Ứng dụng tế bào gốc trong chấn thương chỉnh hình: Các bằng chứng hiện nay là gì?
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Liệu pháp tế bào gốc đóng một vai trò quan trọng trong điều trị chỉnh hình. Mặc dù một số nghiên cứu đã chỉ ra kết quả đầy hứa hẹn trong việc sửa chữa xương, gân và sụn, một vài nghiên cứu khác lại mô tả những kết quả không khả quan. Khả năng tái tạo xương và sụn của các tế bào gốc đã được chứng minh lâm sàng, nhưng khả năng tái tạo dây chằng vẫn còn trong giai đoạn thử nghiệm.
Có nhiều các yếu tố khác nhau kiểm soát kết cục của bệnh bao gồm các giai đoạn của bệnh, kỹ thuật xử lý và tập trung, phương pháp ứng dụng và duy trì. Các nhà nghiên cứu vẫn chưa xác định được phương tiện vận chuyển tốt nhất cho các tế bào gốc. Bài viết này tập trung vào các vấn đề cơ bản của tế bào gốc và khuyến nghị hiện tại của chúng trong chỉnh hình
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ứng dụng tế bào gốc trong chấn thương chỉnh hình: Các bằng chứng hiện nay là gì?
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016 20 Nguyễn Đình Hòa, Nguyễn Lê Bảo Tiến, Đinh Ngọc Sơn, Nguyễn Văn Thạch ỨNG DỤNG TẾ BÀO GỐC TRONG CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH: CÁC BẰNG CHỨNG HIỆN NAY LÀ GÌ? I. ĐẶT VẤN ĐỀ Liệu pháp tế bào gốc đóng một vai trò quan trọng trong điều trị chỉnh hình. Mặc dù một số nghiên cứu đã chỉ ra kết quả đầy hứa hẹn trong việc sửa chữa xương, gân và sụn, một vài nghiên cứu khác lại mô tả những kết quả không khả quan. Khả năng tái tạo xương và sụn của các tế bào gốc đã được chứng minh lâm sàng, nhưng khả năng tái tạo dây chằng vẫn còn trong giai đoạn thử nghiệm. Có nhiều các yếu tố khác nhau kiểm soát kết cục của bệnh bao gồm các giai đoạn của bệnh, kỹ thuật xử lý và tập trung, phương pháp ứng dụng và duy trì. Các nhà nghiên cứu vẫn chưa xác định được phương tiện vận chuyển tốt nhất cho các tế bào gốc. Bài viết này tập trung vào các vấn đề cơ bản của tế bào gốc và khuyến nghị hiện tại của chúng trong chỉnh hình. Liệu pháp tế bào gốc có vẻ là một lựa chọn mới đầy hấp dẫn trong điều trị,nhưng tỷ lệ thất bại cũng như thành công trong được chỉ ra trong các nghiên cứu này là ngang nhau. Trong tương lai cần có nhiều hơn các thử nghiệm dài hạn ngẫu nhiên trên người có kết quả tốt trước khi việc sử dụng của các tế bào này được khuyến khích. Áp dụng “y học tái tạo” trong thực hành chỉnh hình đem đến một tia hy vọng mới cho các bác sĩ phẫu thuật. Vô số các ca chỉnh hình với các lựa chọn điều trị hạn chế có thể được hưởng lợi với công nghệ được phát triển trong y học tái tạo1. Các yếu tố tăng trưởng, tế bào gốc và các sản phẩm được phát triển thông qua kỹ thuật di truyền hiện đang được sử dụng rộng rãi trong nhiều điều kiện chỉnh hình. Tế bào gốc có tiềm năng lớn trong việc sửa chữa các mô bị hư hỏng, nhưng các ứng dụng lâm sàng vào các vị trí đích vẫn là một thách thức lớn. Bài nhận xét này cung cấp một mô tả ngắn gọn về các tế bào gốc, và thảo luận thực trạng của tế bào gốc trong thực hành chỉnh hình. II. THẢO LUẬN: Các tác giả đã tham khảo một số nghiên cứu của họ trong nhận xét này. Những