Ứng dụng thang điểm phân loại bệnh nhân của Australia (ATS) trong phân loại bệnh nhân tại khoa cấp cứu - chống độc Bệnh viện nhi Trung Ương

Phân loại bệnh nhân là sắp xếp bệnh nhân vào các nhóm

ưu tiên để xử trí phù hợp với mức độ bệnh. Đánh giá phân

loại tập trung vào việc lựa chọn các dấu hiệu cấp cứu

và khu vực điều trị thích hợp nhất. Mục tiêu: Đánh giá

ứng dụng thang điểm phân loại bệnh nhân của Úc (ATS)

trong phân loại bệnh nhân tại khoa Cấp cứu – chống độc.

Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu mô tả cắt ngang 1942

bệnh nhân nhập khoa từ tháng 12/2014-3/2015. Kết quả:

Tỷ lệ nam/nữ = 2/1, chủ yếu là bệnh nhân dưới 3 tuổi

(68%), trẻ được nhập viện vào ca ngày (54%) nhiều hơn

ca đêm (46%). Về phân loại bệnh nhân: loại 4 là nhiều

nhất, tiếp đó là loại 3, loại 5, loại 2. Tỷ lệ bệnh nhân loại

1 chiếm thấp nhất. Vấn đề về hô hấp là dấu hiệu hay gặp

nhất ở các bệnh nhân nặng, tiếp đó là các bất thường về tri

giác, thần kinh. Dấu hiệu nặng ở hệ tuần hoàn ít gặp hơn.

Không có sự khác biệt về phân loại bệnh nhân của bác

sỹ và điều dưỡng. Kết luận:Nhóm trẻ có nguy cơ bệnh

nặng và nhóm nguy cơ đe dọa tính mạng gặp nhiều nhất,

do đó cần áp dụng thang điểm phân loại bệnh nhân một

cách thường quy để phát hiện và xử trí kịp thời các trường

hợp nặng

pdf 4 trang phuongnguyen 220
Bạn đang xem tài liệu "Ứng dụng thang điểm phân loại bệnh nhân của Australia (ATS) trong phân loại bệnh nhân tại khoa cấp cứu - chống độc Bệnh viện nhi Trung Ương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ứng dụng thang điểm phân loại bệnh nhân của Australia (ATS) trong phân loại bệnh nhân tại khoa cấp cứu - chống độc Bệnh viện nhi Trung Ương

