent factor. No statistically significant differences in tumor features or prognosis between pre - 
partum and post-partum PABC. 
Conclusions: In this study, PABC adverse tumor features are the number of lymph node involvement, low 
expression of ER/PR and high rate of TNBC subtype. No difference in clinicalpathologic characteristics or 
prognosis between pre-partum and post - partum PABC. 
1
 TS.BS. Phó Trưởng Khoa Ngoại 4 - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 
2
 ThS.BS. Khoa Ngoại 4 - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 
3
 BSCKII. Trưởng Khoa Ngoại 4 - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 
4
 ThS.BS. Phó Trưởng Khoa Ngoại 4 - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 
 - Giảng viên Bộ môn Ung thư - Đại học Y Dược TP. HCM 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Ung thư vú liên quan thai kỳ là ung thư vú ở 
phụ nữ đang mang thai hoặc sau khi sinh từ 6 tháng 
đến 1 nĕm. Đây là một bệnh cảnh hiếm gặp, chiếm 
chưa đến 4% tổng số các trường hợp ung thư vú ở 
phụ nữ dưới 50 tuổi. Bên cạnh đó, tỉ lệ thai kỳ mắc 
ung thư vú cũng rất hiếm, khoảng 15 - 35/100.000 
ca. Ngoài ra, thay đổi sinh lý của tuyến vú trên phụ 
nữ mang thai và cho con bú gây khó khĕn cho chẩn 
đoán cũng như điều trị. Trong giai đoạn này, mô vú 
tĕng hoạt động, phát triển nhanh về kích thước, mật 
độ cũng như xảy ra hoạt động tiết sữa. Việc phát 
hiện bướu vú trong một tuyến vú to, dày trở nên khó 
VÚ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
419 
khĕn hơn và làm giới hạn khả nĕng phát hiện của 
nhũ ảnh. Hậu quả là phát hiện ung thư giai đoạn trễ 
hơn, ảnh hưởng đến tiên lượng cũng như điều trị 
cho bệnh nhân. Ung thư vú trên phụ nữ mang thai 
hoặc cho con bú cũng có các đặc điểm mô học 
riêng. Một số nghiên cứu ghi nhận sự thay đổi về tỉ 
lệ các loại giải phẫu bệnh trên bệnh nhân thai kỳ. 
Những khác biệt về giải phẫu bệnh cũng như đặc 
điểm lâm sàng cho thấy sự khác biệt giữa ung thư 
vú thai kỳ so với ngoài thai kỳ, vì vậy cần có những 
nghiên cứu ở nhóm bệnh nhân này để có cơ sở đưa 
ra các hướng dẫn về chẩn đoán và điều trị cho bệnh 
nhân. 
Thực tế tại Bệnh viện Ung Bướu TPHCM số 
lượng bệnh nhân ung thư vú liên quan thai kỳ không 
nhiều, cũng chưa có nghiên cứu nào được thực hiện 
trên nhóm bệnh nhân này. Vì vậy chúng tôi tiến hành 
nghiên cứu với mục tiêu khảo sát các đặc điểm lâm 
sàng, điều trị cũng như tiên lượng của bệnh nhân 
ung thư vú liên quan thai kỳ. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Tất cả bệnh nhân được chẩn đoán xác định 
carcinôm tuyến vú có liên quan đến thai kỳ được 
điều trị tại khoa Ngoại 4 BVUB TP. HCM 
từ 01/01/2012 đến 31/12/2015 được đưa vào nghiên 
cứu. Ung thư vú có liên quan đến thai kỳ được định 
nghĩa là carcinôm tuyến vú chẩn đoán ở phụ nữ 
đang mang thai hay phát hiện ung thư vú trong vòng 
một nĕm sau sinh. Các trường hợp bị loại trừ là ung 
thư vú tái phát, bệnh nhân bỏ điều trị, không tuân thủ 
điều trị, quá chỉ định phẫu thuật hoặc không liên lạc 
được bệnh nhân. 