nghiên cứu này được tiến hành theo quy định của Tuyên bố Helsinki (1964) và các protocol của những nghiên cứu này đã được sự chấp thuận của hội đồng đạo đức có liên quan ở các tổ chức nơi thực hiện nghiên cứu. Tất cả các đối tượng nghiên cứu đều đã gửi bản đồng thuận tham gia vào các nghiên cứu. 2.1. Khái niệm về tế bào gốc Tế bào gốc là tế bào có hai thuộc tính thiết yếu: tự đổi mới và khả năng biệt hóa thành một loại tế bào cụ thể. Như vậy, một tế bào gốc có khả năng tự duy trì số lượng của riêng mình đồng thời có thể sản xuất một dòng tế bào cụ thể2,3. Sự biệt hóa mà một tế bào gốc sẽ trải qua phụ thuộc vào loại tế bào gốc và môi trường xung quanh. Nói rộng ra, có hai loại tế bào gốc: tế bào gốc phôi thai và tế bào gốc trưởng thành. Tế bào gốc phôi thai (ESCs), như tên gọi của nó, là những tế bào có mặt ở phôi, nghĩa là chỉ tìm thấy trong giai đoạn phát triển đầu của một sinh vật. Chúng được coi là vô cùng đa năng và có năng lực trong quá trình tự đổi mới không giới hạn. Vì rất đa năng nên một ESC có thể làm tăng bất kỳ loại tế bào nào của cơ thể và do đó có thể hồi phục một phần hoặc thậm chí một bộ phận hoàn chỉnh3. Việc thu hoạch một ESC, mà được tìm thấy trong một phôi thai, không chỉ khó khăn và đòi hỏi kỹ thuật, mà còn có nhiều vấn đề đạo đức và pháp lý liên quan. Tạo ra tế bào gốc đa năng (iPS) lần đầu tiên được báo cáo bởi Takahashi và Yamanaka năm 20064. Họ chuẩn bị các tế bào này bằng cách cung cấp các yếu tố tăng trưởng phôi vào tế bào soma để gây biệt hóa ngược các tế bào soma, khiến chúng hoạt động như ESCs. Như vậy, quá trình này xóa bỏ việc xem xét về mặt đạo đức nhưng kỹ thuật này chưa được đưa vào sử dụng hàng loạt, chủ yếu là do Phần 1: Phẫu thuật cột sống 21 e ngại nguy cơ tạo ra các quái thai từ các tế bào này 5. Các tế bào gốc trưởng thành cũng rất đa năng và được tìm thấy nhiều hơn hoặc ít hơn trong mỗi mô. Những tế bào gốc đa năng không có tính vạn năng như ESCs nhưng đủ khả năng để sản xuất các tế bào của một dòng tế bào cụ thể; thường là ở các mô trong đó các tế bào gốc cư trú và xác định các dòng di truyền. Điều này thu hẹp khả năng ứng dụng lâm sàng của các tế bào gốc này nhưng trong các kỹ thuật ứng dụng tế bào gốc hiện tại sử dụng tế bào gốc tự thân, nó chắc chắn là an toàn hơn so với các ESCs và xóa bỏ đi mối lo ngại về đạo đức và pháp lý. Hơn nữa, xem xét về mặt chi phí, các ứng dụng của tế bào gốc trưởng thành có chi phí hiệu quả cao hơn so với ESCs. Trong số những tế bào gốc trưởng thành, tế bào gốc trung mô(MSC) được nghiên cứu nhiều nhất và được coi là tế bào gốc có năng lực cao nhất. Mặc dù các MSC được tìm thấy trong tủy xương, mỡ, màng hoạt dịch, màng xương và các vị trí khác6, tủy xương được xem là nguồn cung cấp chính của các tế bào này. Các tế bào MSC có thể được tạo ra trong ống nghiệm và trong cơ thể để biệt hóa thành nhiều loại tế bào trung mô, bao gồm cả xương, sụn, gân, chất béo và tế bào mô đệm tủy xương7. Sự biệt hóa thành các loại tế bào trong mô cụ thể, chẳng hạn như tế bào cơ tim, tế bào nội mô, các tế bào gan và các tế bào thần kinh8 đã được chứng minh trong nghiên cứu thực nghiệm. Dựa