Ứng dụng thang điểm phân loại bệnh nhân của Australia (ATS) trong phân loại bệnh nhân tại khoa cấp cứu - chống độc Bệnh viện nhi Trung Ương
SỐ 41 - Tháng 11+12/2017
Website: yhoccongdong.vn 41
 V
I N
 S
C K
H E C NG 
NG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TÓM TẮT
Phân loại bệnh nhân là sắp xếp bệnh nhân vào các nhóm 
ưu tiên để xử trí phù hợp với mức độ bệnh. Đánh giá phân 
loại tập trung vào việc lựa chọn các dấu hiệu cấp cứu 
và khu vực điều trị thích hợp nhất. Mục tiêu: Đánh giá 
ứng dụng thang điểm phân loại bệnh nhân của Úc (ATS) 
trong phân loại bệnh nhân tại khoa Cấp cứu – chống độc. 
Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu mô tả cắt ngang 1942 
bệnh nhân nhập khoa từ tháng 12/2014-3/2015. Kết quả: 
Tỷ lệ nam/nữ = 2/1, chủ yếu là bệnh nhân dưới 3 tuổi 
(68%), trẻ được nhập viện vào ca ngày (54%) nhiều hơn 
ca đêm (46%). Về phân loại bệnh nhân: loại 4 là nhiều 
nhất, tiếp đó là loại 3, loại 5, loại 2. Tỷ lệ bệnh nhân loại 
1 chiếm thấp nhất. Vấn đề về hô hấp là dấu hiệu hay gặp 
nhất ở các bệnh nhân nặng, tiếp đó là các bất thường về tri 
giác, thần kinh. Dấu hiệu nặng ở hệ tuần hoàn ít gặp hơn. 
Không có sự khác biệt về phân loại bệnh nhân của bác 
sỹ và điều dưỡng. Kết luận:Nhóm trẻ có nguy cơ bệnh 
nặng và nhóm nguy cơ đe dọa tính mạng gặp nhiều nhất, 
do đó cần áp dụng thang điểm phân loại bệnh nhân một 
cách thường quy để phát hiện và xử trí kịp thời các trường 
hợp nặng.
Từ khóa: Thang điểm ATS, phân loại bệnh nhi, cấp cứu,
ABSTRACT: ASSESSMENT OF THE 
AUSTRALIAN TRIAGE SCALES FOR CHILDREN 
HOSPITALIZED IN THE EMERGENCY 
AND POISON CONTROL DERPARTMENT, 
NATIONAL’S CHILDREN HOSPITAL 
Triage assessment is classified patients into priority 
groups for treatment consistent with medical degree. 
Triage assessment focuses on the collection of data 
that enables decisions regarding urgency and the most 
appropriate treatment area. Objecttive: To assess the 
Australian triage scales for patients hospitalized in the 
Emergency and poison control department. Methods: 
A descriptive and cross-sectional study in 1942 children 
hospitalized in the department, from 12/2014 to 3/2015. 
Result:male/female ratio was 2/1, mainly for children 
under 3 years (68%), daytime hospitalized 54%, nighttime 
hospitalized 46%.On the classification of patients: most of 
them were classified level 4, lever 3, lever 5, lever 2. The 
percentage of patients with level 1 occupies the lowest. 
Airway and breathing obstruction is the most common 
sign in severely ill patients, followed by a perceptual 
abnormalities, neurological. Signs of severe circulatory 
system is less common. No difference of lever triage 
between assessment of doctors and nurses. Conclusion: 
Most children hospitalized with urgent and less urgent, so 
need to apply ATS for patients routinely. 
Keywords: Australian Triage Scales (ATS); classified 
patients; emergency.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Phân loại bệnh nhân là một đánh giá lâm sàng nhanh 
nhằm sàng lọc những bệnh nhân ưu tiên trong một nhóm 
bệnh nhân lớn nhằm mục đích sắp xếp bệnh nhân nặng 
vào đúng nơi, nhận được đúng những can thiệp y tế phù 
hợp với mức độ trầm trọng của bệnh [4], đặc biệt quan 
trọng ở những nơi có số lượng bệnh nhân đông, nhân lực 
còn thiếu. 
Mục đích của việc đánh giá phân loại là xác định mức 
độ cấp cứu của bệnh nhân – các dấu hiệu đe dọa tính 
mạng, những tiên lượng xấu về kết quả điều trị và khả 
năng ổn định để đưa ra các can thiệp khẩn cấp nhằm cải 
thiện tình trạng bệnh [4].
