Ứng dụng phương pháp PRC kỹ thuật số kết hợp tạo vi giọt (droplet digital PRC) trong phân tích đột biến gen phục vụ điều trị đích ung thư
Thuốc điều trị ung thư (UT) thuộc nhóm ức chế hoạt tính của enzyme tyrosine kinase (tyrosine kinase
inhibitor, TKI) được cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Mỹ (FDA) phê duyệt cho điều trị UT phổi không tế
bào nhỏ. Nghiên cứu lâm sàng cho thấy các bệnh nhân UT mang những kiểu đột biến đặc trưng cho đáp ứng
khác nhau với các thế hệ thuốc TKI khác nhau và sau một thời gian điều trị biểu hiện các đột biến kháng thuốc
mới. Do đó, việc xác định các kiểu đột biến đặc trưng này rất quan trọng cho dự đoán và đề ra liệu pháp điều trị
trúng đích hiệu quả, đồng thời theo dõi đáp ứng của bệnh nhân trong quá trình điều trị lâm sàng. Sinh thiết mô
u hiện vẫn là phương pháp chuẩn vàng cho xác định các đột biến gen. Tuy nhiên, trở ngại lớn nhất của phương
pháp xâm lấn này là khó tiến hành lấy mẫu nhiều lần và trong nhiều trường hợp không thể thu nhận đủ mô u
cho phân tích di truyền. Gần đây phương pháp sinh thiết lỏng dựa trên việc phát hiện các DNA ngoại bào được
phóng thích từ tế bào ung thư (circulating tumor DNA, ctDNA) cho phép phân tích di truyền của khối u. Tuy
nhiên do tỉ lệ DNA phóng thích bởi các tế bào UT so với DNA của các loại tế bào khác thường rất thấp nên cần
một phương pháp có độ nhạy cao để có thể phát hiện các đột biến với tần suất thấp. Trong nghiên cứu này,
chúng tôi xây dựng phương pháp PCR kỹ thuật số kết hợp với tạo vi giọt (digital droplet PCR, ddPCR) nhằm
phân tích các đột biến liên quan đến điều trị đích UT phổi trên gen EGFR từ các mẫu sinh thiết lỏng (ctDNA).
Phương pháp ddPCR được xây dựng có ngưỡng phát hiện đột biến ở tần suất 0.5-1% (nghĩa là 5-10 phân tử
DNA ung thư trong 10.000 phân tử DNA bình thường). Qui trình ddPCR này được sử dụng để phát hiện đột
biến trên các mẫu sinh thiết lỏng và mô u của 43 bệnh nhân UT phổi không tế bào nhỏ. Phương pháp ddPCR
cho kết quả tương đồng cao (87.5%) khi so sánh kết quả phân tích đột biến từ các mẫu sinh thiết lỏng và mô u
tương ứng của cùng bệnh nhân. Như vậy, ddPCR là phương pháp có độ nhạy cao, đơn giản và dễ dàng triển
khai hỗ trợ quá trình điều trị UT lâm sàng
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ứng dụng phương pháp PRC kỹ thuật số kết hợp tạo vi giọt (droplet digital PRC) trong phân tích đột biến gen phục vụ điều trị đích ung thư
GIẢI PHẪU BỆNH TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 229 ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP PCR KỸ THUẬT SỐ KẾT HỢP TẠO VI GIỌT (DROPLET DIGITAL PCR) TRONG PHÂN TÍCH ĐỘT BIẾN GEN PHỤC VỤ ĐIỀU TRỊ ĐÍCH UNG THƯ TRẦN LÊ SƠN1,2, PHẠM THỊ HỒNG ANH1, TRẦN THANH TRƯỜNG1, TRẦN VŨ UYÊN1, ĐẶNG MAI ANH TUẤN3, ĐINH NGUYỄN THIÊN KIM4, PHAN VĔN HIẾU3, GIANG HOA1,2, NGUYỄN HOÀI NGHĨA5 TÓM TẮT Thuốc điều trị ung thư (UT) thuộc nhóm ức chế hoạt tính của enzyme tyrosine kinase (tyrosine kinase inhibitor, TKI) được cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Mỹ (FDA) phê duyệt cho điều trị UT phổi không tế bào nhỏ. Nghiên cứu lâm sàng cho thấy các bệnh nhân UT mang những kiểu đột biến đặc trưng cho đáp ứng khác nhau với các thế hệ thuốc TKI khác nhau và sau một thời gian điều trị biểu hiện các đột biến kháng thuốc mới. Do đó, việc xác định các kiểu đột biến đặc trưng này rất