trên nguồn tế bào gốc, hai loại khác đã được mô tả. Chúng có đặc tính trung gian giữa các ESCs và các tế bào gốc trưởng thành. Tế bào gốc thai nhi được chiết xuất từ các tế bào máu của thai nhi hoặc các mô ngoài phôi. Chúng vạn năng nhưng ít linh hoạt hơn so với ESCs, và đang được nghiên cứu trong điều trị các bệnh ở tử cung9. Tương tự như vậy, các tế bào gốc rốn đang được cô lập từ máu dây rốn tại thời điểm sinh. Có một nồng độ cao các tế bào gốc giàu tiềm năng trong máu cuống rốn, và chúng được sử dụng trong điều trị các rối loạn về máu và tủy xương10. 2.2. Ứng dụng của tế bào gốc Các MSCs là các tế bào gốc được nghiên cứu nhiều nhất và do đó cũng được áp dụng phổ biến nhất. Các tế bào gốc có thể được sử dụng trong hai cách. Một được gọi là liệu pháp tế bào trong đó các tế bào gốc được thu lượm và được ứng dụng như ‘các tế bào’ vào khu vực đang quan tâm. Một nguồn chính của MSC là tủy xương, đặc biệt là từ các mào chậu. Tủy xương được hút từ khu vực sau trên của vùng xương chậu và các MSC được sử dụng hoặc bằng cách hút tập trung để sử dụng các tế bào gốc nguyên bản có sẵn11 hoặc các tế bào được tách ra và nuôi cấy8 trong phòng thí nghiệm để tăng số lượng của chúng trước khi sử dụng. Dạng ứng dụng khác phức tạp hơn được gọi là kỹ thuật mô. Ở đây, các tế bào gốc được kết hợp với một ma trận ba chiều (3D) để tạo ra một mô hình giống với mô để thay thế phần bị mất của các mô, hoặc thậm chí toàn bộ một cơ quan3. Mặc dù có nhiều cấu trúc đã được thực hiện thành công, kỹ thuật mô chỉ giới hạn trong phòng thí nghiệm và các ứng dụng lâm sàng là rất hạn chế. Điều này được quy là do sự bất lực trong việc xây dựng hệ thống mạch máu của các cấu trúc mẫu12. MSC được cho là hành động bằng hai cách; một là sát nhập như các thành phần của mô hoặc cơ quan có cấu trúc khuyết thiếu và một như một chất kích thích tiết ra các cytokinet để thúc đẩy quá trình chữa lành mô nội tại13. 2.3. Ứng dụng tế bào gốc trong chỉnh hình Hiện nay phẫu thuật chỉnh hình đã mở rộng từ một ngành luôn gắn liền với xương sang cân nhắc cả đến các cơ, gân, dây chằng và sụn như một phần thiết yếu của nó. Vai trò hỗ trợ và vận động linh hoạt của chúng làm cho các cấu trúc này dễ bị chấn thương. Sự thiếu tưới máu hơn so với các mô khác khiến cho các cấu trúc này không có khả năng phục hồi nhanh như các bộ phận cơ thể khác. Do đó, về lâu dài sẽ có xu hướng trở thành một dấu ấn của các chấn thương cơ xương. Tổn thương không liền, hoại tử vô mạch (AVN), khuyết tật về xương, khuyết tật gân và sụn là một trong số ít các tình trạng cơ xương mà phương thức điều trị hiệu quả còn thiếu và đây là những khu vực nơi các tế bào gốc và y học tái tạo có một vai trò nhất định. Việc sử dụng lâm sàng các tế bào gốc đã được thực hiện ở các tổn thương không liền, AVN, như chất độn của các khuyết tật xương, thúc đẩy sự hợp nhất cột sống vv. Việc sử dụng tế bào gốc để tăng cường hồi phục gân tổn thương và cho sự phát triển của sụn vẫn còn trong giai đoạn thử nghiệm và ứng dụng lâm sàng là rất hạn chế. 2.4. Sử dụng trong tổn thương khó liền Xương là một mô kỳ diệu. Các xu hướng tự nhiên của xương là kết