Hiện tại với lưu lượng bệnh nhân đến khám và cấp cứu 
tại khoa Cấp cứu – chống độc trung bình khoảng trên 100 
bệnh nhân trong một ngày, việc sàng lọc bệnh nhân theo 
mức độ bệnh là việc làm rất cần thiết [1]. Bên cạnh đó, tỉ 
lệ tử vong chung của Bệnh viện có xu hướng giảm nhưng 
tỷ lệ bệnh nhân tử vong trước 24h lại gia tăng. Điều này 
ỨNG DỤNG THANG ĐIỂM PHÂN LOẠI BỆNH NHÂN 
CỦA AUSTRALIA (ATS) TRONG PHÂN LOẠI BỆNH NHÂN TẠI 
KHOA CẤP CỨU – CHỐNG ĐỘC BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
Đỗ Quang Vĩ1, Lê Ngọc Duy1, Phạm Ngọc Toàn1
Ngày nhận bài: 10/08/2017 Ngày phản biện: 16/08/2017 Ngày duyệt đăng: 26/08/2017
1. Bệnh viện Nhi Trung ương
SỐ 41 - Tháng 11+12/2017
Website: yhoccongdong.vn42
2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE
có thể phòng tránh được nếu những trẻ rất nặng nhanh 
chóng được đánh giá và điều trị ngay khi tới bệnh viện. 
Chính những vấn đề trên, nhóm nghiên cứu đã tiến hành đề 
tài nàyvới mục tiêu: Đánh giá ứng dụng thang điểm phân 
loại bệnh nhân của Úc (ATS) trong nhận định và phân loại 
bệnh nhân tại khoa Cấp cứu – chống độc năm 2014-2015.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN 
CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu:
Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân:
Tất cả các trẻ được nhập viện tại khoa Cấp cứu – chống 
độc từ 1/12/2014 – 31/3/2015
Tiêu chuẩn loại bệnh nhân
- Các bệnh nhân không được nhận định và phân loại 
theo thang điểm Úc hoặc không được tái phân loại trước 
khi chuyển khoa.
- Các bệnh nhân không hoàn thành quá trình điều trị.
2.2. Phương pháp nghiên cứu: 
Mô tả tiến cứu cắt ngang.
Chọn cỡ mẫu thuận tiện.
Công cụ nghiên cứu: Thang điểm phân loại bệnh nhân 
của Úc (ATS)
Phương pháp tiến hành
Bệnh nhân trong đối tượng nghiên cứu sẽ được điền 
thông tin thu thập nghiên cứu theo một mẫu thống nhất: 
tuổi, giới tính, thời gian nhập viện, dấu hiệu để phân loại, 
mức độ nặng, kết quả điều trị.
Bệnh nhân nhập khoa Cấp cứu – chống độc được bác 
sĩ và điều dưỡng tiếp đón nhận định và phân loại ghi 
vào phiếu đánh giá. Quy trình của bác sĩ và điều dưỡng 
được thực hiện độc lập nhau.
Bệnh nhân được tái phân loại cấp cứu bởi bác sỹ và 
điều dưỡng phòng bệnh trước khi chuyển khoa ghi vào 
phiếu đánh giá.
Bệnh nhân được theo dõi dọc từ lúc vào viện cho đến 
khi ra viện hoặc tử vong/xin về hoặc chuyển đơn vị HSCC 
hoặc chuyển chuyên khoa.
2.3. Thang điểm phân loại bệnh nhân của Úc 
(Australian triage scales) [4]
Bảng 1: Thang điểm phân loại bệnh nhân của Úc (ATS)
Phân loại
Đường thở
Airway
Thở
Breathing
Tuần hoàn
Circulation
Thần kinh
Disability
Loại 1
Đe dọa tính mạng 
tức thì
Xử trí ngay lập tức
Tắc nghẽn
Tắc nghẽn 1 
phần+khó thở 
nặng
Không thở 
hoặc giảm 
thông khí
Khó thở nặng
Khôngcó tuần hoàn 
Tim chậm <60l/ph ở trẻ 
bú mẹ
Giảm huyết động nặng
Chảy máu không cầm
Glasgow <8
Co giật
Loại 2
Đe dọa tính mạng
Xử trí trong 15 phút
Tắc nghẽn 1 
phần + khó thở 
vừa
Có thở
Khó thở vừa
Có tuần hoàn
Giảm huyết động vừa
Trên 6 dấu hiệu mất nước
Glasgow từ 9-12
Giảm hoạt động nặng
Đau nặng, giảm thần kinh mạch nặng
Loại 3
Nguy cơ đe dọa 
tính mạng
Thăm khám trong 
30 phút
Thông thoáng
Tắc nghẽn 1 
phần + khó thở 
nhẹ
Có thở
Khó thở nhẹ
Có tuần hoàn
Giảm huyết động nhẹ
3-6 triệu chứng mất 
nước
Glasgow>13
Giảm hoạt động vừa
Đau vừa, giảm thần kinh mạch vừa
Loại 4
Nguy cơ bệnh nặng
Thăm khám trong 
1 giờ
Thông thoáng
Có thở
Không khó 
thở
Có tuần hoàn
Không giảm huyết động
Dưới 3 dấu hiệu mất nước
Glasgow bình thường hoặc không 
thay đổi cấp tính điểm Glasgow 