Thu thập dữ liệu dựa vào bảng câu hỏi dựa trên 
hồ sơ bệnh án, bảng lưu trữ thông tin bệnh án tại 
khoa Ngoại 4 và quá trình tái khám tại bệnh viện. 
Tình trạng thủ thệ nội tiết ER, PR được đánh 
giá bằng kĩ thuật nhuộm hóa mô miễn dịch, đánh giá 
theo tiêu chuẩn Allred dựa vào tỉ lệ và cường độ bắt 
màu nhân. Yếu tố tĕng trưởng biểu mô HER2: Đánh 
giá âm tính hay dương tính theo tiêu chuẩn hóa mô 
miễn dịch. Âm tính bao gồm HER2 0 và 1+, dương 
tính nếu HER2 3+. Hóa mô miễn dịch 2+ sẽ được 
làm FISH để đánh giá. 
Theo dõi kết quả điều trị dựa trên kết quả 
những lần tái khám, ghi nhận trong dữ liệu của bệnh 
viện hoặc gọi điện, gửi thư cho bệnh nhân. 
Số liệu nghiên cứu được thu thập theo mẫu và 
được xử lý bằng các thuật toán thống kê y học, sử 
dụng phần mềm SPSS 20.0. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Từ 8777 bệnh nhân ung thư vú chẩn đoán trong 
4 nĕm 2012 - 2015 tại khoa Ngoại 4 Bệnh viện Ung 
Bướu, chúng tôi chọn được 52 trường hợp thỏa tiêu 
chuẩn để đưa vào nghiên cứu. Tỉ lệ bệnh nhân ung 
thư vú thai kỳ ghi nhận là 0,6%. Trong mẫu nghiên 
cứu của chúng tôi có 21 trường hợp phát hiện bệnh 
khi đang mang thai, 31 bệnh nhân còn lại ghi nhận 
bệnh trong vòng một nĕm sau sinh. 
Các đặc điểm về lâm sàng và đều trị được thể 
hiện trong bảng 1.1. Trong đó, tuổi trung bình lúc 
chẩn đoán là 32,9 ± 5,4 tuổi, nhỏ nhất là 22 tuổi và 
lớn nhất là 45 tuổi, trung vị 34 tuổi. Có 65,4% số 
bệnh nhân < 35 tuổi và, hầu hết các trường hợp mắc 
bệnh ở độ tuổi 30 đến 40 tuổi. Kích thước bướu ghi 
nhận lúc chẩn đoán lớn và bướu giai đoạn trễ T3, T4 
chiếm tới 38,5%. Nhóm bệnh nhân ung thư vú trong 
nĕm đầu hậu sản ghi nhận tỉ lệ bướu giai đoạn trễ 
cao hơn, tuy không có ý nghĩa thống kê. Tỉ lệ di cĕn 
hạch nách chung là 63,6%. Hóa mô miễn dịch được 
thực hiện trên hầu hết bệnh nhân, chỉ có một bệnh 
nhân từ chối điều trị không được thử hóa mô miễn 
dịch. Kết quả ghi nhận tỉ lệ nội tiết dương tính thấp 
và không khác biệt giữa 2 nhóm. Trong các bệnh 
nhân có kết quả HER2 (2+) có một ca làm xét 
nghiệm FISH và cho kết quả dương tính. Tỉ lệ HER2 
dương tính là 23,3%. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ bệnh nhân 
được điều trị phẫu thuật, hóa trị và xạ trị lần lượt là 
84,6%, 96,2% và 73,1%. Tất cả các bệnh nhân phẫu 
thuật đều được đoạn nhũ và nạo hạch nách, trong 
đó có 12 bệnh nhân được tái tạo bằng vạt cơ lưng 
rộng. Hóa trị tân hỗ trợ có 11 trường hợp, và có 3 
trường hợp ghi nhận đáp ứng hoàn toàn về mặt giải 
phẫu bệnh. Phác đồ được sử dụng nhiều nhất là 
FEC, chiếm 48%. Tất cả các trường hợp đều hóa trị 
dựa trên phác đồ có Anthracycline. Taxane không 
sử dụng trong khi bệnh nhân đang mang thai. Tất cả 
bệnh nhân điều trị nội tiết và xạ trị được tiến hành 
sau khi sinh và không cho con bú trong lúc điều trị. 