quan trọng cho dự đoán và đề ra liệu pháp điều trị trúng đích hiệu quả, đồng thời theo dõi đáp ứng của bệnh nhân trong quá trình điều trị lâm sàng. Sinh thiết mô u hiện vẫn là phương pháp chuẩn vàng cho xác định các đột biến gen. Tuy nhiên, trở ngại lớn nhất của phương pháp xâm lấn này là khó tiến hành lấy mẫu nhiều lần và trong nhiều trường hợp không thể thu nhận đủ mô u cho phân tích di truyền. Gần đây phương pháp sinh thiết lỏng dựa trên việc phát hiện các DNA ngoại bào được phóng thích từ tế bào ung thư (circulating tumor DNA, ctDNA) cho phép phân tích di truyền của khối u. Tuy nhiên do tỉ lệ DNA phóng thích bởi các tế bào UT so với DNA của các loại tế bào khác thường rất thấp nên cần một phương pháp có độ nhạy cao để có thể phát hiện các đột biến với tần suất thấp. Trong nghiên cứu này, chúng tôi xây dựng phương pháp PCR kỹ thuật số kết hợp với tạo vi giọt (digital droplet PCR, ddPCR) nhằm phân tích các đột biến liên quan đến điều trị đích UT phổi trên gen EGFR từ các mẫu sinh thiết lỏng (ctDNA). Phương pháp ddPCR được xây dựng có ngưỡng phát hiện đột biến ở tần suất 0.5-1% (nghĩa là 5-10 phân tử DNA ung thư trong 10.000 phân tử DNA bình thường). Qui trình ddPCR này được sử dụng để phát hiện đột biến trên các mẫu sinh thiết lỏng và mô u của 43 bệnh nhân UT phổi không tế bào nhỏ. Phương pháp ddPCR cho kết quả tương đồng cao (87.5%) khi so sánh kết quả phân tích đột biến từ các mẫu sinh thiết lỏng và mô u tương ứng của cùng bệnh nhân. Như vậy, ddPCR là phương pháp có độ nhạy cao, đơn giản và dễ dàng triển khai hỗ trợ quá trình điều trị UT lâm sàng. ABSTRACT Detection of clinically actionable mutations in cancer liquid biopsies using droplet digital polymerase chain reaction (ddPCR) Tyrosine kinase inhibitors (TKIs) are a series of pharmaceutical drugs approved by the Food and Drug Administration (FDA) for treatment of many types of cancers including non-squamous cell lung cancer. Clinical studies showed that patients with somatic mutations in certain cancer driver genes exhibit strong correlation with therapeutic efficacy to different types of TKIs and tend to acquire new mutations rendering resistance to previous TKI therapies. Hence, the identification of such mutations is critically important for effective genotype- directed therapies and assessment of patients’ responses in clinical practice. Tumor biopsy remains the gold standard for assessing genetic mutations in both lung and colorectal cancer. However, it is not always feasible to obtain sufficient tumor tissue or perform repeat biopsy in these patients. Recently, “liquid biopsy” which involves isolating cell free DNA released by cancer cells into the bloodstream (circulating tumor DNA, ctDNA) represents a noninvasive and potential technique for tumor genetic analysis. Due to the relatively low 1 Công ty giải pháp gene 2 Viện di truyền Y học 3 Trung tâm Pháp Y TP.HCM 4 Bệnh viện Đa khoa Tân Hưng 5 Đại học Y dược TP.HCM GIẢI PHẪU BỆNH TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 230 abundance of ctDNA in the peripheral circulation, a highly sensitive genotyping assay is required to detect such low frequency mutations. In this study, we developed a novel digital droplet PCR (ddPCR) assays to identify clinically actionable mutations of a cancer driver gene, EGFR. The limit of detection of