thông thường
Giảm nhẹ hoạt động, Đau nhẹ
Loại 5
Không khẩn cấp
Khám theo thứ tự 
Thông thoáng
Có thở
Không khó 
thở
Có tuần hoàn
Không giảm huyết động
Không có dấu hiệu mất 
nước
Glasgow bình thường hoặc không thay 
đổi cấp tính Glasgow thông thường
Không thay đổi hoạt động
Không đau hoặc đau nhẹ
SỐ 41 - Tháng 11+12/2017
Website: yhoccongdong.vn 43
 V
I N
 S
C K
H E C NG 
NG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
III. KẾT QUẢ 
3.1. Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu
Biểu đồ 3.1. Phân bố bệnh nhân theo nhóm tuổi 
Biểu đồ 3.2. Phân bố bệnh nhân theo giới
Biểu đồ 3.3. Thời điểm nhập khoa
Bảng 3.1. Phân loại bệnh nhân theo thang điểm ATS
Phân loại 1 2 3 4 5 Tổng (%)
BS 73(3,8) 141(7,3) 653(33,6) 910(46,9) 165(8,4) 1942 (100)
ĐD 58(2,9) 157(8,1) 557(28,7) 962(49,5) 209(10,8) 1942 (100)
Các dấu hiệu mất nước: Giảm mức độ tỉnh táo/hoạt 
động, thời gian làm đầy mao mạch >2s, khô niêm mạc, 
mắt trũng, giảm độ đàn hồi da, thở sâu, không có nước 
mắt, mạch yếu, nhịp tim nhanh, giảm bài tiết nước tiểu.
Biểu đồ 1 cho thấy bệnh nhi dưới 3 tuổi là 1321 cháu chiếm tỷ lệ 
68%; trên 3 tuổi có 621 cháu chỉ chiếm 32%.
Có sự khác biệt về giới tính với trẻ nam 1282 cháu chiếm 66% và 
trẻ nữ có 660 cháu chiếm 34%. 
Tỷ số nam/nữ = 2/1.
Theo phân loại của bác sỹ và điều dưỡng, đường thở 
và thở có tắc nghẽn là dấu hiệu hay gặp nhất ở các bệnh 
nhân nặng, tiếp đó là các bất thường về tri giác, thần kinh. 
Dấu hiệu nặng ở hệ tuần hoàn ít gặp hơn.
Trong số1942 bệnh nhân nhập viện: Có 910 bệnh nhân 
được bác sỹ phân loại 4 chiếm 46,9%. 653 bệnh nhân phân 
loại 3 (33,6%), 165 bệnh nhân phân loại 5, và 214 bệnh nhân 
được phân loại nặng (loại 1, 2). Điều dưỡng phân loại 215 
bệnh nhân nặng chiếm 11%, 557 bệnh nhân loại 3 (28,7%), 
962 bệnh nhân loại 4 (49,5%), 209 bệnh nhân loại 5.Tuy có 
sự khác biệt giữa phân loại của bác sỹ và điều dưỡng nhưng 
sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
1049 bệnh nhân nhập khoa vào ca ngày tính từ 8h-18h chiếm 
54%; 893 bệnh nhân vào ca đêm tính từ 18h-8h hôm sau chiếm 46%
3.2. Phân loại bệnh nhân nhập viện theo thang điểm ATS
Bảng 3.2.Dấu hiệu phân loại trong số bệnh nhân nặng
Phân loại 1 2 3
HH TH TK HH TH TK HH TH TK
BS 39 11 22 55 24 22 249 104 296
ĐD 33 8 17 61 27 17 222 82 249
SỐ 41 - Tháng 11+12/2017
Website: yhoccongdong.vn44
2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE
IV. BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu
Tỷ lệ bệnh nhân dưới 3 tuổi nhập viện chiếm đa số 
(68%), giới nam (66%) nhiều hơn nữ. Theo tác giả Lê 
Thanh Hải và cộng sự nghiên cứu mô hình bệnh tật tại khoa 
Cấp cứu năm 2012, tỷ lệ nam là 61% [2]. Bệnh nhân vào 
ca ngày 54% và ca đêm 46%. Khoa Cấp cứu – chống độc 
là nơi tiếp đón, phân loại bệnh nhân và xử trí cấp cứu [1], 
bệnh nhân nhập khoa vào bất cứ thời điểm nào trong ngày. 
4.2. Phân loại bệnh nhân
Trong 1942 bệnh nhân được bác sỹ và điều dưỡng phân 
loại, bệnh nhân được xếp loại 4 là nhiều nhất. Những bệnh 
nhân này có nguy cơ bệnh nặng hoặc tình trạng khẩn cấp 
hoặc những triệu chứng phải chú ý, được xếp vào khu lưu 
theo dõi và được nhân viên y tế thăm khám trong vòng 1 
giờ để chẩn đoán, ổn định bệnh nhân, hội chẩn chuyên khoa 
và điều trị ban đầu. Nhóm bệnh nhân có nguy cơ đe dọa 
tính mạng (xếp loại 3) được thăm khám trong vòng 30 phút) 
chiếm 33,6% theo phân loại của bác sỹ và 28,7% theo phân 
loại của điều dưỡng. Nhóm bệnh nhân không khẩn cấp xếp 
loại 5 được tiếp đón theo thứ tự. Nhóm bệnh nhân đe dọa tính 
mạng xếp loại 2 được chuyển vào phòng cấp cứu và xử trí 