VÚ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
420 
Bảng 1. Các đặc điểm lâm sàng và điều trị 
Đặc điểm Tổng (n = 52) Đang mang thai (n = 21) Nĕm đầu hậu sản (n = 31) P 
Tuổi ( trung bình) 32,9 ± 5,4 34,2 ± 5,8 31,9 ± 5,0 0,748 
Kích thước bướu 5,0 ± 3,3 5,3 ± 3,5 4,8 ± 3,2 0,412 
< 2cm (T1) 10 (19,2%) 2 (9,5%) 8 (25,8%) 
2,1 - 5cm (T2) 22 (42,3%) 12 (57,1%) 10 (32,3%) 
>5cm (T3+T4) 20 (38,5%) 7 (33,3%) 13 (41,9%) 0,150 
Di cĕn hạch 
N (-) 15 (36,4%) 9 (50%) 7 (26,9%) 
1-3 hạch 20 (45,4%) 6 (33,3%) 14 (53,9%) 
>4 hạch 9 (18,2%) 3 (16,7%) 4 (19,2%) 0,275 
Giải phẫu bệnh 
Dạng ống tuyến 48 (92,3%) 21 (100%) 27 (87,1%) 
Dạng nhầy 2 (3,8%) 0 (0%) 2 (6,45%) 
Dạng khác 2 (3,8%) 0 (0%) 2 (6,45%) 0,402 
Giai đoạn 
I 2 (3,8%) 1 (4,8%) 1 (3,2%) 
II 27 (51,9%) 12 (57,1%) 15 (48,4%) 
III 23 (44,2%) 8 (38,1%) 15 (48,4%) 0,755 
Thụ thể nội tiêt 
(+) 52,9% 47,6% 56,6% 
(-) 47,1% 52,4% 43,4% 0,578 
HER2 
(+) 66,7% 57,1% 73,3% 
(++) 15,7% 14,3% 16,7% 
(+++) 17,6% 28,6% 10% 0,229 
Phân nhóm sinh học 
Luminal A 3 (5,9%) 2 (9,5%) 1 (3,3%) 
Luminal B 24 (47,0%) 8 (38,1%) 16 (53,3%) 
HER2 6 (11,8%) 4 (19,0%) 2 (6,7%) 
Tam âm 18 (35,3%) 7 (33,3%) 11 (36,7%) 0,382 
Điều trị 
Phẫu thuật 44 (84,6%) 18 (85,7%) 26 (83,9%) 
Hóa trị 40 (96,2%) 21 (100%) 29 (93,5%) 
Xạ trị 38 (73,1%) 15 (71,4 %) 23 (74,2%) 
Nội tiết 20 (38,5%) 14 (45,2%) 6 (28,6%) 
Bảng 2. Can thiệp trong thai kỳ 
Can thiệp trong thai kỳ Số trường hợp Tỉ lệ (%) 
Phẫu thuật +/ – hóa trị 7 33,3 
Bỏ thai 8 38,1 
Không điều trị 6 28,6 
VÚ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
421 
Trong 3 trường hợp hóa trị trong lúc mang thai, 1 trường hợp sử dụng phác đồ AC - T, còn lại sử dụng 
phác đồ FEC. Cả 2 trường hợp còn lại đều hóa trị hỗ trợ 3 chu kỳ trước sinh và tiếp tục đủ phác đồ sau khi 
sinh. Tất cả các bệnh nhân điều trị trong thai kỳ đều không ghi nhận biến cố lúc sinh cũng như dị tật thai nhi. 