hợp bằng cách hình thành xương khi bị gãy. Tuy nhiên, nhiều trường hợp bị gãy xương có thể không nối lại được. Có rất nhiều lý do cho vấn đề này và thảo luận về chúng nằm ngoài phạm vi của bài viết. Đôi khi, không liền xương là do kẽ hở ở vị trí bị TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016 22 gãy do xương bị mất đi. Các phương pháp phổ biến để điều trị xương không liền là ghép xương để cung cấp chất nền tăng trưởng (osteoinductive) và dẫn truyền xương (osteoconductive) và cung cấp tế bào xương nguyên thủy. Ghép xương được coi là quy trình chuẩn cho xương không liền. Tuy nhiên, kỹ thuật ghép xương tự thân có xu hướng gây ra tình trạng bệnh tật ở vị trí cho và việc cấy ghép xương có xu hướng sản xuất phản ứng miễn dịch. MSC có tiềm năng tạo xương14,15; chúng có xu hướng biệt hóa theo con đường tạo xương khi đáp ứng với các kích thích hóa học16. MSC được chứng minh là nguồn gốc của hệ thống xương nội sụn. Phương pháp ứng dụng của MSC, mà thường được thu thập từ mào chậu, là tiêm qua da tới các vị trí không liền xương. Tiêm qua da MSC đã được chứng minh là giúp thúc đẩy quá trình liền xương bởi Connolly et al.17, Garg et al.18, Kettunen et al.19, Hernigou et al.14 và Goel et al.20. Các ứng dụng của các các nhà nghiên cứu đã được thực hiện trên xương dài, đặc biệt là xương chày và cả các trường hợp được chẩn đoán là khớp giả. Fernandez et al.21 nghiên cứu những tác động của tế bào đơn nhân tủy xương kết hợp với ghép xương dị hợp trong việc sửa chữa hiện tượng khớp giả của xương dài. Tế bào tủy đơn nhân tủy xương (BMMNCs) bao gồm các các tế bào nguyên thủy và tế bào gốc với đặc tính hỗ trợ tạo máu và tạo xương. Họ kết luận rằng, “Sự kết hợp của BM-MNCs tự thân và dị ghép xương có thể tạo ra một nỗ lực dễ dàng, an toàn, không tốn kém và hiệu quả để điều trị giả khớp xương dài và không liền xương bằng cách giữ nguyên các đặc tính có lợi của ghép xương tự thân trong khi hạn chế các bất lợi của nó” . Do đó, các tế bào gốc rất hữu ích trong việc thúc xương liền trong các trường hợp không liền xương khi chúng được sử dụng một mình hoặc kết hợp. 2.5. Sử dụng trong hoại tử vô mạch của chỏm xương đùi Hoại tử vô mạch chỏm xương đùi thường thấy ở những bệnh nhân trẻ sau chấn thương, dung nạp steroid, tiêu thụ rượu vv Mất tuần hoàn dẫn đến chết các tế bào xương có mặt trong khu vực dưới sụn và gây ra vỡ sụp đầu xương đùi; nó làm thay đổi hình dạng của đầu xương đùi và gây đau, khập khiễng và hạn chế vận động. Các lựa chọn điều trị có sẵn cho đến nay chủ yếu tập trung vào việc giảm áp lực nội xương bởi các kênh khoan vào đầu xương đùi thông qua cổ xương nếu được phát hiện sớm. Khi bệnh tiến triển nặng hơn, thay thế khớp thường là lựa chọn ưu tiên22. Kích thích điện, thủ thuật đục xương và sử dụng thuốc đã được nghiên cứu với kết quả đem lại khác nhau. MSC đã được áp dụng cho tái phát triển của khu vực chết của chỏm xương đùi. Một phương pháp phổ biến của ứng dụng là tiêm tủy xương đậm đặc (Hình 1 và 2). Phần 1: Phẫu thuật cột sống 23 Các nghiên cứu của Hernigou et al.23,24, Gangji et al.25 và Sen et al.26 đã cho kết quả đầy hứa hẹn. Gần