our assays was 0.5-1% (5-10 target mutation DNA molecules in 10.000 wild type DNA molecules). These assays were further applied to evaluate the sensitivity and specificity for detection of mutations in both plasma and matched formalin- fixed paraffin-embedded (FFPE) tissue samples of 43 non-small cell lung cancer patients. Our results suggested that ddPCR based mutation detection assays are highly accurate and accessible platforms for directing and assisting targeted cancer therapy in clinical practice. ĐẶT VẤN ĐỀ Tyrosine kinase là nhóm enzyme đóng vai trò quan trọng trong các con đường tín hiệu kiểm soát chu trình phân bào và được chứng minh liên quan đến nhiều dạng ung thư[1]. Hiện nay, một nhóm gồm 37 chất ức chế hoạt tính của các enzyme này (Tyrosine kinase inhibitor, TKI) được FDA chấp thuận cho sử dụng cho điều trị UT lâm sàng[2]. Tuy nhiên, hiệu quả điều trị của nhóm thuốc này được quyết định bởi kiểu đột biến đặc trưng mà bệnh nhân biểu hiện (Bảng 1). Chẳng hạn, nghiên cứu lâm sàng cho thấy bệnh nhân ung thư (UT) phổi không tế bào nhỏ (Non-small-cell lung carcinoma, NSCLC) mang các đột biến thay thế amino acid thứ 858 (L858R) hay đột biến mất đoạn vùng exon19 (del19) trên gen mã hóa thụ thể tyrosine kinase EGFR cho đáp ứng tốt với nhóm TKI thế hệ I như Iressa (Gefitinib) và Tarceva (Erlotinib)[3]. Tuy nhiên, sau một thời gian điều trị (khoảng 1-2 nĕm), hầu hết các bệnh nhân này biểu hiện một đột biến kháng thuốc T790M cũng trên gen EGFR[4]. Nghiên cứu lâm sàng cho thấy các trường hợp NSCLC mang đột biến T790M lại cho đáp ứng tốt với TKI thế hệ thứ ba như AZD9291 (Osimertinib)[5]. Như vậy, việc xác định các đột biến của UT có ý nghĩa quan trọng giúp dự đoán đáp ứng với thuốc và đề ra phác đồ điều trị trúng đích thích hợp cho bệnh nhân. Bảng 1. Các kiểu đột biến khảo sát và tính đáp ứng với thuốc kháng UT Kí hiệu Kiểu đột biến Tính đáp ứng với thuốc TKI Thế Hệ I (erlotinib, gefitinib) TKI Thế Hệ II (afatinib, dacomitinib, neratinib) TKI Thế Hệ III (Osimertinib) del19 Mất đoạn Nucleotide thuộc vùng exon 19, gen EGFR + L858R Thay thế amino acid tại codon 858, exon 21, gen EGFR + + + T790M Thay thế amino acid tại codon 790, exon 20, gen EGFR - + (+): tĕng đáp ứng với thuốc (-): giảm đáp ứng với thuốc Hiện nay sinh thiết mô u vẫn được xem là chuẩn vàng cho đánh giá di truyền nhưng phương pháp này mang tính xâm lấn và khó thực hiện thu mẫu nhiều lần để theo dõi quá trình điều trị[6]. Ngoài ra, kết quả phân tích di truyền tại một vị trí sinh thiết mô u xác định không phản ảnh được tính phức tạp và đa dạng của khối u, đặc biệt ở các trường hợp u di cĕn[6]. Gần đây, phương pháp sinh thiết lỏng thu nhận các đoạn DNA do các tế bào UT phóng thích vào máu (ctDNA) trong quá trình chết theo chương trình của tế bào (apoptosis) hoặc hoại tử (necrosis) là phương pháp không xâm lấn và được chứng minh có thể hỗ trợ phân tích di truyền khối u[7]. Tuy nhiên, để có thể phát hiện các đột biến trên ctDNA cần một phương pháp có độ nhạy cao vì hàm lượng ctDNA trong máu của bệnh nhân và tần suất của các đột biến thường rất thấp[8]. Nhiều phương pháp đã được phát triển để phát hiện các đột biến trên ctDNA như phương pháp khuyếch đại chịu nhiệt (amplification refractory mutation system, ARMS), giải trình tự thế hệ kế tiếp (next-generation sequencing, NGS) và PCR kỹ thuật số (digital