Theo dõi 52 trường hợp đến ngày 01/06/2019 với trung vị là 51 tháng. Thời gian theo dõi trung bình là 
51,9 tháng. Có 5 trường hợp (9,6%) mất dấu. 
Biểu đồ 1. Số trường hợp tái phát hằng nĕm 
Có 17 ca tái phát (38,6%) trong thời gian theo dõi. Chúng tôi không ghi nhận trường hợp nào tái phát sau 
5 nĕm. Tái phát tại chỗ là 4,5% và di cĕn xa là 34,1%. Trong đó tái phát di cĕn phổi và gan là thường gặp nhất. 
Tỉ lệ sống còn không bệnh 5 nĕm là 59,3%. Trong nhóm bệnh nhân được điều trị triệt để tỉ lệ tử vong là 
29,5%, trong đó, có một trường hợp tử vong sau 78 tháng theo dõi. 
Tỉ lệ sống còn toàn bộ 5 nĕm là 70,6%. 
Yếu tố bướu và yếu tố di cĕn hạch có vai trò tiên lượng đối với sống còn toàn bộ và sống còn không bệnh. 
Tuy nhiên, khi phân tích đa biến, xếp hạng bướu T là yếu tố tiên lượng độc lập duy nhất cho sống còn toàn bộ. 
(p = 0,001) (p = 0,005) 
Biểu đồ 02. Sống còn không bệnh theo mức độ bướu nguyên phát và tình trạng di cĕn hạch nách 
VÚ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
422 
(p = 0,000) (p = 0,042) 
Biểu đồ 3. Sống còn toàn bộ theo mức độ bướu nguyên phát và tình trạng di cĕn hạch nách 
BÀN LUẬN 
Ung thư vú thai kỳ được định nghĩa là ung thư 
vú được phát hiện trong thời gian mang thai hay sau 
khi sinh trong vòng 6 - 12 tháng. Ung thư vú thai kỳ 
có xu hướng bị chẩn đoán trễ. Trong nghiên cứu của 
chúng tôi, kích thước bướu trung bình khá lớn là 
5cm (2,7 đến 8,3cm). Ở các nước phát triển, khoảng 
1/3 bệnh nhân nhập viện khi bướu còn nhỏ dưới 
2cm, còn trong nghiên cứu của chúng tôi tỉ lệ này chỉ 
khoảng 20%. Tuy nhiên tỉ lệ bướu giai đoạn T2, T3 
là khá tương đồng giữa các nghiên cứu, tương ứng 
khoảng 40% và 20%. Về mặt lâm sàng, ung thư vú 
liên quan thai kỳ có kích thước lớn hơn bệnh nhân 
ung thư vú nói chung. Theo tác giả Johansson, có 
tới 20,7% trường hợp ung thư vú thai kỳ có bướu 
lớn hơn 5cm, trong khi đó tỉ lệ này ở bệnh nhân ung 
thư vú nói chung chỉ 8,6%. Trong nghiên cứu của 
chúng tôi, tỉ lệ bướu giai đoạn trễ T3, T4 chiếm tới 
40%. Điều này được một số tác giả lý giải do tác 
động của thai kỳ gây trì hoãn chẩn đoán bệnh. 
Tỉ lệ di cĕn hạch nách dao động trong nhiều 
nghiên cứu từ 36% - 60%. Đặc điểm chung của các 
nghiên cứu này là tỉ lệ di cĕn hạch nách không có sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa bệnh nhân ung 
thư vú thai kỳ và bệnh nhân ung thư vú nói chung 
cùng độ tuổi. Tuy nhiên, nghiên cứu của chúng tôi 
cho thấy có tới 63,6% di cĕn hạch, trong đó di cĕn từ 
1 - 3 hạch chiếm đa số. Một số tác giả cũng cho rằng 
ung thư vú thai kỳ có tỉ lệ di cĕn hạch nách cao. 
Nhận định trên được minh họa cụ thể trong nghiên 
cứu của Beadle và cs, tỉ lệ hạch nách di cĕn là 
70,2%, nghiên cứu của tác giả Sánchez là 64,5%. 