đây, Wang et al.27 báo cáo mở ổ, ghép xương tự thân và cấy tế bào đơn nhân tủy xương như một quy trình hiệu quả ở bệnh nhân có tổn thương nhỏ, AVN chỏm xương đùi giai đoạn sớm. Quy tình đưa tế bào nguyên bản vào vùng xương chết có vẻ hợp lý và kết quả của nó đã tự chứng minh cho bản thân. Giới hạn cho việc sử dụng của tế bào gốc trong những trường hợp này là giai đoạn của biểu hiện bệnh vì một khi đã có vỡ sụp xương, hình dạng của đầu xương đùi không thể được trả lại như bình thường bởi các tế bào gốc. Nhìn chung, với sự thích hợp trong lựa chọn bệnh nhân, các tế bào gốc là phương pháp hứa hẹn kiểm soát hoại tử chỏm xương đùi26. 2.6. Các tế bào gốc như chất làm đầy các lỗ rỗng xương Nói chung, quá trình phẫu thuật sẽ để lại một khoảng trống trong xương. Tình trạng này được tìm thấy trong trường hợp các khối u xương lành tính như u nang xương mà việc nạo được thực hiện và trong trường hợp có một khiếm khuyết xương. Mặc dù ghép xương tự thân có thể được sử dụng để lấp vào các các lỗ rỗng, sử dụng kết hợp tế bào gốc với ghép xương đã được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu. Park et al.28 và Zamzam et al.29 đã sử dụng tế bào gốc để làm đầy khoảng trống trong u nang xương đơn thuần và nhận được kết quả tốt. Tuy nhiên, Wright et al.30 lại nhận thấy các mũi tiêm tủy xương vào u nang xương đơn thuần có chất lượng thấp hơn là tiêm ethyl prednisolone trong tổn thương. Marcacci et al.31 sử dụng MSC tự thân được nhân lên trong ống nghiệm và cấy trên giàn giáo hydroxyl-appatite để làm đầy các khuyết tật thân xương và báo cáo có sự hàn gắn tốt giữa các mảnh ghép 7 năm sau phẫu thuật mà không có bất kỳ gãy xương thứ cấp nào. Jager et al.32 cũng kết luận rằng MSC có thể là một liệu pháp hứa hẹn thay thế ghép xương tụ thân cho các khuyết tật về thể tích xương. Như vậy, các nghiên cứu được tiến hành cho đến nay ủng hộ việc sử dụng MSC trong tủy xương như một thay thế khả thi và hứa hẹn cho ghép xương tự thân. 2.7. Sử dụng trong các khuyết tật sụn Sụn là mô rất khó lành. Một khi bị hư hỏng, khả năng tự sửa chữa được là rất nghèo nàn. Ghép sụn tự thân và cấy ghép tế bào sụn tự thân đã được sử dụng cho khuyết tật sụn lớn với mức độ thành công khác nhau. Mài mòn sụn trong hố khoan được thực hiện cho phép tủy xương dưới sụn đi ra và xếp lớp lên các khiếm khuyết sụn đã cho thấy các kết quả tốt. Như vậy một quá trình được theo sau bởi sự hình thành của các sợi tơ sụn ở vị trí sụn có khiếm khuyết33. Các kết quả đáng khích lệ cho thấy MSC sửa chữa toàn bộ độ dày trong khiếm khuyết sụn ở thỏ, được báo cáo bởi Shafiee et al.34 và Tay et al.35 gợi ý việc sử dụng tương tự trong thực hành lâm sàng. Wakitani et al.36 báo cáo một loạt ba trường hợp sửa chữa khiếm khuyết sụn khớp ở khớp xương bánh chè với MSC tủy xương tự thân. Họ đã nhân rộng các MSC thu hoạch từ xương chậu trong ống nghiệm trong 4 tuần và sau đó cấy chúng đến các vị trí khuyết tật sử dụng gel collagen và bao phủ những khiếm khuyết với một vạt màng xương. Họ báo cáo kết quả lâm sàng khả quan và vĩ mô. Các cỡ mẫu nhỏ làm giảm các sức ảnh hưởng của nghiên cứu. Một nghiên cứu thuần tập được