PCR). Nhiều công bố gần đây cho thấy 2 phương pháp ARMS và NGS chưa đạt độ nhạy tốt trong việc phát hiện các đột biến có tần suất thấp[5,9]. GIẢI PHẪU BỆNH TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 231 Phương pháp PCR kỹ thuật số kết hợp tạo vi giọt (droplet digital PCR, ddPCR) được phát triển và thương mại hoá từ nĕm 2011[8]. Phương pháp này cho phép phân tách các phân tử DNA bản mẫu vào hàng chục nghìn giọt dầu và phản ứng PCR sẽ diễn ra độc lập trong từng giọt riêng lẻ này. Kết quả được xác định dựa trên tín hiệu phát huỳnh quang của mẫu dò (probe) sau khi phản ứng PCR kết thúc [10]. Nguyên lý này cho phép ddPCR định lượng tuyệt đối và chính xác đột biến có tần suất <1% trong khi phương pháp PCR định lượng truyền thống (qPCR) chỉ có thể phát hiện các đột biến có tần suất > 1%[10]. Ngoài ra, so với phương pháp giải trình tự thế hệ kế tiếp, ddPCR có thể phát hiện đột biến xác định với độ nhạy tốt hơn và có giá thành thấp hơn[10]. Trong nghiên cứu này chúng tôi xây dựng bộ phản ứng ddPCR để phát hiện các đột biến trên gen EGFR xuất hiện phổ biến nhất ở các trường hợp UT phổi và có liên quan tính đáp ứng của dạng UT này với nhóm thuốc điều trị UT được FDA công nhận. Phương pháp của chúng tôi đạt độ phát hiện các đột biến ở tần suất tối thiểu là 0.5-0.1% (nghĩa là 5-10 phân tử DNA ung thư trong 1,000 phân tử DNA bình thường). Đồng thời, hiệu quả phát hiện đột biến của phương pháp này khi ưng dụng trên mẫu sinh thiết lỏng và sinh thiết mô u đạt độ tương đồng khá cao là 87.5%. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Vật liệu Máu và sinh thiết mô u tương ứng của 43 bệnh nhân UT phổi tế bào không nhỏ (kí hiệu là LBL001- LBL043) được thu nhận tại các bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, Đại Học Y Dược và Thủ Đức. Các bệnh nhân này đều chưa qua điều trị và đồng ý tham gia nghiên cứu. Mẫu sinh thiết mô u sau khi cố định trong formalin và đúc trong nến paraffin (formalin- fixed paraffin-embedded, FFPE) được xác định đặc điểm mô bệnh học và giai đoạn của UT. Trong một số trường hợp mẫu sinh thiết quả nhỏ không thể tiến hành tách DNA và phân tích di truyền. Máu ngoại biên (10ml) sẽ được thu nhận trong ống EDTA Vacutainer (Becton Dickinson) và giữ mát tại 4°C không quá 6 giờ trước khi tiến hành tách chiết DNA ngoại bào (cell free DNA, cfDNA). Phương pháp tách chiết DNA Từ mẫu máu: máu được ly tâm li tâm 2 đợt: 2.000 g trong 10 phút và 16.000 g, 10 phút để tách huyết tương. Bộ kit MagMAX™ Cell-Free DNA Isolation Kit (Thermo Fisher) được sử dụng để tách cfDNA từ các mẫu huyết tương. Từ mẫu mô u FFPE: DNA bộ gen được tách chiết từ các mẫu mô u đã cố định sử dụng bộ kit QIAamp DNA FFPE Tissue Kit (QIAGEN) theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Phương pháp phân mảnh tạo DNA chứng dương Mẫu DNA chuẩn mang các đột biến khảo sát với tần suất đột biến (MAF) xác định được cung cấp bởi Horizon Discovery (Bảng 2). Các mẫu chuẩn mang đột biến này và mẫu không mang đột biến (WT) được phân mảnh ngẫu nhiên bằng bộ kit NEBNext® dsDNA Fragmentase® (New England BioLabs) nhằm tạo các đoạn DNA kích thước tương tự cfDNA (~160bp). DNA sau phân mảnh có kích thước từ 100bp- 450bp được chọn lọc bằng hạt từ Kapa Pure Beads (Roche). Sau đó, DNA chuẩn và DNA WT được định lượng bằng QuantiFluor® dsDNA System (Promega) và trộn với nhau để