Biểu hiện thụ thể nội tiết trên bệnh nhân ung 
thư vú thai kỳ khá thấp và kết quả này hằng định ở 
hầu hết nghiên cứu, từ 33,0 - 55%, nghiên cứu của 
chúng tôi cũng tương đương với tỉ lệ 52,9%. Đây là 
một trong những đặc điểm tiên lượng xấu ở bệnh 
nhân ung thư vú liên quan thai kỳ. 
Trong nghiên cứu của Azim, sử dụng phương 
pháp định hình biểu hiện gen, tác giả ghi nhận không 
có sự khác nhau giữa bệnh nhân ung thư vú thai kỳ 
và bệnh nhân ung thư vú không liên quan thai kỳ. 
Tuy nhiên, tỉ lệ phân nhóm tam âm ở bệnh nhân 
ung thư liên quan thai kỳ khá cao, chiếm 33,3%. 
Hơn nữa, tác giả ghi nhận trên bệnh nhân ung thư 
vú chẩn đoán trong khi mang thai có tĕng biểu hiện 
gen IGF - 1, được coi là yếu tố thúc đẩy ung thư vú 
phát triển và tĕng tỉ lệ tái phát. Tác giả Bae phân 
nhóm dựa vào ER, PR, HER2 và Ki67 ghi nhận 
luminal A là 21,2%, luminal B là 21,2%, HER2 là , 
tam âm là 40,4%, kết quả khác biệt rõ rệt so với 
nhóm chứng với luminal A là 50,6%, luminal B là 
23,9%, HER2 là 9,1% và tam âm là 16,4%. Trong 
đó, nhóm tam âm là vượt trội hơn hẳn và cao hơn 
ung thư vú không liên quan thai kỳ. Nhiều tác giả 
cũng ghi nhận tỉ lệ phân nhóm tam âm trong ung thư 
vú thai kỳ khá cao, dao động từ 30,2 - 48,4%. 
Nghiên cứu của chúng tôi cũng cho kết quả tương tự 
với nhóm tam âm chiếm 35,3%. Điều này cho thấy 
ung thư vú thai kỳ có liên quan đến tĕng tỉ lệ tam âm 
ở ung thư vú. 
Điều trị ung thư vú trên bệnh nhân mang thai 
không nên trì hoãn và lựa chọn điều trị dựa trên 2 
mục tiêu chính: đảm bảo an toàn về mặt ung thư và 
giữ thai mà không làm ảnh hưởng đến sức khỏe của 
thai nhi. Tuy vậy, kế hoạch điều trị ung thư vú trên 
phụ nữ mang thai gần giống như các bệnh nhân ung 
thư vú khác. Phẫu thuật và hóa trị được chứng minh 
là an toàn trên thai phụ, đặc biệt trên thai kỳ từ tam 
cá nguyệt thứ hai trở về sau. Xạ trị, nội tiết và thuốc 
kháng HER2 được khuyến cáo sử dụng sau sinh. 
VÚ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
423 
Trong nghiên cứu này, có 40,4% bệnh nhân đang 
mang thai lúc chẩn đoán ung thư vú. Trong đó 7 
bệnh nhân được phẫu thuật trong khi mang thai, 
tất cả đều phẫu thuật đoạn nhũ và nạo hạch nách. 
Kết quả này hơi khác biệt so với các nghiên cứu trên 
thế giới với tỉ lệ phẫu thuật bảo tồn trên phụ nữ 
mang thai cao hơn, 38% ở Ý và 40% ở Thổ Nhĩ Kỳ. 
Điều này có thể do phẫu thuật bảo tồn vú còn 
chưa phổ biến ở Bệnh viện chúng tôi thời điểm 
nghiên cứu. 