thực hiện bởi Nejadnik et al.37 trên tổng cộng 36 bệnh nhân. Các bệnh nhân này đã trải qua ghép sụn tự thân hoặc cấy MSC. 24 tháng sau khi mổ, không có sự khác biệt đáng kể về điểm chức năng của đầu gối giữa các nhóm đã được ghi nhận. MSC Buda et al.38 sử dụng MSC cho điều trị các tổn thương xương sụn của xương đùi và xương sên. Họ báo cáo các kết quả lâm sàng đáng ghi nhận và sự hàn gắn tốt của các tế bào trong các khuyết tật trong cả hai dạng tổn thương xương sụn. Do đó, việc sử dụng MSC trong các tổn thương sụn đã đi đến giai đoạn lâm sàng từ giai đoạn thử nghiệm và cho những kết quả đáng khích lệ. 2.8. Sử dụng trong sửa chữa gân Gân, tổ chức chủ yếu bao gồm collagen là một trong những cấu trúc ít mạch máu của cơ thể và khi bị thương thì không có xu hướng chữa lành nhanh chóng. Xu hướng không hồi phục này tạo ra một tình trạng gọi là viêm gân. Các nhà khoa học đã cố gắng sử dụng nhiều cách khác nhau để cải thiện quá trình lành gân. Sử dụng chất kích thích tăng trưởng như tiểu cầu giàu plasma39 đã được sử dụng để tăng cường khả năng chữa lành gân. Các nghiên cứu thử nghiệm trên động vật trong phòng thí nghiệm sử dụng MSC bám trên các loại giàn giáo khác nhau đã trở lại một số kết quả đáng khích lệ nhưng không đồng đều. Chong et al.40 sử dụng MSC với fibrin sealant cho gân Achilles của một con thỏ. Trong nghiên cứu của họ, không có sự khác biệt giữa fibrin và fibrin với MSC hiển thị trong mô học. Gulotta et al.41,42 đã thành công trong việc nâng cao khả năng lành gân trong mô hình dây chằng vai, chuyển nạp MSC sử dụng yếu tố phiên mã phôi loại 1-matrix metalloproteinase TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016 24 và yếu tố phiên mã gân scleraxis. Gần đây,tế bào gốc có nguồn gốc từ dây chằng (TDSCs) đã được xác định trong ở trong khối các mô gân43. TDSCs biểu lộ toàn bộ các đặc điểm của tế bào gốc, chẳng hạn như khả năng tạo dòng, khả năng tăng sinh cao, tiềm năng biệt hóa đa dang, không sinh miễn dịch và ức chế miễn dịch và do đó có thể trở thành tác nhân tiềm năng trong sửa chữa gân khi hiệu quả lâm sàng của chúng được chứng minh trong phòng thí nghiệm và trên lâm sàng. Vì vậy, việc sử dụng các tế bào gốc có thể là một lựa chọn tốt trong chấn thương gân nhưng các kết quả cho đến nay chỉ giới hạn trong nghiên cứu thực nghiệm và các bằng chứng lâm sàng vẫn đang được trông đợi trong một tương lai không xa trước khi các tế bào gốc này được khuyên dùng. 2.9. Các ứng dụng khác của tế bào gốc trong chỉnh hình Cùng với các ứng dụng của các tế bào gốc được thảo luận trên, một số các trường hợp khác cũng đang được nghiên cứu để ứng dụng tế bào gốc cho thích hợp. Sự tăng cường trong thủ thuật nôi các khớp đốt sống đã được thử nghiệm bằng cách sử dụng các tế bào gốc của Neen và Gan 43,44. Gan báo cáo 95,1% số bệnh nhân của họ có sự hợp nhất tốt hơn sau 34,5 tháng nhưng Neen báo cáo khả năng chữa bệnh tương tự như ghép xương xốp tự thân trong nối sau-bên và kết quả nghèo nàn trong nối xương giữa các đốt sống ở vị trí đĩa đệm (interbody fusion). Dallari45 đã sử dụng lát xương đông khô với huyết tương giàu tiểu cầu và tủy xương được