tạo các mẫu DNA chứng dương có tần suất biến xác định. Tổng lượng DNA đầu vào cũng được sử dụng tương tự như hàm lượng trung bình của DNA ngoại bào tách chiết từ các bệnh nhân ung thư: 1.6ng. Bảng 2. Mẫu chuẩn mang đột biến Genomic DNA chuẩn (Horizon Discovery) Gene Đột biến Tần suất đột biến (%) Structural Control EGFR Del19: ΔE746 - A750 5.3 Tru- Q1 EGFR T790M 4.2 Tru- Q2 EGFR L858R 4.2 Phương pháp droplet digital PCR (ddPCR) Phương pháp ddPCR được thực hiện theo hướng dẫn của hãng Bio-rad gồm 4 giai đoạn chính[11]: Chuẩn bị mẫu: mỗi phản ứng PCR có tổng thể tích là 20l gồm các thành phần chính sau: DNA bản mẫu được định lượng bằng phương pháp bằng Quantus (Promega), 900nM mồi và 250nM mẫu dò, 2X supermix (Bio-rad). Đối với DNA tách chiết từ mẫu FFPE, phản ứng PCR được bổ sung enzym cắt (2 units) giới hạn HindIII và UDG (Uracil DNA glycosylase) (2 units), ủ ở 370C trong 20 phút. Mồi và mẫu dò cho phản ứng phát hiện đột biến EGFR del19 được cung cấp bởi hãng Bio-rad. Với đột biến EGFR T790M và L858R, mồi và mẫu do được chúng tôi thiết kế. Tạo vi giọt: 20.000 vi giọt được tạo bởi hệ thống QX200 droplet genenator (Bio-rad) Phản ứng PCR: Vi giọt được chuyển lên đĩa 96 giếng. Phản ứng PCR được tiến hành với chu trình nhiệt: 95°C trong 10 phút, 94°C trong 30 giây và GIẢI PHẪU BỆNH TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 232 55°C trong 60 giây và lặp lại 40 chu kỳ, 98°C trong 10 phút. Đọc và phân tích kết quả: Sau khi PCR, kết quả nhân bản trong vi giọt được đọc bởi hệ thống QX200 Droplet reader (Bio-Rad) có thể đọc đồng thời 2 màu huỳnh quang khác nhau (FAM và VIC hoặc HEX). Dữ liệu ddPCR được phân tích bằng phần mềm phân tích QuantaSoft (Bio-Rad). KẾT QUẢ Kết quả xác định ngưỡng phát hiện đột biến (Limit of Detection, LOD) Các vị trí đột biến được lựa chọn trong nghiên cứu này là những đột biến xuất hiện phổ biến trên gen gây UT EGFR và có liên quan đến tính đáp ứng thuốc của tế bào UT. Để phát hiện các đột biến này, chúng tôi thiết kế 2 phản ứng multiplex PCR: (1) 1 phản ứng duplex với 2 mẫu dò huỳnh quang khác nhau đặc hiệu cho 2 vị trí đột biến thay thế amino acid là T790M (FAM) và L858R (HEX); (2) 1 phản ứng duplex (Bio-rad) với mẫu dò huỳnh quang (FAM) phát hiện 15 kiểu đột biến mất đoạn trên vùng exon 19 (del19) và mẫu dò huỳnh quang (HEX) đặc hiệu cho trình tự không mang đột biến (WT). 500 300 200 75 500 300 200 75 WT L L MT Hình 1. Kết quả xử lý phân mảnh mẫu DNA không mang đột biến (WT) và mẫu chuẩn DNA mang đột biến (MT). L: thang DNA Trước tiên, chúng tôi tiến hành xác định ngưỡng phát hiện đột biến (LOD) của từng phản ứng PCR này. LOD là giá trị tần suất đột biến thấp nhất mà phương pháp ddPCR cho phép phân biệt mẫu mang đột biến (Mutant, MT) với mẫu không mang đột biến (wild type, WT). Thông số này cũng cho phép đánh giá hiệu quả hoạt động của mồi (primers), mẫu dò (probe) của từng phản ứng ddPCR. LOD được xác định dựa trên các mẫu chuẩn thương mại (Horizon) mang các đột biến khảo sát có tần suất xác định (Bảng 2). Các mẫu chuẩn này được tiến hành phân mảnh để tạo những đoạn DNA có kích thước tương tự ctDNA. Kết quả điện di (Hình 1) cho thấy sau khi xử lý phân mảnh, mẫu không mang đột biến (WT) và mẫu chuẩn mang đột biến (MT) xuất hiện vệt “smear” là những đoạn DNA bị đứt gãy, trong đó có những đoạn có kích thước khoảng 160 bp, tương