Hóa trị trong tam cá nguyệt thứ 2 và 3 tương 
đối an toàn và được chấp thuận rộng rãi. Tuy sử 
dụng hóa trị sau tam cá nguyệt thứ nhất vẫn có khả 
nĕng gây sinh non và chậm phát triển thai nhi, 
một số nghiên cứu ghi nhận tiên lượng tốt ở những 
đứa trẻ này về lâu dài. Tuy nhiên, hóa trị nên 
kết thúc 1 tháng trước sinh để hạn chế độc tính 
huyết học cho thai phụ lúc sinh. Phác đồ hóa trị dựa 
trên anthracycline được chứng minh an toàn trên 
phụ nữ đang mang thai như AC (adriamycin, 
cyclophosphamide); EC (epirubicin, 
cyclophosphamide); FAC (Flourouracil, adriamycin, 
cyclophosphamide); FEC (Flourouracil, epirubicin, 
cyclophosphamide). Vì vậy, đây được coi là những 
lựa chọn đầu tay cho bệnh nhân ung thư vú đang 
mang thai. Một vài nghiên cứu báo cáo loạt ca 
chứng minh sự an toàn của nhóm taxane trong thai 
kỳ. Tuy nhiên, NCCN khuyến cáo hạn chế sử dụng 
phác đồ có taxane trong thai kỳ do thiếu dữ liệu an 
toàn. Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 3 bệnh 
nhân được sử dụng hóa trị hỗ trợ lúc mang thai. 
Trong đó 2 trường hợp dùng phác đồ FEC và một 
trường hợp sử dụng phác đồ AC. Cả 3 trường hợp 
đều sử dụng hóa trị sau tuần thứ 24 của thai kỳ và 
kết thúc trước sinh. Tất cả đều ghi nhận trẻ không có 
dị tật và phát triển bình thường đến thời điểm 
kết thúc nghiên cứu. 
Kết quả điều trị 
Bảng 3. Tỉ lệ sống còn không bệnh và sống còn 
toàn bộ ở các nghiên cứu 
Nghiên cứu N Giai đoạn 
SCKB 
5 nĕm 
SCTB 
5 nĕm 
Nghiên cứu này 52 I - IIIC 59,3% 70,6% 
Azim 65 I - IIIC 52,1% 79,6% 
Amant 311 I - III 65% 78% 
Litton 75 I - III 72% 77% 
Genin 87 I - III 62% 80% 
Kết quả sống còn không bệnh 5 nĕm của 
nghiên cứu chúng tôi tương đương với các nghiên 
cứu khác tuy nhiên tỉ lệ sống còn toàn bộ 5 nĕm hơi 
thấp hơn các nghiên cứu khác cùng có cùng giai 
đoạn TNM. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ tái 
phát là 38,6%, trong đó tái phát di cĕn xa chiếm đa 
số lên đến 34,1%. Đây có thể là nguyên nhân chính 
dẫn đến tỉ lệ SCTB của nghiên cứu chúng tôi thấp 
hơn các nghiên cứu trên thế giới. 
Nghiên cứu của tác giả N.T. Huyền, theo dõi 
sống còn trên nhóm bệnh nhân ung thư vú người 
trẻ, tại Bệnh viện K, ghi nhận tỉ lệ SCTB và SCKB 
5 nĕm lần lượt là 79,5% và 66,0%. Kết quả SCTB và 
SCKB đều cao hơn so với nghiên cứu của chúng tôi. 
Điều này có thể do ảnh hưởng của thai kỳ lên sống 
còn của bệnh nhân. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, SCTB và 
SCKB 5 nĕm theo phân độ mô học, thụ thể nội tiết 
và sự biểu lộ HER2 không có sự khác biệt giữa các 
yếu tố phân nhóm. Điều này cũng được quan sát ở 
một số nghiên cứu, có thể do cỡ mẫu nhỏ nên sự 
khác biệt không có ý nghĩa thống kê. 