trong vòng 15 phút. Tỷ lệ bệnh nhân loại 1 chiếm thấp nhất, 
theo phân loại của bác sỹ chỉ có 3,8%, phân loại của điều 
dưỡng 2,9%. Đây là những bệnh nhân bị đe dọa tính mạng 
tức thì, được hồi sức ngay lập tức. Theo tác giả Đỗ Thị Hải 
Vân (2008) số bệnh nhân ở trong tình trạng cấp cứu chiếm 
xấp xỉ 43% chứng tỏ việc phân loại bệnh nhân chưa tốt dẫn 
đến việc nhiều trường hợp có thể trì hoãn nhưng vẫn được 
bác sỹ khám ngay làm giảm sự tập trung nguồn nhân lực vào 
các ca cấp cứu khác. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng tỷ lệ bệnh 
nhân nhẹ đi sau phân loại và xử trí 1 giờ chiếm tỷ lệ cao nhất 
(80,2%) và đó chính là hiệu quả của phân loại bệnh nhân 
cũng như các can thiệp y tế kịp thời [3]. 
Dù có sự khác nhau trong xếp loại từng nhóm bệnh 
nhân nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê. 
Điều này chứng tỏ cả bác sỹ và điều dưỡng đều được đào 
tạo cơ bản về phân loại bệnh nhân.Theo nghiên cứu của 
tác giả Cao Thị Hoa thì điều dưỡng sau chương trình đào 
tạo năm 2013, kiến thức và kỹ năng thực hành đúng trong 
phân loại bệnh nhân là 77%, vẫn còn 23% số phiếu chưa 
thực hiện phân loại đúng [1].
Việc phân loại bệnh nhân vẫn áp dụng theo trình tự 
ABCD, trong đó tình trạng bất thường về thở và đường thở 
(A, B) vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất. Kết quả này phù hợp với 
nghiên cứu của tác giả Lê Thanh Hải và cộng sự năm 2007-
2011, mặt bệnh nổi bật vào khoa cấp cứu là hô hấp 19-24%, 
bệnh ngoại khoa hay gặp thứ 2 chiếm 18-19% [2].
V. KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu trên 1942 trẻ nhập khoa Cấp cứu- chống 
độc từ tháng 12/2014 đến tháng 3/2015, chúng tôi thấy: 
Đa số là bệnh nhân dưới 3 tuổi (68%), trẻ nam (66%) 
nhiều hơn trẻ nữ, nhập viện ca ngày (54%) nhiều hơn ca 
đêm (46%).Về phân loại bệnh nhân: số bệnh nhân được 
xếp loại 4 là nhiều nhất, tiếp đó là loại 3, loại 5, loại 2. Tỷ 
lệ bệnh nhân loại 1 chiếm thấp nhất. Đường thở và thở có 
tắc nghẽn là dấu hiệu hay gặp nhất ở các bệnh nhân nặng, 
tiếp đó là các bất thường về tri giác, thần kinh. Dấu hiệu 
nặng ở hệ tuần hoàn ít gặp hơn.Không có sự khác biệt 
giữa phân loại của bác sỹ và điều dưỡng.
VI. KIẾN NGHỊ
1- Tổ chức đào tạo và cập nhật kiến thức vê phân loại 
bệnh nhân thường xuyên.
2- Áp dụng thang điểm phân loại bệnh nhân của Úc 
(ATS) một cách thường quy tại khoa Cấp cứu cũng như 
tại khoa Khám và các khoa lâm sàng khác.
3- Xem xét việc xếp loại bệnh nhân theo màu để tiện cho 
việc theo dõi và chăm sóc bệnh nhân trong quá trình điều trị.
1. Cao Thị Hoa (2013) Đánh giá kết quả đào tạo điều dưỡng về phân loại bệnh nhân và tìm hiểu một số yếu tố ảnh 
hưởngđến việc thực hiện phân loại bệnh nhân của điều dưỡng tại khoa Cấp cứu, BV Nhi Trung ương năm 2013. Luận 
văn thạc sỹ quản lý bệnh viện, Trường Đại học Y tế Công cộng.
2. Lê Thanh Hải, Trương Thị Mai Hồng, Phạm Ngọc Toàn, Đỗ Quang Vỹ, Lê Thị Thùy Dung (2007-2011) Mô hình 
bệnh tật tại Khoa Cấp cứu, Bệnh viện Nhi Trung ương 2007-2011. Tạp chí Y học Thực hành. Bộ Y tế.
3. Đỗ Thị Hải Vân (2008) Bước đầu đánh giá tình hình phân loại bệnh nhân theo mức độ cấp cứu tại Khoa Cấp cứu 
Bệnh viện Bạch Mai, Trường Đại học Y Hà Nội.
4. The Advanced Life Support Group (2012) Advanced Paediatric Life Support, 5th Ed the Australia and Newzealand. 
Appendix G, 318.
5. The Canadian Association of Emergency Physicians (1998) The Canadian Paediatric E.D. Triage and Acuity Scale
TÀI LIỆU THAM KHẢO

File đính kèm:

  • pdfung_dung_thang_diem_phan_loai_benh_nhan_cua_australia_ats_tr.pdf