tự như cfDNA. Sau khi thu hồi các đoạn có kích thước tương tự ctDNA, chúng tôi tiến hành pha loãng mẫu MT với mẫu WT để thu được các mẫu có phổ tần suất đột biến khác nhau. Các mẫu này được chạy cùng với 2 mẫu chứng âm là mẫu chỉ có DNA WT (WT) và mẫu không có DNA bản mẫu (No template control, NTC). Chứng âm được sử dụng để kiểm soát khả nĕng ngoại nhiễm và tính đặc hiệu của mồi và mẫu dò của phản ứng ddPCR. Kết quả phân tích tín hiệu huỳnh quang của hơn 10.000 vi giọt trong các mẫu chứng âm (WT và NTC) (Hình 2) đều không thấy xuất hiện vi giọt có tín hiệu huỳnh quang của mẫu dò đặc hiệu cho các trình tự đột biến. Ngược lại, tín hiệu huỳnh quang của mẫu dò đột biến xuất hiện ở các mẫu chuẩn mang đột biến khảo sát và có số lượng vi giọt dương tính giảm dần khi tần suất đột biến giảm. Kết quả này chứng tỏ mồi và mẫu dò sử dụng trong các phản ứng ddPCR đặc hiệu cho các vị trí đột biến khảo sát. Ở vị trí đột biến T790M, tần suất tối thiểu mà ddPCR vẫn phát hiện được vi giọt dương tính là 1% (Hình 2a). Trong khi, phản ứng ddPCR phát hiện các vị trí đột biến còn lại gồm L858R (Hình 2b) và Del19 (Hình 2c) đạt tần suất tối thiểu là 0.5%. Như vậy, phản ứng ddPCR trong nghiên cứu này đạt LOD là 0.5-1%, nghĩa là có thể phát hiện được 5-10 bản sao DNA mang các đột biến này trong tổng số 1000 bản sao DNA phân tích. 4% 1% 0.5% WT NTC E G F R T 7 9 0 M A m p li tu d e Event number 4% 1% 0.5% WT NTC E G F R L 8 5 8 R A m p li tu d e Event number 1% 0.5% 0.1% WT NTC E G F R D e l1 9 A m p li tu d e Event number a b c EGFR T790M EGFR L858R EGFR Del19 Hình 2. Kết quả xác định LOD của phản ứng ddPCR đặc hiệu cho các vị trí đột biến trên gen EGFR Sau khi xử lý phân mảnh, mẫu DNA chuẩn mang các đột biến khảo sát gồm T790M (a), L858R (b) và del19 (c) trên gen EGFR được pha loãng với mẫu DNA không mang đột biến (WT) để đạt phổ tần suất đột biến là 4%, 1%, 0,5% và 0,1%. 1,6ng DNA của mỗi mẫu chuẩn này được sử dụng để xác định LOD. Mẫu chỉ DNA WT và mẫu không có DNA bản mẫu (NTC) được sử dụng làm chứng âm. Điểm bắt GIẢI PHẪU BỆNH TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 233 đầu phát hiện tín hiệu huỳnh quang của mẫu dò đột biến (Threshold, đường màu hồng) được xác định bởi phần mềm QuantaSoft (Bio-Rad). LOD là tần suất đột biến thấp nhất mà phản ứng ddPCR có thể phát hiện được ít nhất 1 vi giọt mang tín hiệu huỳnh quang của mẫu dò đột biến. Kết quả ứng dụng ddPCR phát hiện đột biến gen EGFR của bệnh nhân UT phổi không tế bào nhỏ Sau khi xác lập giá trị LOD của mỗi phản ứng ddPCR, chúng tôi ứng dụng phương pháp này để phân tích đột biến trên cfDNA thu từ mẫu sinh thiết lỏng của 43 bệnh nhân UT phổi không tế bào nhỏ. Mẫu được kết luận là dương tính với đột biến khảo sát khi ddPCR xuất hiện vi giọt có tín hiệu huỳnh quang của mẫu dò đột biến và có tần suất đột biến (MAF, mutation allelic frequency) lớn hơn giá trị LOD đã xác định. Trong số 43 mẫu, chúng tôi phát hiện 7 trường hợp (16.33%) mang một trong các đột biến khảo sát trên gen EGFR. Trong đó, 5 trường hợp mang đột biến L858R và 2 trường hợp mang đột biến del19 đều là các đột biến có đáp ứng tốt với TKI và không có trường hợp mang đột biến kháng thuốc T790M được phát hiện. Bảng 3. Kết quả phát hiện đột biến trên gen EGFR từ mẫu cfDNA và DNA mô u (FFPE) bằng phương pháp ddPCR MT: trình tự đột biến N/A: bệnh nhân không