hút trong thủ thuật mở xương chày cao và thấy được khả năng chữa lành tăng cao. Silva46 tiến hành một thử nghiệm ngẫu nhiên trên 43 bệnh nhân tái thiết lại dây chằng chéo trước (ACL). Hai mươi bệnh nhân trong nhóm thực nghiệm nhận tế bào gốc tủy xương trưởng thành không được nuôi dưỡng và 23 bệnh nhân trong nhóm chứng không nhận được tế bào gốc. Tất cả các bệnh nhân được chụp cộng hưởng từ đầu gối 3 tháng sau phẫu thuật để đánh giá tỷ số nén nhiễu của các liên khu . Họ kết luận rằng tế bào gốc tủy xương trưởng thành không làm tăng tốc độ chữa lành trong tái thiết ACL, do đó tế bào gốc có vai trò hạn chế trong hồi phục ACL. Các mô thần kinh từ lâu được coi là không có khả năng tái sinh. Khi bị hư hỏng, cơ hội phục hồi của các mô thần kinh ở tủy sống tổn thương là rất thấp. Bên cạnh đó, lại không có cách chữa trị nào cho các tổn thương thần kinh. Tế bào gốc, thông qua khả năng biệt hóa thành nhiều loại tế bào mô, có thể có tác dụng trong việc tái tạo mô thần kinh. Các nghiên cứu thực nghiệm trên động vật được tiến hành bởi Yasuda47 đã cho thấy kết quả đáng khích lệ. Các nghiên cứu tương tự khác đã chỉ ra các kết quả khác nhau. Loại tế bào gốc, mà có thể sẽ cung cấp các kết quả tốt hơn, và cơ chế thực tế mà các tế bào gốc hoạt động vẫn chưa được quyết định. Trước khi các kết quả theo dõi lâu dài ủng hộ cho việc sử dụng và độ an toàn của tế bào gốc, việc sử dụng chúng ở bênh nhân chấn thương tủy sống có thể không được khuyến nghị. III. KẾT LUẬN Liệu pháp tế bào gốc là một lựa chon hấp dẫn để điều trị các bệnh khó chữa. Nó được sử dụng dựa trên nguyên tắc sinh học cơ bản. Tuy nhiên, ta có nên chấp nhận liệu pháp tế bào gốc trong tất cả các điều kiện thảo luận ở trên hay không vẫn còn là nghi vấn. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra các kết quả tốt nhưng đồng thời cũng có nhiều trường hợp có thất bại. Điều này cũng có thể liên quan đến sự lựa chọn bệnh nhân, loại tế bào được sử dụng, nồng độ của các tế bào được sử dụng, các phương pháp ứng dụng, khoảng thời gian theo dõi và công cụ đánh giá giữa các nghiên cứu. Các thử nghiệm ngẫu nhiên và dài hạn trên người cần phải có kết quả tốt trước khi một người có thể thực sự được khuyến nghị sử dụng các tế bào này. Thành lập các hồ sơ an toàn cũng không kém phần quan trọng, vì với nhiều người tế bào iPS đã được chứng minh là gây quái thai. Vì vậy, ta nên thận trọng khi ứng dụng tế bào gốc nhưng bất cứ nơi nào có sẵn trường hợp thích hợp thì vẫn nên sử dụng phương pháp này. Phần 1: Phẫu thuật cột sống 25 Tài liệu tham khảo 1. Đỗ Trung Phấn (2003): “Cơ sở tế bào của tạo máu”. Bệnh lý tế bào tạo máu, NXB Y HỌC, 11-65. 2. Nguyễn Thị Thu Hà và cộng sự (2007): “Ứng dụng ghép tế bào gốc tạo máu tự thân cho bệnh nhân Non-Hodgkin Lymphoma”. TẠP CHÍ Y DƯỢC HỌC LÂM SÀNG 108, 1: 13-15. 3. Deng W, Fischer O, Prockop DJ (2001): “In vitro differentiation of human bone marrow stromal cells into early progenitors of neural cells by coditions that inrease intracellular cyclic AMP”. BIOCHEM BIOPHYS RES COMMUN, 282: 148-152 4. Evaluation of posterolateral spinal fusion using mesenchymal stem cells: differences with or without osteogenic differentiation.Nakajima T, Iizuka H, Tsutsumi S, Kayakabe M, Takagishi KSpine (Phila Pa 1976). 