Tóm lại, kết quả nghiên cứu về vai trò của các 
yếu tố tiên lượng truyền thống đối với ung thư vú 
thai kỳ khá đa dạng, thậm chí có phần trái ngược 
nhau. Không chỉ riêng sự khác biệt đơn thuần của 
các đặc điểm mang tính thống kê, sự ảnh hưởng 
của thai kỳ lên ung thư vú có thể là câu trả lời cho 
những khác biệt đó. Vì vậy, cần có thêm các nghiên 
cứu lớn và mạnh hơn để đánh giá tiên lượng cũng 
như góp phần điều trị hiệu quả hơn cho bệnh nhân. 
KẾT LUẬN 
Bệnh nhân ung thư vú liên quan thai kỳ có 
những đặc điểm tiên lượng xấu: kích thước bướu 
lớn; di cĕn hạch nhiều; grad mô học trung bình, cao 
chiếm đa số; thụ thể nội tiết thường âm tính và tỉ lệ 
phân nhóm tam âm cao. Trong nghiên cứu của 
chúng tôi, tỉ lệ sống còn không bệnh 5 nĕm là 59,3%, 
sống còn toàn bộ 5 nĕm là 70,6%. Trong đó, kích 
thước bướu là yếu tố tiên lượng độc lập duy nhất 
cho sống còn toàn bộ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn T. H., Nguyễn T. H., Nguyễn T. V. 
(2018), "Đánh giá kết quả sống thêm sau 7 nĕm 
ở bệnh nhân ung thư vú nữ dưới 35 tuổi tại 
Bệnh viện K". Tạp chí Ung thư học Thành phố 
Hồ Chí Minh, Tập 2018, pp. 40712. 
2. Andersson T. M., Johansson A. L., Hsieh C. C., 
et al. (2009), "Increasing incidence of 
pregnancy-associated breast cancer in Sweden". 
Obstet Gynecol, 114 (3), pp. 568 - 72. 
3. 3Azim Jr H. A., Botteri E., Renne G., et al. 
(2012), "The biological features and prognosis of 
breast cancer diagnosed during pregnancy: a 
case-control study". Acta oncologica, 51 (5), 
pp. 653 - 661. 
VÚ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
424 
4. Bae S. Y., Kim S. J., Lee J., et al. (2018), 
"Clinical subtypes and prognosis of pregnancy-
associated breast cancer: results from the 
Korean Breast Cancer Society Registry 
database". Breast cancer research and 
treatment, 172 (1), pp. 113 - 121. 
5. Bae S. Y., Kim K. S., Kim J.-S., et al. (2018), 
"Neoadjuvant Chemotherapy and Prognosis of 
Pregnancy - Associated Breast Cancer: A Time - 
Trends Study of the Korean Breast Cancer 
Registry Database". Journal of breast cancer, 21 
(4), pp. 425 - 432. 
6. Johansson A. L., Andersson T. M. L., Hsieh C. 
C., et al. (2018), "Tumor characteristics and 
prognosis in women with pregnancy‐associated 
breast cancer". International journal of cancer, 
142 (7), pp. 1343 - 1354. 
7. Langer A., Mohallem M., Stevens D., et al. 
(2014), "A single-institution study of 117 
pregnancy-associated breast cancers (PABC): 
presentation, imaging, clinicopathological data 
and outcome". Diagnostic and interventional 
imaging, 95 (4), pp. 435 - 441. 
8. Loibl S., Han S. N., von Minckwitz G., et al. 
(2012), "Treatment of breast cancer during 
pregnancy: an observational study". The lancet 
oncology, 13 (9), pp. 887 - 896. 
9. Stensheim H., Moller B., van Dijk T., et al. 
(2009), "Cause - specific survival for women 
diagnosed with cancer during pregnancy or 
lactation: a registry-based cohort study". J Clin 
Oncol, 27 (1), pp. 45 - 51. 
10. Yu H., Cheung P., Leung R., et al. (2017), 
"Current management of pregnancy-associated 
breast cancer". Hong Kong Med J, 23 (4), 
pp. 387 - 94. 

File đính kèm:

  • pdfung_thu_vu_lien_quan_den_thai_ky_tai_benh_vien_ung_buou_than.pdf