thu được mẫu DNA mô u GIẢI PHẪU BỆNH TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 234 Ngoài ra, chúng tôi tiến hành thu nhận DNA từ các mẫu mô u được cố định trong paraffin (FFPE) của các bệnh nhận này và thực hiện ddPCR để so sánh với kết quả phát hiện đột biến trên mẫu sinh thiết lỏng. Tuy nhiên, do điều kiện bệnh lý của bệnh nhân nên trong một số trường hợp chúng tôi không thể thu đủ mẫu sinh thiết mô u cho phân tích di truyền. Do đó, chúng tôi chỉ tiến hành so sánh kết quả của 32 trường hợp có cả mẫu cfDNA và DNA mô u. Bảng 3 cho thấy ddPCR cho kết quả phát hiện đột biến gen EGFR có mức tương đồng khá cao là 87.5% (28/32) giữa cfDNA thu từ máu và mẫu DNA thu nhận từ mô u tương ứng của cùng một bệnh nhân. Trong đó, đột biến L858R cùng được phát hiện trên cả cfDNA và DNA mô u của 2 bệnh nhân LBL015 và LBL017. Đặc biệt, mẫu LBL015 mang đột biến L858R ở tần suất khá cao trên cả cfDNA và DNA mô u lần lượt là 46.25% và 38.99%. Kết quả này cho thấy bệnh nhân này có thể mang đột biến L858R là dạng đột biến được di truyền (germline mutation). Trong 4 trường hợp có kết quả không tương quan (LBL021, LBL026, LBL030 và LBL033), ddPCR phát hiện được đột biến del19 trên DNA mô u nhưng cho kết quả âm tính trên mẫu cfDNA tương ứng cùng bệnh nhân. Tóm lại, bộ phản ứng ddPCR của chúng tôi xây dựng có thể xác định các kiểu đột biến trên gen EGFR có liên quan đến đáp ứng thuốc của bệnh nhân ung thư phổi từ nguồn mẫu sinh thiết lỏng của và đạt độ tương đồng cao (87.5%) khi so sánh với kết quả trên mẫu sinh thiết mô u. KẾT LUẬN VÀ BIỆN LUẬN Đột biến trên gen EGFR xuất hiện phổ biến ở các bệnh nhân UT phổi không tế bào nhỏ (35%) và liên quan đến tính đáp ứng của bệnh nhân này với các thuốc điều trị UT hiện được công nhận bởi FDA[2]. Hiện nay, việc xác định các đột biến này được tiến hành chủ yếu trên nguồn DNA thu nhận bằng phương pháp sinh thiết mô u. Phương pháp này mang tính xâm lấn nên không thể tiến hành lấy mẫu lặp lại để theo dõi đáp ứng của bệnh nhân trước và sau điều trị và trong nhiều trường hợp không đủ mẫu để phân tích di truyền [6]. Hơn nữa việc lấy mẫu sinh thiết tại một vị trí xác định có thể không phản ảnh được tính đa dạng và phức tạp của khối u[6]. Trong nghiên cứu này, chúng tôi phát triển phương pháp ddPCR có độ nhạy phát hiện đột biến ở tần suất tối thiểu là 0.5% (ngoại trừ đột biến T790M được phát hiện ở LOD 1%). Hiện nay, bộ thử nghiệm thương mại Cobas (Roche) được FDA công nhận và cho lưu hành dựa trên nguyên lý của phản ứng PCR thông thường có thể phát hiện đột biến del19 và L858R ở LOD là 5%[6]. Như vậy, so với bộ kit này phương pháp ddPCR chúng tôi phát triển có độ nhạy hơn 10 lần. Đồng thời, trong nghiên cứu này, chúng tôi chứng minh phương pháp ddPCR có thể ứng dụng trong lâm sàng để phát hiện đột biến trên ctDNA từ các mẫu sinh thiết lỏng của bệnh nhân UT phổi với độ tương đồng cao (87.5%) khi so sánh với kết quả phát hiện đột biến trên mẫu DNA mô u. Các trường hợp cho kết quả không tương quan giữa ctDNA và DNA mô u có thể do 1) tế bào ung thư phóng thích ít ctDNA hoặc khối u ở vị trí mà DNA ngoại bào khó được phóng thích vào máu ngoại vị hoặc tỉ lệ ctDNA mang đột biến quá thấp dưới ngưỡng phát hiện của phương pháp 2) sinh thiết mô u tại vị trí không có các dòng tế bào UT mang đột biến. Những nghiên cứu lâm sàng với số lượng mẫu lớn trước