2007 Oct 15; 32(22):2432-6. 5. A.C.H Geurts et al (2010): “Bone marrow stromal cells for repair of the spinal cord”. QUICKPRINT NIJMEGEN, pg 19, 35 6. Padovan CS, Jahn K, Birnbaum T, et al (2003): “Expression of neuronal markers in differentiated marrow stromal cells and CD133+ stem-like cell”. CELL TRANSPL; 12: 839-848. 7. Intervertebral disk degeneration and emerging biologic treatments. Kepler CK, Anderson DG, Tannoury C, Ponnappan RK, J Am Acad Orthop Surg. 2011 Sep; 19(9):543-53. 8. Percutaneous reinsertion of the nucleus pulposus. An experimental study. Nishimura K, Mochida J. Spine (Phila Pa 1976). 1998 Jul 15; 23(14):1531-8; discussion 1539. 9. Fawcett JW, Curt A, Steeves JD et al (2007): “Guidelines for the conduct of clinical trials for spinal cord injury as developed by the ICCP panel”. SPINAL CORD; 45:190–242. 10. Park HS, Park HC, Shim YS et al (2005): “Treatment of complete spinal cord injury patients by autologous bone marrow cell transplantation and administration of granulocyte-macrophage colony stimulating factor”. TISSUE ENG; 11:913–922. 11. Yoon SH, Shim YS, Park YH et al (2007): “Complete spinal cord injury treat- ment using autologous bone marrow cell transplantation and bone marrow stimulation with granulocyte macrophage-colony stimulating factor: phase I/II clinical train”. STEM CELLS ;25:2066–2073. 12. Transplantability and therapeutic effects of bone marrow-derived mesenchymal cells in children with osteogenesis imperfecta. Horwitz EM, Prockop DJ, Fitzpatrick LA, Koo WW, Gordon PL, Neel M, Sussman M, Orchard P, Marx JC, Pyeritz RE, Brenner MK, Nat Med. 1999 Mar; 5(3):309-13. 13. Mesenchymal stem cells for treatment of steroid- resistant, severe, acute graft-versus-host disease: a phase II study. Le Blanc K, Frassoni F, Ball L, Locatelli F, Roelofs H, Lewis I, Lanino E, Sundberg B, Bernardo ME, Remberger M, Dini G, Egeler RM, Bacigalupo A, Fibbe W, Ringdén O, Developmental Committee of the European Group for Blood and Marrow Transplantation. Lancet. 2008 May 10; 371(9624):1579-86. 14. Effect on left ventricular function of intracoronary transplantation of autologous bone marrow mesenchymal stem cell in patients with acute myocardial infarction. Chen SL, Fang WW, Ye F, Liu YH, Qian J, Shan SJ, Zhang JJ, Chunhua RZ, Liao LM, Lin S, Sun JP .Am J Cardiol. 2004 Jul 1; 94(1):92-5. 15. A phase I clinical trial of the treatment of Crohn’s fistula by adipose mesenchymal stem cell transplantation. García-Olmo D, García-Arranz M, Herreros D, Pascual I, Peiro C, Rodríguez-Montes JA. Dis Colon Rectum. 2005 Jul; 48(7):1416-23. 16. Phase 1 trial of autologous bone marrow mesenchymal stem cell transplantation in patients with decompensated liver cirrhosis. Mohamadnejad M, Alimoghaddam K, Mohyeddin-Bonab M, Bagheri M, Bashtar M, Ghanaati H, Baharvand H, Ghavamzadeh A, Malekzadeh R. Arch Iran Med. 2007 Oct; 10(4):459-66.
File đính kèm:
ung_dung_te_bao_goc_trong_chan_thuong_chinh_hinh_cac_bang_ch.pdf