đây (AURA và AURA3) cho thấy với những mẫu cfDNA có tần suất đột biến >1% thì phương pháp ddPCR có thể đạt độ nhạy phát hiện là 97% và mức âm tính giả chấp nhận là 3%[12]. Vì vậy, Hiệp Hội Ung Thư Hoa Kỳ (ASCO) khuyến cáo nếu kết quả phát hiện các đột biến trên cfDNA là dương tính sẽ cho phép kết luận là bệnh nhân mang đột biến khảo sát. Tuy nhiên, do giới hạn về độ nhạy của phương pháp sử dụng nên trong những trường hợp kết quả âm tính trên cfDNA thi ASCO khuyến cáo cần phải tiến hành phân tích đột biến trên mẫu mô u để có thể đưa ra kết luận chính xác[12]. Tóm lại, với độ nhạy tốt và việc phân tích kết quả không quá phức tạp, ddPCR là phương pháp có thể triển khai phát hiện một số đột biến gen xác định nhằm hỗ trợ điều trị ung thư lâm sàng. Đặc biệt, phương pháp này có ý nghĩa lớn trong các trường hợp bệnh nhân ung thư đã di cĕn hoặc đã qua phẫu thuật mà sinh thiết mô u không thể thực hiện. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Schlessinger J. Cell signaling by receptor tyrosine kinases. Cell 2000; 103: 211-25. 2. Bhullar KS, Lagaron NO, McGowan EM, Parmar I, Jha A, Hubbard BP, et al. Kinase-targeted cancer therapies: progress, challenges and future directions. Molecular cancer 2018; 17: 48. 3. Douillard JY, Ostoros G, Cobo M, Ciuleanu T, McCormack R, Webster A, et al. First-line gefitinib in Caucasian EGFR mutation-positive NSCLC patients: a phase-IV, open-label, single- arm study. British journal of cancer 2014; 110: 55-62. 4. Yu HA, Arcila ME, Rekhtman N, Sima CS, Zakowski MF, Pao W, et al. Analysis of tumor specimens at the time of acquired resistance to EGFR-TKI therapy in 155 patients with EGFR- mutant lung cancers. Clinical cancer research: GIẢI PHẪU BỆNH TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 235 an official journal of the American Association for Cancer Research 2013; 19: 2240-7. 5. Gu J, Zang W, Liu B, Li L, Huang L, Li S, et al. Evaluation of digital PCR for detecting low-level EGFR mutations in advanced lung adenocarcinoma patients: a cross-platform comparison study. Oncotarget 2017; 8: 67810- 20. 6. Kim SS, Choi HJ, Kim JJ, Kim MS, Lee IS, Byun B, et al. Droplet digital PCR-based EGFR mutation detection with an internal quality control index to determine the quality of DNA. Scientific reports 2018; 8: 543. 7. Crowley E, Di Nicolantonio F, Loupakis F, Bardelli A. Liquid biopsy: monitoring cancer- genetics in the blood. Nature reviews. Clinical oncology 2013; 10: 472-84. 8. Hindson BJ, Ness KD, Masquelier DA, Belgrader P, Heredia NJ, Makarewicz AJ, et al. High- throughput droplet digital PCR system for absolute quantitation of DNA copy number. Analytical chemistry 2011; 83: 8604-10. 9. Feng WN, Gu WQ, Zhao N, Pan YM, Luo W, Zhang H, et al. Comparison of the SuperARMS and Droplet Digital PCR for Detecting EGFR Mutation in ctDNA From NSCLC Patients. Translational oncology 2018; 11: 542-5. 10. Taylor SC, Laperriere G, Germain H. Droplet Digital PCR versus qPCR for gene expression analysis with low abundant targets: from variable nonsense to publication quality data. Scientific reports 2017; 7: 2409. 11. Bio-Rad Laboratories I. Rare Mutation Detection Best Practices Guidelines. 12. Meador C, Hu Y, Yang JC-H, Mok T, Laus G, Hovey T, et al.
File đính kèm:
ung_dung_phuong_phap_prc_ky_thuat_so_ket_hop_tao_vi_giot_dro.pdf

